Kết luận số 50-KL/TW, ngày 29/10/2012 của Hội nghị Trung ương 6
khóa XI về “Tiếp tục sắp
xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước”.
I. CHỦ TRƯƠNG,
ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG VỀ KINH TẾ NHÀ NƯỚC VÀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TỪ THỜI KỲ ĐỔI
MỚI ĐẾN NAY
1. Về vai trò của kinh tế nhà nước và Doanh nghiệp nhà nước
Thực hiện
đường lối đổi mới, trong suốt hơn 20 năm qua, Đảng ta luôn quan tâm đổi mới,
phát triển kinh tế nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế nhà nước và doanh
nghiệp nhà nước có vị trí đặc biệt trong các chủ trương và đường lối phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
- Nền kinh tế
nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế nhiều thành
phần. Đó là một tất yếu khách quan và cần thiết. Đại hội Đảng lần thứ VI (năm
1986), Đại hội đánh dấu bước ngoặt của công cuộc đổi mới, đã khẳng định: thực
hiện nhất quán, lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ
trương này được Đại hội VII, Đại hội VIII của Đảng tiếp tục khẳng định và bổ
sung, làm rõ thêm.
- Tại Đại hội
Đảng lần thứ VII (năm 1991), nêu rõ: “Khẩn trương sắp xếp lại và đổi mới quản
lý kinh tế quốc doanh, bảo đảm kinh tế quốc doanh phát triển có hiệu quả, nắm
vững những lĩnh vực và ngành then chốt để phát huy vai trò chủ đạo trongnền
kinh tế”, (trước đây, khái niệm thường dùng là kinh tế quốc doanh để chỉ bộ
phận kinh tế thuộc sở hữu Nhà nước, do Nhà nước trực tiếp quản lý và kinh
doanh).
Văn kiện Hội
nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994), khái niệm kinh tế
quốc doanh không được sử dụng nữa mà thay vào đó là khu vực doanh nghiệp nhà
nước. Vai trò chủ đạo của khu vực doanh nghiệp Nhà nước “thể hiện ở chỗ mở
đường và hỗ trợ cho các thành phần khác phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng
nhanh và lâu bền của nền kinh tế, là một công cụ có sức mạnh vật chất của Nhà
nước điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa”.
- Từ Đại hội
Đảng lần VIII (năm 1996) trở đi, khái niệm kinh tế Nhà nước đã được sử dụng phổ
biến và hoàn toàn thay thế cho khái niệm kinh tế quốc doanh. Vai trò chủ đạo
của kinh tế nhà nước được nêu cụ thể: “tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu
quả kinh tế Nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo: làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng
trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ
các thành phần kinh tế khác cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để Nhà nước
thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô; tạo nền tảng cho chế độ xã hội
mới”. Như vậy, Đảng ta luôn luôn khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước trong nền kinh tế nhiều thành phần.
- Tại Đại hội
Đảng lần thứ IX (năm 2001) lại nêu: “Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà
nước để thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Kinh tế nhà nước là
lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết
vĩ mô nền kinh tế; tập trung đầu tư cho kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và một
số cơ sở công nghiệp quan trọng. Doanh nghiệp Nhà nước giữ những vị trí then
chốt trong nền kinh tế; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu
gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp
luật”.
Đặc biệt, Nghị
quyết Trung ương 3 khoá IX đã đề ra các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải
pháp lớn về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh
nghiệp nhà nước giai đoạn 2001-2010; trong đó đề ra các quan điểm chỉ đạo:
“Kinh tế nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Doanh
nghiệp nhà nước (gồm doanh nghiệp nhà nước giữ 100% vốn và doanh nghiệp nhà
nước giữ cổ phần chi phối) phải không ngừng đựoc làm công cụ vật chất quan
trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết kinh tế vĩ mô, làm lực lượng nòng
cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội nhập kinh
tế quốc tế,…”.
Tiếp đó, Hội
nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã xác định chủ trương về
tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực
doanh nghiệp nhà nước: “Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá và mở rộng diện các doanh
nghiệp nhà nước cổ phần hoá, kể cả một số tổng công ty và doanh nghiệp lớn
trong các ngành như điện lực, luyện kim, cơ khí, hoá chất, phân bón, xi măng,
xây dựng, vận tải đường bộ, đường sông, hàng không, hàng hải, viễn thông, ngân hàng,
bảo hiểm…”.
- Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ X (năm 2006) tiếp tục khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế
Nhà nước, đồng thời chính thức nêu bật vai trò của hình thức kinh tế đa sở hữu
với chủ trương “khuyến khích phát triển mạnh hình thức kinh tế đa sở hữu mà chủ
yếu là các doanh nghiệp cổ phần thông qua việc đẩy mạnh cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước và phát triển các doanh nghiệp cổ phần mới, để hình thức kinh
tế này trở thành phổ biến và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong nền kinh
tế nước ta”.
Đối với các
doanh nghiệp nhà nước, Đại hội cũng đã xác định chủ trương tiếp tục yêu cầu đẩy
mạnh sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh; trong đó nhấn mạnh
giải pháp cổ phần hoá, thúc đẩy việc hình thành một số tập đoàn kinh tế và tổng
công ty nhà nước mạnh, đa sở hữu, đa ngành, đa lĩnh vực; yêu cầu đổi mới cơ chế
quản lý, giám sát hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
- Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI (năm 2011) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó xác định chủ trương “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và
hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng
của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh
lành mành. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng
được củng cố và phát triển. Kinh
tế nhà nước cùng với kinh tế
tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân…”.
Theo tinh thần
và định hướng chỉ đạo các kỳ Đại hội nêu trên, kinh tếNhà nước và doanh nghiệp nhà nước có những vai trò tổng hợp
sau đây:
- Kinh tế nhà
nước có vai trò chủ đạo, nền tảng và quyết định trong việc giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất
nước.
- Doanh nghiệp
nhà nước làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để
Nhà nước định hướng và điều
tiết vĩ mô, là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Một số kết quả đạt được trong thời kỳ
đổi mới đến nay
Cải cách khu
vực kinh tế nhà nước và doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam đã bắt đầu từ đầu những năm
1990. Đây là một trong những nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới nền kinh
tế.
Qua hơn 20 năm
thực hiện cải cách khu vực kinh tế nhà nước và doanh nghiệp nhà nước đã thu
được một số kết quả nhất định. Cơ cấu khu vực doanh nghiệp nhà nước đã được
điều chỉnh theo hướng giảm số lượng doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong những
ngành, lĩnh vực mà Nhà nước không cần nắm giữ và tập trung hơn vào những ngành,
lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng, tạo khoảng trống cho khu vực tư nhân
tham gia hoạt động. Mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động và quản lý doanh nghiệp
nhà nước đã được đổi mới…
Số lượng doanh
nghiệp nhà nước trong nhiều ngành, lĩnh vực đã giảm đi rất nhiều so với trước
đây. Cụ thể: doanh nghiệp 100% vốn nhà nước giảm từ con số 12.300 năm 1992
xuống còn 5.655 doanh nghiệp năm 2001 và 1.060 doanh nghiệp vào năm 2011.
Tuy nhiên,
trên 20 năm đổi mới cải cách doanh nghiệp nhà nước, khu vực này vẫn chưa đạt
được những kỳ vọng. Số lượng doanh nghiệp nhà nước còn lớn, tồn tại ở hầu hết
các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ vị thế độc quyền
trong các ngành, lĩnh vực quan trọng, như: điện, than, dầu khí, xăng dầu, bưu
chính viễn thông, vận chuyển đường khống và đường sắt… Mô hình tổ chức, quản
trị chưa theo kịp thông lệ kinh tế thị trường, chưa tách bạch được chức năng
chủ sở hữu nhà nước với chức năng quản lý nhà nước…
Do đó, cải
cách khu vực doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới đòi hỏi phải mang tính
toàn diện, cải cách cả tư duy lẫn hành động và phải bắt đầu từ việc định vị lại
vai trò, chức năng của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế; xác định ngành,
lĩnh vực duy trì sở hữu Nhà nước; xác định các giải pháp tiếp tục đổi mới và
phát triển doanh nghiệp.
