Chuyên
đề 1
CÔNG
TÁC TƯ TƯỞNG Ở CƠ SỞ
Công tác tuyên giáo
là cụm từ chỉ các hoạt động tham mưu, chỉ đạo, kiểm tra của tổ chức đảng về
lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và khoa giáo.
Công
tác tuyên giáo được tiến hành tại tất cả các cấp, các ngành, các địa phương, cơ
quan, đơn vị, trường học, lực lượng vũ trang…, trong đó công tác tuyên giáo ở
cơ sở có vai trò đặc biệt quan trọng bởi vai trò nền tảng của cơ sở trong hệ
thống chính trị nước ta.
Trong
chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ công tác tuyên giáo ở cơ sở, có 3 chuyên đề,
đề cập đến 3 lĩnh vực: tư tưởng, văn hoá và khoa giáo ở cơ sở. Chuyên đề
này đề cập đến công tác tư tưởng ở cơ sở.
1. Khái niệm
Công
tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một
chính đảng, nhằm hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp
trong quần chúng, thúc đẩy quần chúng đi tới hành động.
Công
tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận cấu thành rất quan trọng
trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, là hoạt động truyền bá và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm xây dựng thế giới quan
khoa học, nhân sinh quan cộng sản, giá trị đạo đức đúng đắn. Công tác tư tưởng
góp phần tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân,
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy tính chủ động sáng tạo của
các tầng lớp nhân dân, thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội. “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Công tác tư tưởng ở cơ sở là một mặt công tác chủ yếu của tổ chức đảng, chính
quyền, đoàn thể cơ sở, nhằm tác động vào đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân ở cơ sở, củng cố nền tảng tư tưởng, động viên, cổ vũ tính tích
cực, sáng tạo của nhân dân trên địa bàn hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị
của cơ sở, góp phần vào thắng lợi chung của đất nước.
2. Vị trí, vai trò của công
tác tư tưởng ở cơ sở
a. Vị trí
Công tác tư tưởng ở cơ sở là một bộ phận hợp
thành trong hoạt động lãnh đạo của tổ chức đảng, một mặt công tác trọng yếu của
chính quyền và các tổ chức, đoàn thể trong hệ thống chính trị ở cơ sở.
Công tác tư tưởng ở cơ sở có
vị trí và ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc giữ vững và tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa ở cơ sở; xây
dựng cơ sở vững mạnh, toàn diện.
b. Vai trò
- Công tác tư tưởng ở cơ sở trước hết nhằm
xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, có sức chiến đấu cao và
không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở
cơ sở.
- Công tác tư tưởng ở cơ sở
có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc đưa đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với mỗi người dân; khơi dậy và phát huy
tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, tính chủ động, sáng tạo của quần
chúng nhằm biến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thành hiện thực,
thành phong trào hành động cách mạng của quần chúng.
- Công tác tư tưởng ở cơ sở có vai trò quan
trọng trong việc tạo nên sự thống nhất cao trong tổ chức đảng, sự đồng thuận
trong xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa
ở cơ sở.
3. Nội dung công tác tư
tưởng ở cơ sở
Nội dung công tác tư tưởng ở
cơ sở gồm các mặt công tác sau:
- Công tác giáo dục lý luận
chính trị, giáo dục truyền thống cách mạng. Đây là nội dung quan trọng hàng đầu, nhằm bồi
dưỡng, nâng cao nhận thức lý luận chính trị, lòng yêu nước, yêu quê hương, tình
cảm cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ở cơ sở, thông qua việc tổ chức
nghiên cứu, học tập, quán triệt nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, lịch sử, truyền thống đấu tranh cách mạng của đảng bộ và
nhân dân địa phương. Công tác giáo dục lý luận chính trị tạo nên sự nhất trí,
tin tưởng và quyết tâm thực hiện thắng lợi các chương trình, kế hoạch phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
- Công tác tuyên truyền nhằm phổ biến, truyền bá
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kiến thức
khoa học, kỹ thuật, công nghệ phục vụ sản xuất, đời sống, thông tin kịp thời
tình hình thời sự, chính trị…, định hướng tư tưởng trước các sự kiện tác động
đến tư tưởng, tình cảm, tâm trạng của quần chúng ở cơ sở.
- Công tác cổ động, nêu gương tốt, điển hình
tiên tiến nhằm cổ vũ hành động của quần chúng nhân dân, biến nhận thức tư tưởng
thành niềm tin, hành động cách mạng cụ thể, thành phong trào quần chúng rộng
rãi…
- Công tác văn hóa, văn nghệ
nhằm thỏa
mãn nhu cầu tinh thần của nhân dân, qua đó giáo dục đạo đức, lối sống, phát huy
truyền thống cách mạng, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.
- Công tác nắm bắt tình hình
tư tưởng, dư
luận xã hội và định hướng tư tưởng, dư luận xã hội ở cơ sở…
- Công tác đấu tranh tư
tưởng, phê
phán các quan điểm sai trái, thù địch, tin đồn và tài liệu xấu lan truyền, phát
tán tại cơ sở.
Ngoài các nội dung cơ bản
trên, công tác tư tưởng ở cơ sở còn có các nội dung khác như giáo dục thẩm mỹ,
giáo dục thể lực, giáo dục về sinh thái, môi trường… qua các hoạt động trong
lĩnh vực khoa giáo.