II. SỰ CẦN
THIẾT BAN HÀNH KẾT LUẬN VỀ TIẾP TỤC SẮP XẾP, ĐỔI MỚI VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1. Hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết
Trung ương 3 (khóa IX), Trung ương 9 (khoá IX) và Nghị quyết Đại hội X của Đảng
về sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, các
ngành, các cấp đã tổ chức quán triệt và thực hiện quan điểm, chủ trương của
Đảng, Nhà nước một cách khá đồng bộ, sâu rộng, đạt được những kết quả quan
trọng. Doanh nghiệp nhà nước đã được sắp xếp lại một bước (từ 5374 doanh nghiệp
giảm còn 1060 doanh nghiệp), tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt nhà
nước cần nắm giữ, đứng vững và có bước phát triển, góp phần vào thành tựu chung
của đất nước; chi phối được những ngành then chốt của nền kinh tế, góp phần đưa
kinh tế nhà nước từng bước xác định vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
Giá trị sản
phẩm của doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong GDP, trong tổng thu
ngân sách, kim ngạch xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư với nước ngoài; là lực
lượng quan trọng thực hiện các chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai,
bảo đảm nhiều sản phẩm, dịch vụ công thiết yếu cho xã hội, cho nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh. Các doanh nghiệp nhà nước ngày càng thích ứng hơn với kinh tế
thị trường, trình độ quản lý, khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ
ngày càng cao, hiệu quả và sức cạnh tranh từng bước được nâng lên.
Tuy nhiên, quá
trình cơ cấu lại và đổi mới, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn chậm; tổ
chức triển khai chưa tốt, thiếu chỉ đạo chặt chẽ, một số doanh nghiệp nhà nước
gây thất thoát tài sản, đất đai, vốn liếng, làm hư hỏng cán bộ.
Vai trò công nhân tham gia cổ phần hóa trong các doanh nghiệp nhà nước
còn mờ nhạt; hiệu quả hoạt động, năng lực cạnh tranh thấp, chiếm tới 70 % tỷ lệ
nợ xấu, chưa tương xứng với nguồn lực được đầu tư, làm hạn chế vai trò đầu tàu.
Một bộ phận doanh nghiệp nhà nước chưa làm tốt chức năng, nhiệm vụ được giao,
nhất là chưa làm tốt vai trò mở đường, dẫn dắt, thúc đẩy các thành phần kinh tế
khác phát triển, thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị gia tăng.
Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và quản lý chủ sở hữu nhà nước còn
bất cập. Mô hình tổ chức đảng trong doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự phù hợp
với mô hình tổ chức, quản lý doanh nghiệp; vai trò lãnh đạo chưa rõ. Nhiều sai
phạm chậm được phát hiện, xử lý.
Các nguyên
nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan của hạn chế, yếu kém là những sai sót,
khuyết điểm trong công tác lựa chọn, bổ nhiệm cán bộ quản trị các tập đoàn,
tổng công ty; trong phân cấp cơ quan quản lý và công tác kiểm tra, giám sát
hoạt động doanh nghiệp; yêu cầu các cơ quan liên quan cần nghiên cứu kỹ các bài
học sâu sắc được rút ra từ sự đổ vỡ của Vinashin và yếu kém của Vinalines…
2. Trong thời gian tới cần tiếp tục xác
định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN; doanh nghiệp nhà nước phải là nòng cốt để nhà nước điều tiết nền
kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô. Do đó, phải khẩn trương hoàn thành sắp xếp các
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước hiện có để tập trung vào các ngành, lĩnh vực
then chốt và địa bàn quan trọng. Tái cơ cấu mạnh mẽ các tập đoàn, tổng công ty
nhà nước để hình thành những tập đoàn, tổng công ty nhà nước mạnh, đa sở hữu,
trong đó sở hữu nhà nước là chi phối, hoạt động sản xuất, kinh doanh hiệu quả;
hoàn thiện khung pháp lý đồng bộ để tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát chủ
sở hữu và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà
nước. Quan tâm hơn nữa đến công tác cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các doanh
nghiệp nhà nước theo hướng có phân cấp quản lý rõ ràng; lãnh đạo, kiểm soát
chặt chẽ quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước.
3. Ban Chấp hành Trung ương quyết định
ban hành Kết luận về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả của doanh
nghiệp nhà nước, trên cơ sở đó:
- Ban cán sự
đảng Chính phủ, Đảng đoàn Quốc hội và các cơ quan liên quan thể chế hoá những
nội dung Ban Chấp hành Trung ương đã thống nhất; tổng kết thực hiện Luật Doanh
nghiệp năm 2005, đề xuất phương án quy định pháp luật phù hợp đối với doanh
nghiệp nhà nước.
- Ban cán sự
đảng Chính phủ khẩn trương nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề còn ý kiến khác
nhau, như: mô hình tổ chức thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu đối với
doanh nghiệp nhà nước...
- Ban Tổ chức
Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu đề xuất
phương án đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của tổ chức đảng và công tác cán
bộ trong doanh nghiệp nhà nước. Trên cơ sở đó, hoàn thiện đề án về sắp xếp, đổi
mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước báo cáo Bộ Chính trị để trình
Ban Chấp hành Trung ương xem xét, ban hành nghị quyết.
- Ban Tuyên
giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với Ban cán sự đảng Chính phủ, các ban đảng,
ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương, các tỉnh uỷ, thành
uỷ chỉ đạo việc thông tin, tuyên truyền về vai trò, đóng góp, hạn chế, yếu kém
của doanh nghiệp nhà nước một cách khách quan, rõ định hướng; các tỉnh uỷ,
thành uỷ, các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương
có trách nhiệm tổ chức quán triệt và thực hiện Kết luận này.
III. NỘI DUNG
CƠ BẢN CỦA KẾT LUẬN
1. Đánh giá tình hình
1.1.
Mặt được
Sau hơn 10 năm
thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá IX), Trung ương 9 (khoá IX) và Nghị
quyết Đại hội X của Đảng về sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
doanh nghiệp nhà nước, chúng ta đã đạt nhiều kết quả tích cực:
a. Doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại một bước quan trọng
Doanh nghiệp
nhà nước đã cơ bản được sắp xếp lại; cơ cấu được điều chỉnh hợp lý hơn; đại bộ
phận có quy mô vừa và lớn; tập trung hơn vào những ngành, lĩnh vực then chốt,
địa bàn quan trọng:
Cho đến nay,
cả nước sắp xếp được 5.374 doanh nghiệp, trong đó, giai đoạn 2001 – 2011 là
4.757 doanh nghiệp: Cổ phần hóa 3.388 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp;
giao 189 doanh nghiệp, bán 135 doanh nghiệp; khoán kinh doanh, cho thuê 30
doanh nghiệp; sáp nhập 427 doanh nghiệp, hợp nhất 110 doanh nghiệp, giải thể
220 doanh nghiệp, phá sản 56 doanh nghiệp, chuyển thành đơn vị sự nghiệp có thu
114 doanh nghiệp, chuyển cơ quan quản lý 88 doanh nghiệp, chuyển toàn bộ các
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên.
Việc thực hiện
các biện pháp sắp đã làm giảm mạnh số lượng doanh nghiệp 100% vốn nhà, từ 5.655
doanh nghiệp vào năm 2001 xuống còn 1.060 doanh nghiệp năm 2011, trong đó có
452 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, công ích, 608
doanh nghiệp hoạt động kinh doanh. Tỷ trọng doanh nghiệp kinh doanh giảm từ 87%
năm 2001 xuống còn gần 58% năm 2011. Hiện có 32 tỉnh không còn doanh nghiệp nhà
nước kinh doanh thuần túy, mà chủ yếu sản xuất, cung ứng sản phẩm dịch vụ công
ích, thiết yếu phục vụ phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.
b. Hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước
cơ bản tập trung vào những ngành, lĩnh vực, địa bàn then chốt, quan trọng mà
Nhà nước cần nắm giữ, góp phần để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo,
ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và nhu cầu của
quốc phòng, an ninh.
- Hoạt động
của các doanh nghiệp nhà nước cơ bản tập trung vào những ngành, lĩnh vực, địa
bàn then chốt, quan trọng mà Nhà nước cần nắm giữ:
Doanh nghiệp
nhà nước giảm nhiều về số lượng, nhưng trong nhiều ngành, lĩnh vực quan trọng
thì mạnh lên, quy mô vốn tăng. Đại bộ phận doanh nghiệp nhà nước có quy mô vừa
và lớn theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3, khóa IX; số doanh nghiệp có vốn
nhà nước dưới 5 tỷ đồng chiếm từ 59% năm 2001 xuống còn 9,3% năm 2011. Những
doanh nghiệp quy mô nhỏ chủ yếu là doanh nghiệp tham gia hoạt động công ích,
thương mại miền núi, kinh doanh ở vùng sâu, vùng xa, địa bàn khó khăn.
Doanh nghiệp
nhà nước đã tập trung hơn vào những ngành, lĩnh vực then chốt, địa bàn quan
trọng. Theo các quy định pháp luật về tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhà nước
làm cơ sở cho sắp xếp, cổ phần hóa, đa dạng hóa sở hữu doanh nghiệp nhà nước,
đối tượng doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ đã được điều chỉnh
từ trên 60 ngành, lĩnh vực năm 2002 xuống còn 30 ngành, lĩnh vực năm 2005 và
đến năm 2011 chỉ còn 19 ngành, lĩnh vực quan trọng mà Nhà nước cần nắm giữ.
Tóm tắt, qua
sắp xếp, cơ cấu khu vực doanh nghiệp nhà nước đã được điều chỉnh một bước theo
hướng giảm số lượng doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong những ngành, lĩnh vực
mà Nhà nước không cần nắm giữ và tập trung hơn vào những ngành, lĩnh vực then
chốt, địa bàn quan trọng.
- Doanh nghiệp
nhà nước góp phần để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo, ổn định và
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và nhu cầu của quốc phòng,
an ninh.
+ Doanh nghiệp nhà nước là
lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước điều tiết kinh tế, ổn định vĩ mô, bảo
đảm các cân đối lớn của nền kinh tế và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế -
xã hội.
Hiện nay các thành phần
kinh tế đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, làm thay đổi cơ
cấu, vai trò và đóng góp của các loại hình doanh nghiệp vào nền kinh tế. Tuy
các doanh nghiệp nhà nước chiếm hơn 1% về số lượng vẫn là lực lượng nòng cốt
cung cấp hầu hết các sản phẩm, dịch vụ quan trọng của nền kinh tế, góp phần đảm
bảo các cân đối lớn vĩ mô (ngân sách nhà nước, an ninh lương thực, an ninh năng
lượng, cán cân thương mại...):
Doanh nghiệp nhà nước luôn
tạo ra trên 30% tổng thu ngân sách, chưa tính thu từ dầu thô qua Tập đoàn dầu
khí; 33% tăng trưởng kinh tế. Nguồn thu này chủ yếu do phần lớn các tập đoàn
kinh tế và tổng công ty nhà nước quy mô lớn kinh doanh có lãi, nộp thuế và nộp
ngân sách nhiều, đặc biệt là các Tập đoàn: Dầu khí, Bưu chính Viễn thông, Công
nghiệp Than - Khoáng sản, Viễn thông Quân đội, v.v…
Trong danh sách các doanh
nghiệp đóng thuế thu nhập doanh nghiệp các năm 2010 và 2011, doanh nghiệp nhà
nước chiếm 16/20 vị trí hàng đầu, trong đó cả 10 doanh nghiệp nộp thuế nhiều
nhất đều là doanh nghiệp nhà nước thuộc các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà
nước.
Doanh nghiệp nhà nước hiện
đang chi phối hoặc có ảnh hưởng lớn đến nhiều ngành, lĩnh vực quan trọng như:
năng lượng (điện, than, dầu khí, xăng dầu...), tài chính tín
dụng, ngân hàng, vận chuyển hàng không, vận chuyển đường sắt, bưu chính viễn
thông, dệt may, xuất khẩu lương thực, lắp máy, cung cấp nước, các nguyên vật
liệu đầu vào cho sản xuất nông nghiệp, xây dựng,...[1]
Có tới 95% đối tượng Sử
dụng mạng điện thoại di động là khách hàng của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông
Việt Nam
và Tập đoàn Viễn Thông Quân đội. Hai tập đoàn kinh tế ngành viễn thông này cũng
là lực lượng chủ lực của kinh tế nhà nước trong nhiệm vụ đảm bảo hệ thống thông
tin liên lạc của nền kinh tế.
Tổng Công ty Lương thực
miền Bắc và Tổng Công ty Lương thực miền Nam làm đầu mối xuất khẩu 70% lượng
gạo.
Ngân hàng thương mại nhà
nước và các ngân hàng thương mại Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối như Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam,... chiếm
hơn một nửa tổng dư nợ cho vay của toàn ngành.
Sản lượng của Tổng công ty
Phân bón và Hóa chất Dầu khí (thuộc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia) đủ để thỏa mãn
80% nhu cầu trong nước, chưa kể tới năng lực và sản lượng của các đơn vị thành
viên Tập đoàn Công nghiệp Hóa chất Việt Nam.
Tập đoàn Điện lực Việt Nam
cung cấp hơn 80% tổng lượng điện sản xuất, quản lý hầu như toàn bộ khâu truyền
tải, vận hành hệ thống điện quốc gia, phân phối và kinh doanh bán điện.
Tập đoàn Công nghiệp Than
- Khoáng sản Việt Nam
đã bảo đảm cung ứng đủ than cho nhu cầu chất đốt của các doanh nghiệp và của
các tầng lớp nhân dân. Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) và các doanh
nghiệp nhà nước khác đảm nhận cung cấp đủ nhu cầu xăng dầu trong nước.
Tổng công ty Công nghiệp
Xi măng Việt Nam
và các đơn vị thành viên chiếm hơn 50% thị phần xi măng,...
Trong giai đoạn từ năm
2008 đến nay, doanh nghiệp nhà nước là công cụ quan trọng để bảo đảm thực hiện
có hiệu quả các chính sách ổn định vĩ mô, đối phó với những biến động thị trường,
kiềm chế lạm phát, giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế
đến nước ta.
Trong giai đoạn cần thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, sự gia tăng đầu tư của kinh tế nhà nước, trong đó có
đầu tư của doanh nghiệp nhà nước là động lực để giúp nền kinh tế phục hồi nhanh
hơn, tạo hiệu ứng tâm lý tích cực và củng cố lòng tin cho các doanh nghiệp, các
nhà đầu tư trong và ngoài nước vào triển vọng phát triển kinh tế và môi trường
đầu tư ở Việt Nam.
Trong bối cảnh lạm phát,
suy giảm kinh tế những năm gần đây, hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước có
đóng góp lớn trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế, thực hiện điều
hành lãi suất, ổn định tỷ giá. Các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực xăng,
dầu, sắt, thép, điện, than, hàng không, đường sắt, hóa chất, viễn thông, giấy,
phân bón và nhiều mặt hàng thiết yếu đã đia đầu trong việc thực hiện chủ trương
cắt giảm đầu tư, chi tiêu, không tăng giá bán sản phẩm, dịch vụ…. Đặc biệt, các
tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đã đóng góp quan trọng trong việc bình
ổn giá cả vật tư hàng hóa, góp phần để Nhà nước thực hiện các chính sách vĩ mô,
ổn định xã hội, ngăn chặn suy giảm kinh tế. Ví dụ: Tập đoàn Công nghiệp Than –
Khoáng sản bán than cho ngành điện với giá bằng 67 – 70% giá thành và 35 – 40%
giá xuất khẩu; bán cho các doanh nghiệp sắt thép, xi măng, hóa chất, giấy… bằng
60% giá xuất khẩu. Tập đoàn Điện lực Việt Nam bán điện với giá tương đương
70% giá thành.
Với những vai trò đó,
doanh nghiệp nhà nước là lực lượng vật chất chủ yếu để kinh tế nhà nước có đóng
góp lớn vào tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
theo gia thực tế của kinh tế nhà nước luôn ở mức năm sau cao hươn năm trước, kể
cả trong giai đoạn nước ta chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế. Ví dụ GDP của kinh tế nhà nước năm 2007 là 410.883 tỷ đồng, năm
2008 là 527.732 tỷ đồng, năm 2009 là 582.674 tỷ đồng, năm 2010 là 668,300 tỷ
đồng. Hoạt đầu tư là nguồn đóng góp lớn nhất cho tăng trưởng kinh tế quốc dân
(ước tính trung bình tạo ra 60% GDP/năm). Trong đầu tư toàn xã hội, đầu tư của
kinh tế nhà nước chiếm khoảng 40% (năm 2006 là 45,7%, năm 2007 là 37,2%, năm
2008 là 33,9%, năm 2009 là 40,5%, năm 2010 là 38,1% và ước tính năm 2011 là
39%).
+ Doanh nghiệp nhà
nước có đóng góp lớn để xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở vật chất kết cấu
hạ tầng cần thiết cho phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Doanh nghiệp nhà nước có
đóng góp lớn để xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở vật chất kết cấu hạ tầng
cần thiết cho phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà các
thành phần kinh tế khác chưa làm được do đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm, không có
khả năng sinh lời trong ngắn hạn như hệ thống hạ tầng giao thông (đường bộ,
cảng biển, đường sắt, cảng hàng không), hạ tầng nông nghiệp và nông thôn (các
công trình thủy lợi, đê, đập, hồ chứa), hạ tầng năng lượng (mạng lưới truyền
tải, phân phối điện quốc gia, hệ thống kho tàng, lưu giữ, bảo quan xăng dầu,
chất đốt), hạ tầng thông tin liên lạc (hệ thống các bưu cục, mạng trục thông tin,
vệ tinh viễn thông…), hạ tầng đô thị (mạng cấp, xử lý, phân phối nước và nguồn
nước, hệ thống xử lý chất thải,…) và các công trình hạ tầng phục vụ cho an ninh
quốc phòng, giáo dục…
Về bảo đảm các dịch vụ
công ích thiết yếu của xã hội, hiện nay, Đảng và Nhà nước đã ban hành chủ
trương khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, cung ứng sản
phẩm, dịch vụ công ích nhưng các thành phần kinh tế khác ít tham gia do lợi ích
kinh tế thấp. Vì vậy doanh nghiệp nhà nước vẫn là lực lượng chủ chốt và chưa thể
thay thế trong sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích.