4. Nguyên tắc, phương châm
công tác tư tưởng ở cơ sở
a. Nguyên tắc công tác tư
tưởng
- Nguyên tắc tính đảng
Tính đảng là nguyên tắc cơ
bản nhất của công tác tư tưởng. Công tác tư tưởng phải đứng vững trên lập
trường của giai cấp công nhân, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng; chủ động đấu tranh không
khoan nhượng với những tư tưởng thù địch, phản khoa học, đi ngược lại với lợi
ích giai cấp, lợi ích dân tộc.
Công tác tư tưởng ở cơ sở là
một bộ phận trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp,
toàn diện của cấp ủy đảng, phục vụ kịp thời công tác lãnh đạo của cấp ủy, quản
lý của chính quyền; góp phần xây dựng cơ sở vững mạnh, toàn diện.
- Nguyên tắc tính khoa học
Công tác tư tưởng được tiến hành trên cơ sở
khoa học, tuân theo các quy luật vận động, biến đổi của lĩnh vực tư tưởng.
Nguyên tắc tính khoa học yêu cầu công tác tư tưởng được tiến hành có kế hoạch,
nội dung và hình thức phù hợp với từng đối tượng, đáp ứng nhu cầu giải đáp
vướng mắc và định hướng tư tưởng cho mọi đối tượng. Công tác tư tưởng phải sử
dụng các phương tiện tác động ngày càng hiện đại.
- Nguyên tắc thống nhất giữa
lý luận với thực tiễn
Công tác tư tưởng phải xuất
phát từ thực tiễn và phục vụ thực tiễn; đồng thời phải được soi sáng, định
hướng bằng lý luận, được chỉ đạo, tổ chức thực hiện một cách khoa học. Tổng kết
thực tiễn là nhiệm vụ và phương thức căn bản để thực hiện sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong công tác tư tưởng, khắc phục chủ nghĩa giáo điều và chủ
nghĩa kinh nghiệm.
Thực hiện đúng đắn và đầy đủ
những nguyên tắc trên là yêu cầu chung của công tác tư tưởng của Đảng, có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư
tưởng của Đảng nói chung và ở cơ sở nói riêng.
b. Phương châm công tác tư
tưởng ở cơ sở
Phương châm công tác tư
tưởng của Đảng là những định hướng có tính chỉ đạo trong hoạt động công tác tư
tưởng ở các cấp, các ngành. Phương châm công tác tư tưởng ở cơ sở bao gồm:
- Công tác tư tưởng phải gắn
chặt với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, với phong trào cách mạng của quần
chúng, với từng đối tượng ở cơ sở.
- Kết hợp chặt chẽ ba nội
dung giáo dục: chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiến thức khoa học, phẩm
chất và đạo đức cách mạng; kết hợp giáo dục lý luận với giáo dục tình hình và
nhiệm vụ trước mắt.
- Kết hợp công tác tư tưởng
với công tác tổ chức và các mặt công tác khác.
- Kết hợp giáo dục tư tưởng
trong học tập với việc rèn luyện trong thực tiễn cách mạng.
- Kết hợp giáo dục tư tưởng
trong nội dung sinh hoạt của tất cả các tổ chức, kết hợp công tác tư tưởng trong
Đảng với công tác tư tưởng trong xã hội.
- Kết hợp bồi dưỡng tư
tưởng, tình cảm cách mạng với phê phán mạnh mẽ những biểu hiện tư tưởng sai
trái; biểu dương những ưu điểm đi đôi với phê bình nghiêm khắc những khuyết
điểm.
5. Nhiệm vụ công tác tư tưởng
ở cơ sở
Công tác tư tưởng ở cơ sở có
sáu nhiệm vụ cơ bản:
Một là, giáo dục mục tiêu độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân có
nhận thức đúng đắn, kiên định, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức. Kiên
quyết đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch; ngăn ngừa ảnh hưởng
của chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc.
Hai là, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn
ở cơ sở góp phần phát triển, hoàn thiện đường lối và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội của Việt Nam .
Tiến hành phổ biến, quán triệt sâu rộng các nghị quyết của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước.
Ba là, nâng cao bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức, kiến thức và năng lực thực tiễn của cán bộ, đảng viên và
nhân dân, khắc phục những biểu hiện của chủ nghĩa thực dụng, suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Bốn là, giữ gìn và phát huy các giá
trị văn hóa của địa phương, cơ sở, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người mới, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Năm là, xây dựng và phát huy nhân tố
con người qua thực hiện tốt các lĩnh vực khoa giáo ở cơ sở. Chỉ đạo, hướng dẫn,
cổ vũ thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước và các phong trào xã hội khác ở cơ
sở, coi trọng việc bồi dưỡng, nhân rộng các điển hình, nhân tố mới, góp phần hoàn
thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương trong từng giai đoạn.
Sáu là, giáo dục ý thức cảnh giác,
chống các hoạt động “diễn biến hòa bình”, cơ hội chính trị, lôi kéo, chia rẽ sự
đoàn kết toàn dân ở cơ sở. Kịp thời giải quyết các mâu thuẫn nội bộ nhân dân,
không để xảy ra khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện tập thể, không có điểm nóng ở cơ
sở.
II. LỰC LƯỢNG LÀM CÔNG TÁC
TƯ TƯỞNG Ở CƠ SỞ
Công tác tư tưởng là nhiệm
vụ của toàn Đảng, là trách nhiệm của mỗi
cán bộ, đảng viên, đồng thời cần phải
có lực lượng chuyên trách, có nghiệp
vụ và kinh nghiệm công tác. Ngay từ khi thành lập Đảng ta đã thành lập Ban
Tuyên giáo