+ Nhiều tập đoàn kinh tế,
tổng công ty nhà nước tham gia nhiệm vụ an ninh, quốc phòng và thực hiện chính
sách an sinh xã hội[2]
Nhiều tập đoàn kinh tế,
tổng công ty và doanh nghiệp nhà nước trực tiếp tham gia phủ xanh đất trống,
đồi trọc, tham gia giữ gìn an ninh, trật tự, quốc phòng khu vực biên giới, hải
đảo; dự trữ và cung cấp lương thực kịp thời cứu đói, cứu trợ cho các hộ nghèo
thời kỳ giáp hạt, thiên tai, hạn hán; mở rộng phạm vi hoạt động, tích cực thực
hiện nhiệm vụ đầu tư vào vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn có khả năng
sinh lời thấp để tạo công ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho người
dân.
Doanh nghiệp nhà nước của
Bộ Quốc phòng, Bộ Công an vừa trực tiếp cung ứng sản phẩm dịch vụ cho quốc
phòng an ninh, vừa góp phần tạo nguồn thu đáng kể cho ngân sách để từ đó đầu tư
một phần cho mục tiêu quốc phòng, an ninh.
Tập đoàn Viễn thông Quân
đội luôn đầu tư nghiên cứu, chế tạo thiết bị cho quân đội. Doanh nghiệp nhà
nước ngành bưu chính viễn thông luôn duy trì và đảm bảo cung cấp các dịch vụ
bưu chính công ích, điện thoại cố định vùng xa; bảo đảm thông tin liên lạc cho
quốc phòng, an ninh; phủ sóng mạng viễn thông khắp cả nước qua đó trực tiếp
phục vụ đời sống văn hóa tinh thần cán bộ, chiến sỹ vùng biên giới hải đảo.
Mạng lưới điện quốc gia do
Tập đoàn Điện lực Việt Nam
quản lý cơ bản đã kéo về hầu hết các đơn vị hành chính cấp xã trong cả nước,
góp phần nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho đồng bào vùng sâu, vùng xa. Trong
xây dựng các công trình, nhà máy điện quy mô lớn, Tập đoàn phải sử dụng chi phí
xây dựng để thực hiện các chương trình hỗ trợ cho người dân.
Các đơn vị thuộc Tập đoàn
Dầu khí Quốc gia Việt Nam
là những doanh nghiệp hàng đầu trong công tác an sinh xã hội với hàng trăm tỷ
đồng mỗi năm và tích cực tham gia bảo vệ chủ quyền lãnh hải.
Tập đoàn Dệt may Việt Nam thực hiện
nhiều hoạt động hỗ trợ phát triển ngành dệt, may như duy trì giống bông, hoạt
động đào tạo chuyên ngành.
Tập đoàn Công nghiệp Cao
su Việt Nam phát triển mạnh mẽ diện tích đất trồng và tổ chức quản lý, sản xuất
kinh doanh tại các địa bàn gần biên giới, vùng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn;
cùng các đơn vị kinh tế của Bộ Quốc phòng và nhiều doanh nghiệp nhà nước khác
kết hợp phát triển kinh tế với giữ gìn an ninh ở các vùng biên giới, vùng có vị
trí quan trọng cho an ninh, quốc phòng và bảo vệ lãnh thổ.
1.2.
Hạn chế, yếu kém
a. Việc sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp
nhà nước còn chậm, chưa chặt chẽ
- Doanh nghiệp nhà nước
vẫn dàn trải trong nhiều ngành, lĩnh vực mà Nhà nước không cần nắm giữ. Còn
nhiều doanh nghiệp Nhà nước cần nắm giữ nhưng quy mô vẫn nhỏ. Còn 93 doanh
nghiệp vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và 8 doanh nghiệp dưới 1 tỷ đồng.
Kết quả sắp xếp lại doanh
nghiệp nhà nước theo mục tiêu "tập trung vào những ngành, lĩnh vực then
chốt và địa bàn quan trọng" còn ở mức độ hạn chế. Doanh nghiệp nhà nước
vẫn còn hiện diện ở nhiều ngành, lĩnh vực của nền kinh tế, trong đó có những
ngành, lĩnh vực không cần duy trì 100% vốn nhà nước[3].
Cho đến nay, quá trình sắp
xếp, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước chưa thực hiện theo ngành, lĩnh vực kinh
doanh không phân biệt cấp, cơ quan quản lý.
- Cổ phần hóa còn chậm,
nhất là những năm gần đây, do tình hình kinh tế khó khăn, thị trường
chứng khoán sụt giảm và chỉ đạo "cần giãn tiến độ cổ phần hóa ra cho phù
hợp, không nhất thiết phải tập trung hoàn thành trong 2 năm 2009 - 2010
" của Bộ Chính trị
Cơ cấu doanh nghiệp nhà
nước còn dàn trải một phần do cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn chậm. Số
lượng doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa giai đoạn 2007 - 2010 chỉ đạt khoảng
30% so với phương án đã phê duyệt. Việc triển khai thực hiện cổ phần hóa các
tổng công ty, tập đoàn kinh tế còn chậm. Còn nhiều doanh nghiệp mà Nhà nước
không cần giữ cổ phần chi phối hoặc không cần giữ cổ phần nhưng chậm được bán
tiếp. Việc giảm tốc độ cổ phần hóa chủ yếu do yếu tố khách quan như thị trường
chứng khoán sụt giảm, lạm phát, suy giảm kinh tế. Bộ Chính trị đã có định hướng
"Cần giãn tiến độ cổ phần hoá ra cho phù hợp" như đã nêu trên. Bên
cạnh đó có những lý do chủ quan. Chính sách cổ phần hoá còn có bất cập, ảnh
hưởng đến tiến độ cổ phần hóa: Cơ chế định giá, phương pháp xác định giá khởi
điểm, xác định giá trị quyền sử dụng đất, tính toán giá trị lợi thế doanh
nghiệp, lựa chọn nhà đầu tư chiến lược,...
Năm 2009, Bộ Chính trị đã
có đánh giá: "Tuy chính sách cổ phần hoá từng bước được hoàn thiện, ngày
càng chặt chẽ hơn, minh bạch hơn nhưng cần được hoàn thiện để tránh sơ hở và bị
một số đối tượng lợi dụng trục lợi.
Tình trạng xử lý các khoản
nợ và tài sản tồn đọng còn lúng túng, chậm thu hồi tài sản nhà nước; việc xác
định trách nhiệm và xử lý cá nhân vi phạm còn hạn chế. Chính sách bán cổ phần
cho người lao động nhằm khuyến khích họ gắn bó lâu dài với doanh nghiệp còn
nhiều lúng túng. Hoạt động của các định chế tài chính trong định giá doanh
nghiệp theo cơ chế thị trường còn yếu, chưa định giá được giá trị thương hiệu
vào giá trị doanh nghiệp, quyền thuê đất chưa được tính thoả đáng vào giá trị
doanh nghiệp,...". Tuy nhiên, những hạn chế này đến nay vẫn
chậm được khắc phục.
Về hoạt động của doanh
nghiệp sau cổ phần hóa, nhiều doanh nghiệp chưa có đổi mới thực sự trong quản
trị công ty, phương pháp quản lý, lề lối làm việc, tính công khai, minh bạch
chuyển biến chậm. Nhiều nội dung của cơ chế, chính sách quản lý công ty cổ phần
như: chính sách tiền lương, tiền thưởng. . . vẫn còn áp dụng như trước
chuyển đổi.
Trong một số công ty cổ
phần, người lao động - cổ đông do nhận thức chưa đầy đủ về quyền và nghĩa vụ
của mình cũng như sự hiểu biết pháp luật về công ty cổ phần còn hạn chế, nên có
nơi quyền làm chủ chưa được phát huy đầy đủ, ngược lại có nơi lạm dụng quy định
của pháp luật gây khó khăn cho công tác quản lý của Hội đồng quản trị, điều
hành của giám đốc.
Một số doanh nghiệp sau
khi cổ phần hóa có kết quả sản xuất, kinh doanh thấp, trong đó, nguyên nhân chủ
yếu là hoạt động trong những ngành, lĩnh vực điều kiện phát triển khó khăn,
công nghệ lạc hậu, lại không được xử lý dứt điểm những tồn tại về tài chính khi
cổ phần hóa.
Trong khi đó, hoạt động
quản lý, giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp sau
cổ phần hoá, kể cả việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất sau cổ phần hoá chưa
chặt chẽ, nhất là đối với doanh nghiệp mà vốn nhà nước không còn chi phối. Còn
nhiều vấn đề cần được nghiên cứu, kiện toàn về người đại diện phần vốn nhà nước
tại các doanh nghiệp cổ phần hoá và Tổng Công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà
nước. Hoạt động của các tổ chức đảng và đoàn thể trong các doanh nghiệp sau cổ
phần hoá bị ảnh hưởng, đặc biệt là ở những doanh nghiệp nhà nước không giữ cổ
phần chi phối gặp khó khăn, vai trò của tổ chức đảng và các tổ chức, đoàn thể
yếu đi. Đời sống của người lao động ở một số doanh nghiệp sau cổ phần hoá chưa
được cải thiện, khoảng cách giàu nghèo tăng lên, tài sản nhà nước bị thu hẹp
dần[4].
- Việc phá sản, giải
thể rất khó khăn, nhiều trường hợp kéo dài trên 10 năm.
Giải thể doanh nghiệp
thường kéo dài do gặp khó khăn về xác định, xử lý công nợ phải thu, phải trả;
nợ tồn đọng lớn, nợ khó đòi, lỗ lũy kế kéo dài qua nhiều năm, việc thanh lý tài
sản gắn liền với đất,...
Thiếu chế tài quy định
trách nhiệm của doanh nghiệp và cơ quan đại diện chủ sở hữu của doanh nghiệp
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
- Mô hình tổ chức quản
lý tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước còn có hạn chế, phát sinh
thêm tầng nấc quản lý, đầu tư chồng chéo, khó kiểm soát. Quản trị nội bộ còn
nhiều bất cập, yếu kém. Hoạt động kiểm tra, giám sát, quản trị rủi ro còn nhiều
hạn chế.
Một số tổng công ty hoạt
động theo mô hình công ty mẹ - công ty con nhưng quản lý nội bộ còn yếu, nhiều
đơn vị chưa hoàn thiện quy chế quản lý, vẫn còn hiện tượng công ty mẹ với tư
cách là chủ sở hữu, cổ đông lớn can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính vào hoạt
động của công ty con.
Việc thuê tổng giám đốc
điều hành doanh nghiệp mới chỉ triển khai được ở 3 đơn vị và chưa có kết quả rõ
rệt.
Ở nhiều tổng công ty, giữa
Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc thiếu thống nhất trong quản lý,
điều hành doanh nghiệp. Liên kết giao dịch kinh doanh nội bộ gần như không có
những đặc thù khác so với các doanh nghiệp bên ngoài.
Thí điểm thành lập tập
đoàn kinh tế còn một số tồn tại. Kết quả thực hiện một số cơ chế thí điểm chưa
rõ (ví dụ thí điểm thống nhất quản lý đất để phát triển cây cao su ở Tập đoàn
Công nghiệp Cao su; chủ thể quản lý tài nguyên, khoáng sản (chủ mỏ) để tổ chức
cho các doanh nghiệp thành viên khai thác ở Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng
sản).
Mô hình tập đoàn kinh tế
chưa có nhiều khác biệt so với tổng công ty nhà nước, cơ bản đều theo mô hình
công ty mẹ - công ty con; sự khác biệt chủ yếu ở quy mô, vị thế trong nền kinh
tế và chế độ tiền lương của các chức danh quản lý, điều hành. Hiệu quả của việc
thành lập các tập đoàn ngành xây dựng và dệt may chưa rõ. Cơ chế hoạt động của
Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy sau thành lập bộc lộ nhiều bất cập.
Bên cạnh các tập đoàn kinh
tế mạnh như Viễn thông Quân đội, Dầu khí,... Một số tập đoàn kinh tế chưa đạt
mục tiêu cải thiện về năng lực cạnh tranh quốc tế, trình độ công nghệ cao, tạo
động lực phát triển cho các ngành, lĩnh vực khác và toàn bộ nền kinh tế, thúc
đẩy liên kết trong chuỗi giá trị gia tăng, phát triển các thành phần kinh tế
khác.
Một số tập đoàn kinh tế,
tổng công ty nhà nước hình thành nhiều công ty con, công ty cháu, phát sinh
thêm tầng nấc quản lý, đầu tư chồng chéo, khó kiểm sát. Quản trị nội bộ còn
nhiều bất cập, yếu kém. Hoạt động kiểm tra, giám sát, quản trị rủi ro còn nhiều
hạn chế. Hiệu quả kinh doanh thấp, gây thất thoát tài sản nhà nước, ảnh hưởng
đến hình ảnh, vai trò của doanh nghiệp nhà nước.
Nhiều tổng công ty và tập
đoàn kinh tế có vốn chủ sở hữu thấp so với yêu cầu nhiệm vụ, phải vay để đầu tư
phát triển dẫn đến tỷ lệ nợ vốn chủ sở hữu của một số tập đoàn kinh tế, tổng
công ty vượt giới hạn quy định trong đó có 07 tổng công ty có tỷ lệ này vượt
quá 10 lần.
Các tập đoàn kinh tế, tổng
công ty nhà nước chưa tập trung vào những ngành, lĩnh vực kinh doanh chính được
giao. Một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty trong các năm 2007, 2008 đã thành
lập nhiều công ty con và đầu tư vào những lĩnh vực có độ rủi ro cao, không có
kinh nghiệm, sở trường như ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, bất động sản, quỹ
đầu tư trong khi năng lực quản lý và khả năng tài chính có hạn, thiếu kiểm soát
chặt chẽ làm phân tán nguồn lực, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh
nghiệp.
b. Trình độ công nghệ của doanh nghiệp nhà
nước còn lạc hậu
Trong thời gian vừa qua,
cải cách doanh nghiệp nhà nước ở nước ta chủ yếu tập trung vào các giải pháp
sắp xếp, tổ chức lại nhưng chưa nhấn mạnh giải pháp cải tạo nâng cao trình độ
trang thiết bị, công nghệ sản xuất kinh doanh để tăng khả năng cạnh tranh. Vì
vậy, nhiều doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế về năng lực chế tác và trình độ
công nghệ lạc hậu dẫn đến năng suất, chất lượng vả hiệu quả hoạt động không
cao.
Hiện trình độ công nghệ
của doanh nghiệp nhà nước trong một số ngành như dầu khí, viễn thông...
được đánh giá là ngang bằng với mức trung bình trên thế giới. Tuy nhiên, với
nhiều doanh nghiệp nhà nước khác thì trình độ công nghệ còn hạn chế. Ví dụ như
Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, trình độ công nghệ khai thác,
chế biến khoáng sản, nhất là cơ giới hoá đồng bộ công nghệ than, hầm lò và
tuyển, chế biến khoáng sản ngoài than không phải là thấp, nhưng theo thang điểm
của Liên hợp quốc với phương pháp Atlas công nghệ về 4 tiêu chí TKIO thì trình
độ công nghệ của Tập đoàn đạt khoảng 60/100, thấp so với khu vực và thế giới.
Việc đầu tư, đổi mới công
nghệ của doanh nghiệp nhà nước cơ bản là chậm, trinh độ công nghệ lạc hậu, nhất
là trong ứng dụng công nghệ thông tin và tự động hoá. Nhiều doanh nghiệp nhà
nước đang thiếu vốn, tiềm lực và hiểu biết về công nghệ tiên tiến trên thế giới
còn hạn chế; việc chủ động tiếp cận và nhập khẩu được công nghệ gốc tiên tiến,
hiện đại của thế giới chưa được quan tâm, chú trọng.
Thực tế là, tài sản cố
định và đầu tư dài hạn cho một lao động của khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng
mạnh, tuy nhiên, trình độ cơ khí hoá, tự động hóa, mức độ thay thế sức lao động
phổ thông bằng máy móc, thiết bị lại không tăng tương xứng; máy móc thiết bị
của nhiều doanh nghiệp nhà nước còn cũ kỹ, lạc hậu, thậm chí lạc hậu so với thế
giới từ 20 - 30 năm như cơ khí, sản xuất phôi.v.v. Chứng tỏ đầu tư đổi mới công
nghệ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước. Ngay
tại các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước quy mô lớn (vốn có lợi thế
nhờ hệ thống cơ sở nghiên cứu, đào tạo về kinh tế - kỹ thuật chuyên ngành
riêng, có điều kiện để gắn kết giữa nghiên cứu, triển khai, ứng dụng khoa học -
công nghệ, đào tạo và sản xuất, kinh doanh), tỷ trọng đầu tư cho đổi mới công
nghệ cũng hạn chế.
Trình độ và năng lực chế
tác của doanh nghiệp nhà nước còn thấp, không có nhiều sản phẩm, dịch vụ mới,
mang hàm lượng công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn. Ý tưởng quản lý còn yếu,
thiếu khả năng về hoạt động Marketing, thiếu khả năng về kỹ thuật (cán bộ, đào
tạo), thông tin về công nghệ không đầy đủ, v.v. Ngoài ra, những bất cập bên
ngoài đã tác động không nhỏ tới trình độ công nghệ và đổi mới công nghệ của
doanh nghiệp như chính sách đào tạo và đầu tư của Nhà nước cho nghiên cứu khoa
học còn chưa hợp lý, trong đó việc phân bố nguồn cán bộ khoa học là vấn đề nổi
cộm.
c. Quản trị doanh nghiệp còn nhiều yếu kém,
hiệu quả thấp. Một số doanh nghiệp vi phạm pháp luật nghiêm trọng, gây thất
thoát, lãng phí lớn vốn và tài sản nhà nước
Tổ chức quản lý điều hành
sản xuất kinh doanh đổi mới chậm, chưa theo kịp với sự phát triển của doanh
nghiệp trong cơ chế thị trường; năng lực dự báo còn nhiều hạn chế; việc xây
dựng và thực hiện chiến lược, kế hoạch đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh
có nơi không phù hợp với khả năng huy động vốn và nguồn vốn tự có, với khả năng
quản lý của doanh nghiệp.
Công tác quản lý đầu tư,
quản lý tài chính, quản lý rủi ro, thực hành tiết kiệm và chống lãng phí, thất
thoát còn lỏng lẻo, chậm đổi mới. Quản lý tiền lương, thu nhập chưa thật sự gắn
với năng suất, chất lượng lao động; chưa trở thành động lực đối với người lao
động.
Công khai tài chính và
minh bạch hóa hoạt động còn nhiều yếu kém. Chưa có nhiều doanh nghiệp thực hiện
minh bạch hóa hoạt động thông qua công bố thông tin, nếu có, còn đơn giản và
mang tính hình thức, kể cả về nội dung thông tin công bố, phương tiện công bố
và cơ chế kiểm soát, kiểm chứng chất lượng thông tin. Điều này làm cho chủ sở
hữu nhà nước và các bên lợi ích liên quan gặp khó khăn trong giám sát doanh
nghiệp; các cơ quan hoạch định chính sách, cơ quan quản lý nhà nước, đối tác,
nhà đầu tư tiềm năng và công luận thiếu thông tin xác thực và khách quan về
thực trạng doanh nghiệp; làm ảnh hưởng lòng tin đối với doanh nghiệp nhà nước;
không có tác dụng ngăn ngừa và hạn chế các hành vi tiêu cực, thất thoát, lãng
phí, gây tổn hại đến doanh nghiệp nhà nước, chủ sở hữu nhả nước và cả nền kinh
tế.
Cơ chế quản lý thông qua
người đại diện và chế độ trách nhiệm, chế tài xử lý vi phạm đối với người được
cử làm đại diện phần vốn góp chưa đủ rõ. Chưa đa dạng hóa hình thức quản lý vốn
đầu tư vào doanh nghiệp khác.
Chưa có quy định về chức
năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các kiểm soát viên; công tác kiểm soát nội
bộ chưa được quan tâm đúng mức.
d.Việc phân định chức năng quản lý nhà nước
và quản lý của chủ sở hữu nhà nước còn chưa đủ rõ; thể chế, cơ chế quản lý,
giám sát của chủ sở hữu nhà nước có nhiều sơ hở, yếu kém
- Sau khi doanh nghiệp nhà
nước chuyển sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, quy định của pháp luật và cơ
chế chính sách chưa được ban hành đầy đủ và đồng bộ Mã số cơ chế, chính sách
chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời, phù hợp với điều kiện mới.
Hệ thống quy định về doanh
nghiệp nhà nước chưa đầy đủ, thiếu quy định đặc thù về tổ chức thực hiện quyền,
nghĩa vụ của chủ sở hữu, quản lý tài chính, công tác nhân sự... sau khi Luật
Doanh nghiệp thay thế Luật doanh nghiệp nhà nước và chuyển toàn bộ doanh nghiệp
nhà nước sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp gây vướng mắc cho doanh nghiệp
cũng như cho công tác quản lý nhà nước, giám sát của chủ sở hữu Nhà nước.
Một thí dụ điển hình là đã
hơn 2 năm kể từ ngày toàn bộ doanh nghiệp nhà nước chuyển sang hoạt động theo
Luật Doanh nghiệp nhưng chưa ban hành quy định về tổ chức thực hiện quyền và
nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên, về kiểm soát viên, về thành lập, tổ chức lại, giải thể đối với loại
công ty này; quản lý tài chính, lao động, tiền lương nên vẫn phải áp dụng các
văn bản pháp luật quy định cho công ty nhà nước trước khi chuyển đổi .
Quản lý nhà nước đối với
ngành, lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp nhà nước còn nhiều hạn chế. Bộ quản
lý ngành, cơ quan quản lý ngành của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
chủ yếu mới tập trung thực hiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp trực
thuộc.
- Việc phân công, phân cấp
và tổ chức thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước
đối với doanh nghiệp nhà nước còn chưa đủ rõ. cơ chế phối hợp giữa các cơ quan
còn nhiều bất cập, hiệu lực còn thấp.
Chức năng chủ sở hữu được
chia thành các nhóm nội dung theo lĩnh vực hoạt động, được phân công, phân cấp
giữa nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân, tạo ra sự phức tạp, chồng chéo.
Việc triển khai tổ chức
thực hiện được một số chức năng quan trọng của chủ sở hữu còn yếu, trước hết là
quyền quyết định chiến lược, mục tiêu kế hoạch; quyền trực tiếp đánh giá, quyết
định tiền lương thu nhập của cán bộ quản lý, điều hành doanh nghiệp; quyền thu
lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp 100% vốn nhà nước.
Theo quy định của Luật
Doanh nghiệp nhà nước 2003 trước đây, sẽ hình thành được quỹ tập trung lợi
nhuận phân chia cho nguồn vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp nhà nước. Tuy
nhiên trên thực tế phần lợi nhuận này vẫn để lại doanh nghiệp dẫn đến tình
trạng nhiều doanh nghiệp nhà nước không thuộc diện Nhà nước cần tăng vốn, mở
rộng sản xuất vẫn tiếp tục sử dụng nguồn vốn này để tăng vốn, mở rộng sản xuất
hoặc đầu tư sang cả những ngành; lĩnh vực khác; trong khi Nhà nước không có đủ
nguồn vốn để đầu tư cho những ngành, lĩnh vực cần ưu tiên phát triển.
- Chưa có cơ chế, chế tài
và công cụ kiểm tra, kiểm soát có hiệu quả trong khi trao mạnh quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm cho doanh nghiệp nhà nước.
Việc thực hiện chức năng
quản lý và giám sát vốn, tài sản nhà nước, mở rộng ngành, nghề kinh doanh, sử
dụng vốn đầu tư tại doanh nghiệp còn hạn chế. Một số doanh nghiệp vi phạm các
quy định của Nhà nước về quản lý vốn đầu tư, làm thất thoát tài sản của Nhà nước
nhưng chậm được phát hiện, ngăn chặn, xử lý.
Hoạt động giám sát chưa có
tác dụng cảnh báo và ngăn ngừa việc sử dụng kém hiệu quả vốn và tài sản nhà
nước đầu tư. Cơ chế giám sát việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ và bảo
vệ lợi ích của chủ sở hữu nhà nước còn thiếu đồng bộ.
Cơ chế công khai và minh
bạch hoạt động đầu tư của chủ sở hữu nhà nước chưa được triển khai quyết liệt.
Hoạt động giám sát của chủ
sở hữu nhà nước chưa hiệu quả do thiếu năng lực, công cụ thể chế, pháp luật và
bộ máy thực hiện. Hệ thống các tiêu chí đánh giá, giám sát chưa phù hợp với yêu
cầu giám sát và bảo vệ lợi ích của chủ sở hữu.
Những tồn tại của cơ chế
giám sát nằm ở cả các nhân tố chủ yếu sau; Khung khổ thể chế và pháp luật
thiếu, chưa đầy đủ, chưa cụ thể; chủ thể chịu trách nhiệm giám sát không rõ;
hạn chế về năng lực và động lực giám sát; đối tượng giám sát không thực hiện
đầy đủ trách nhiệm. Cụ thể là:
+ Cách thức thực
hiện giám sát, đánh giá chủ yếu căn cứ vào các báo cáo của doanh nghiệp nhà
nước với tính chất là các báo cáo thống kê hơn là báo cáo tình hình thực hiện
mục tiêu của chủ sở hữu, trong khi cơ chế xác định tính xác thực của các báo
cáo này còn thiếu đồng bộ.
+ Việc giám sát,
đánh giá chủ yếu căn cứ vào kết quả thực hiện so với kế hoạch do các doanh
nghiệp nhà nước tự xây dựng và đăng ký, chưa phản ánh rõ yêu cầu và đòi hỏi của
chủ sở hữu nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước.
+ Các chỉ tiêu giám
sát, đánh giá chủ yếu thiên về các chỉ tiêu tài chính, thiếu nhiều chỉ tiêu
đánh giá đối với một số vấn đề quan trọng khác như tình hình chấp hành quyết
định của chủ sở hữu nhà nước, triển khai các dự án được phê duyệt, công tác bổ
nhiệm cán bộ, cử người đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các doanh nghiệp
thành viên,...
+ Các quy định hiện
hành về đánh giá hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nhà nước chưa cụ thể hóa tiêu
chí đánh giá đối với toàn bộ tổ hợp của tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà
nước, cũng như đối với việc tham gia cung ứng sản phẩm dịch vụ công ích hoặc
thực hiện nhiệm vụ điều tiết kinh tế vĩ mô hoặc tham gia hỗ trợ vùng kinh tế
khó khăn. Vì vậy, chưa có cơ sở để đánh giá đúng hiệu quả hoạt động của các
doanh nghiệp này.
Việc chưa tách bạch hoạt
động sản xuất kinh doanh và hoạt động công ích nên hiệu quả kinh tế, xã hội của
doanh nghiệp nhà nước chưa được đánh giá đầy đủ. Hệ thống các tiêu chí đánh giá
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước ngày càng có xu hướng đồng nhất,
không tính tới đặc thù về mục tiêu, nhiệm vụ của từng doanh nghiệp hoặc nhóm
doanh nghiệp nhà nước.
Chẳng hạn, việc lấy chỉ
tiêu lãi lỗ làm căn cứ đánh giá hiệu quả (cũng như trong đánh giá cán bộ quản
lý điều hành, xác định quỹ lương...) là không phù hợp với các doanh
nghiệp nhà nước cung cấp dịch vụ công cộng và các doanh nghiệp nhà nước được
thành lập trong các ngành, lĩnh vực hỗ trợ cho sự phát triển của các ngành,
lĩnh vực khác. Tương tự, việc lấy các chỉ tiêu như tỷ suất sinh lời để đánh giá
hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước có sản phẩm dịch vụ chịu sự
điều tiết của Nhà nước (thậm chí phải bán dưới giá thành như ngành điện) là
chưa khách quan, chưa tính tới tác động tới nền kinh tế của các doanh nghiệp
này.
Một số doanh nghiệp nhà
nước thực hiện nhiệm vụ phục vụ các mục tiêu chính trị - kinh tế - xã hội (ví
dụ như điều tiết, bình ổn giá cả; bảo đảm các cân đối lớn; cung cấp sản phẩm
dịch vụ trực tiếp phục vụ quốc phòng an ninh, các sản phẩm, dịch vụ thiết yếu
nhằm duy trì phúc lợi chung của xã hội; đầu tư lớn tạo động lực cho ngành, lĩnh
vực và toàn bộ nền kinh tế) nhưng cho tới nay, vẫn chưa xác định cụ thể thứ tự
ưu tiên đối với các mục tiêu, nhiệm vụ giao cho từng doanh nghiệp nhà nước cùng
với việc chưa quy định phương thức, tiêu chí tính toán lượng hóa chi phí để bù
đắp hoặc đánh giá kết quả, tác động của doanh nghiệp nhà nước khi thực hiện các
nhiệm vụ phục vụ mục tiêu chính trị - kinh tế - xã hội nêu trên.
Điều này dẫn đến những
đánh giá khác nhau về hiệu quả thực sự của doanh nghiệp nhà nước trong xã hội.
+ Trách nhiệm và
đầu mối giám sát chưa cụ thể và rõ ràng. Bản thân các cơ quan được giao nhiệm
vụ giám sát, đánh giá còn thiếu nhân lực, công cụ, phương tiện và các nguồn lực
để thực hiện giám sát, đánh giá. Tư duy và phương thức làm việc hành chính,
quan liêu, chậm trễ, chờ đợi ý kiến tập thể, không rõ trách nhiệm... chậm được
khắc phục. Việc xây dựng và quản lý hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin để phục
vụ công tác giám sát, đánh giá của các cơ quan được giao nhiệm vụ còn hạn chế.
+ Tại các doanh
nghiệp nhà nước, hiện thiếu nhiều tiêu chí rõ ràng để giám sát, đánh giá về
những người giữ chức danh đại diện trực tiếp chủ sở hữu nhà nước (gồm các thành
viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, kiểm soát viên, người đại diện
vốn). Khi cần thiết rất khó có các chứng cứ xác thực để đánh giá việc hoàn
thành hay chưa hoàn thành nhiệm vụ của thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng
thành viên, kiểm soát viên, người đại diện vốn, vì vậy, không có những điều
chỉnh kịp thời về công tác nhân sự.
+ Công tác kiểm
tra, giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và hiệu
quả quản lý, điều hành của bộ máy quản lý doanh nghiệp nhà nước ở nhiều nơi
chưa thường xuyên, sát sao và chặt chẽ, có nơi, có lúc còn buông lỏng, đặc biệt
trong giám sát ngành nghề kinh doanh, hiệu quả hoạt động, công tác cán bộ và
quản trị doanh nghiệp nên chưa kịp thời phát hiện những yếu kém của doanh
nghiệp, chậm phát hiện, xử lý cán bộ quản lý doanh nghiệp có sai phạm, thường
chỉ được phát hiện sau khi thanh tra, kiểm tra hoặc có khiếu nại, tố cáo. Chế
tài xử lý đối với cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước có sai phạm chưa cụ thể
và chưa đủ nghiêm. Hoạt động quản lý, giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước
đối với doanh nghiệp sau cổ phần hóa chưa chặt chẽ.
d. Cơ cấu
ngành, lĩnh vực chưa hợp lý, dàn trải, đầu tư ra ngoài ngành kém hiệu quả
Doanh nghiệp nhà nước chưa
làm tốt vai trò nòng cốt, mở đường, hướng dẫn, thúc đẩy các thành phần khác
phát triển, thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị gia tăng. Việc tham gia bảo đảm cân
đối, ổn định nền kinh tế vĩ mô có nơi, có lúc còn chưa tốt.
Doanh .nghiệp nhà nước còn
hạn chế ở những ngành có ảnh hưởng quyết định đến việc hỗ trợ nâng cao sức cạnh
tranh của nền kinh tế và của khu vực doanh nghiệp Việt Nam, trước hết là các
ngành công nghệ cao, các ngành có khả năng dẫn dắt chuyển đổi cơ cấu kinh tế
theo hướng hiện đại hóa, công nghiệp hóa như cơ khí chính xác, sản xuất chế tạo
linh kiện, máy móc và thiết bị hoàn chỉnh cho các ngành sản xuất; công nghệ
nguồn, cơ điện tử, quang cơ điện tử, thiết bị đo lường, điều khiển tự động.v.v.
Doanh nghiệp nhà nước là
lực lượng chính trong sản xuất, cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích và thiết
yếu cho xã hội, nhưng chất lượng các sản phẩm, dịch vụ này còn hạn chế, ảnh
hưởng không tốt tới sự phát triển kinh tế và đời sống của nhân dân, điển hình
là những hạn chế trong bảo trì các mạng giao thông đường sắt, đường bộ, đường
thủy; cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục,
nghệ thuật; hệ thống công trình thuỷ lợi, đê điều, phòng chống thiên tai, bảo
vệ rừng; các dịch vụ công ích trong nông nghiệp, thoát nước đô thị, chiếu sáng
công cộng, khí tượng thủy văn, vận tải công cộng và các dịch vụ công cộng khác.
Vai trò của doanh nghiệp
nhà nước trong hỗ trợ và nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, phát triển kinh
tế xã hội, chuyển dịch cơ cấu tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó
khăn chưa nổi bật. Việc tham gia thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phục
vụ an ninh quốc phòng (trừ các doanh nghiệp nhà nước quốc phòng an ninh) có kết
quả đáng ghi nhận, song chưa thường xuyên và thiếu rõ ràng về mục tiêu, nhiệm
vụ.
Mặc dù, một số doanh nghiệp
nhà nước đã mở rộng và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế khác, nhất là
các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào các quá trình hay chu trình sản xuất[5] nhưng
phần lớn các tập đoàn, tổng công ty quy mô lớn hoạt động trong ngành, lĩnh vực
then chốt, mũi nhọn đều có cơ chế vận hành theo phương thức khép kín, thực
hiện tất cả các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh để tạo thành chuỗi sản
xuất khép kín nội bộ. Do đó, chưa tạo nhiều điều kiện để doanh nghiệp khác
ngoài tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước có thể tham gia.
e. Mô hình tổ chức đảng trong doanh nghiệp
nhà nước chưa hợp lý, vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng còn hạn chế
Mô hình tổ chức Đảng trong
doanh nghiệp chưa thực sự phù hợp với mô hình tổ chức quản lý doanh nghiệp. Vai
trò lãnh đạo của tổ chức Đảng trong doanh nghiệp chưa rõ.
Một số cấp ủy đảng chưa có
sự đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm
vụ của doanh nghiệp theo cơ chế mới, nhất là việc lãnh đạo tham gia xây dựng kế
hoạch phát triển sản xuất kinh doanh và công tác cán bộ.
Mô hình tổ chức đoàn thể
chính trị - xã hội chưa thống nhất với mô hình tổ chức đảng; tổ chức công đoàn
trong tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng thương mại nhà nước còn trực thuộc
nhiều cấp công đoàn khác nhau.
Quy hoạch, bố trí cán bộ
chuyên môn ở một số tổ chức cơ sở Đảng trong doanh nghiệp nhà nước chưa đồng bộ
với kiện toàn cấp ủy; đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu; quy trình, thủ tục trong
quy hoạch, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ còn có một số bất cập và có nơi thực
hiện chưa nghiêm túc.
1.3.
Nguyên nhân của hạn chế, yếu kém
Việc sắp xếp đổi mới, phát
triển, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước tiến hành trong bối cảnh kinh tế
thế giới và trong nước có nhiều khó khăn, phức tạp. Các năm 2001-2004, phải
khắc phục hậu quả của khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 - 1998 để lại. Từ năm
2008 đến nay, lại phải ứng phó với khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế
toàn cầu; trong nước lạm phát cao, thị trường tài chính, chứng khoán sụt giảm.
- Nguyên nhân
chủ yếu của những yếu kém nêu trên là do chưa có sự thống nhất cao về nhận thức
đối với doanh nghiệp nhà nước.
Chưa quán triệt sâu sắc
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về vai trò,
chức năng và nhiệm vụ của kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước; cũng như yêu
cầu cấp thiết phải sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước,
nên sự thống nhất chưa cao trong nhận thức và hành động; còn có những nhìn
nhận, đánh giá khác nhau.
- Việc thể chế
hoá và tổ chức thực hiện chủ trương của Đảng còn chậm và có nhiều thiếu sót.
Sau khi doanh nghiệp nhả
nước chuyển sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhưng chưa kịp thời thể chế
hóa khung pháp lý cần thiết, phù hợp cho doanh nghiệp nhà nước nên gây khó khăn
cho hoạt động của doanh nghiệp cũng như quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở
hữu (như các quy định đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà
nước làm chủ sở hữu: Quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước; thành lập tổ chức
lại và giải thể; sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích; hoạt động của
kiểm soát viên,...).
Thể chế về quản lý của chủ
sở hữu trên một số mặt phân định chưa đủ rõ, chồng chéo, có kẽ hở, nhất là về
kiểm tra, giám sát chấp hành pháp luật trong khi trao mạnh quyền tự chủ cho
doanh nghiệp và chủ trương xóa bỏ chế độ Bộ chủ quản.
Chưa thể chế hóa cụ thể
chủ trương tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước kinh doanh đa ngành, có
ngành chính nên một số tập đoàn kinh tế tổng công ty nhà nước kinh doanh đa
ngành kém hiệu quả, làm phân tán nguồn lực, gây bức xúc trong xã hội.
- Nhiều cán bộ
quản lý doanh nghiệp năng lực yếu, chưa đáp ứng yêu cầu; một bộ phận suy thoái
về đạo đức, lối sống, thậm chí vi phạm pháp luật.
Chưa có thể chế, cơ chế
thu hút cán bộ giỏi và thực hiện quản lý, đánh giá, kiểm tra, giám sát cán bộ
quản lý ở doanh nghiệp nhà nước. Cán bộ quản lý ở một số doanh nghiệp yếu kém,
không đáp ứng yêu cầu.
- Tổ chức và
phương thức hoạt động của Đảng trong doanh nghiệp nhà nước chậm đổi mới, kém
hiệu quả.
2. Quan điểm chỉ đạo
2.1.
Về vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp
nhà nước là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước, là lực lượng vật chất quan
trọng, là công cụ hỗ trợ để Nhà nước điều tiết nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ
mô, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
2.2.
Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước
Tổ chức và
hoạt động của doanh nghiệp nhà nước phải tuân theo những quy luật khách quan
của kinh tế thị trường có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước và chịu sự chi
phối, giám sát toàn diện của chủ sở hữu là Nhà nước.
2.3.
Về nội dung tiếp tục sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà
nước
- Bảo đảm để
các doanh nghiệp có cơ cấu hợp lý, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then
chốt và địa bàn quan trọng.
- Những doanh
nghiệp nhà nước có lợi thế do Nhà nước giao, có ưu thế độc quyền tự nhiên phải
được quản lý theo cơ chế phù hợp để đảm bảo điều kiện kinh doanh công bằng với
các doanh nghiệp khác.
- Tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với việc sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
quả doanh nghiệp nhà nước; đổi mới và nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức
đảng trong doanh nghiệp nhà nước.
3. Định hướng tiếp tục sắp xếp, đổi mới và
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước
Tiếp tục quán
triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 3, Nghị quyết Trung ương 9
khoá IX, Nghị quyết Đại hội XI và các nghị quyết, kết luận của Trung ương về
sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước phù hợp với bối
cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế của
nước ta ngày càng đi vào chiều sâu. Sau đây là một số định hướng cụ thể:
3.1.
Định hướng đổi mới cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực hoạt động doanh nghiệp nhà nước
- Doanh nghiệp
nhà nước phải là những doanh nghiệp đi đầu đi đầu trong đổi mới, ứng dụng khoa
học - công nghệ.
- Các doanh
nghiệp nhà nước phải là lực lượng vật chất bảo đảm giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa của nền kinh tế.
- Doanh nghiệp
nhà nước phải tập trung hoạt động ở những khâu, công đoạn then chốt của các
lĩnh vực: An ninh, quốc phòng; độc quyền tự nhiên; cung cấp hàng hoá dịch vụ
công thiết yếu và một số ngành công nghiệp nền tảng, công nghệ cao có sức lan
toả lớn. Sớm chấm dứt tình trạng đầu tư dàn trải ngoài ngành và hoàn thành việc
thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp có dưới 50% vốn nhà nước.
3.2.
Định hướng đổi mới mô hình quản trị doanh nghiệp nhà nước
- Khẩn trương
bổ sung, hoàn thiện thể chế quản lý doanh nghiệp nhà nước đồng thời với việc mở
rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp.
- Các doanh
nghiệp nhà nước phải được tổ chức lại theo mô hình công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn phù hợp với quy định của pháp luật.
- Áp dụng chế
độ quản
trị tiên tiến phù hợp với kinh tế thị trường và thực hiện chế độ kiểm
toán, kiểm tra, giám sát chặt chẽ, công khai, minh bạch trên cơ sở mở rộng diện
niêm yết trên thị trường chứng khoán.
- Chức năng hỗ
trợ điều tiết vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội của doanh nghiệp phải được đổi
mới và thay thế bằng cơ chế đặt hàng của Nhà nước, được
hạch toán theo cơ chế thị trường.
- Kết thúc
việc thực hiện chủ trương thí điểm tập đoàn kinh tế nhà nước; xem xét chuyển
một số tập đoàn kinh tế nhà nước thành tổng công ty. Các tập đoàn kinh tế, các
tổng công ty nhà nước lớn phải được cơ cấu lại; được kiểm toán hằng năm; tăng
cường vai trò và sự giám sát, kiểm tra của đại diện chủ sở hữu nhà nước, nhất
là trong việc phê duyệt điều lệ, quyết định chiến lược phát triển sản xuất,
kinh doanh, quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp.
3.3.
Về cơ chế quản lý đối với doanh nghiệp nhà nước
- Nêu cao vai
trò và trách nhiệm của hội đồng quản trị, hội đồng thành viên và ban thường vụ
đảng uỷ; thực hiện việc chủ tịch hội đồng quản trị, chủ tịch hội
đồng thành viên kiêm bí thư đảng uỷ doanh nghiệp.
- Mở rộng diện
để tiến tới áp dụng bắt buộc chế độ thi tuyển, hợp đồng có thời hạn tuỳ
thuộc vào kết quả sản xuất, kinh doanh đối với giám đốc, tổng giám đốc.
- Nghiên cứu
hình thành tổ chức thực hiện thống nhất chức năng đại diện chủ sở hữu đối
với doanh nghiệp nhà nước. Trước mắt, tập trung soát xét, điều chỉnh sự phân
cấp, phân công giữa Chính phủ và các bộ, ngành, chính quyền các địa phương
trong việc thực hiện chức năng của cơ quan đại diện chủ sở hữu doanh nghiệp nhà
nước cấp trên của hội đồng quản trị, hội đồng thành viên mà không trực tiếp chỉ
đạo hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
3.4.
Về công tác Đảng trong doanh nghiệp nhà nước
- Tăng cường
công tác xây dựng Đảng, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực quản lý
của đội ngũ lãnh đạo, đặc biệt là lãnh đạo chủ chốt của doanh nghiệp.
- Đổi mới quy
trình, xác định rõ quyền và trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân có liên quan
đến việc xem xét, quyết định nhân sự lãnh đạo chủ chốt của doanh nghiệp nhà
nước, đặc biệt là nhân sự chủ tịch và tổng giám đốc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét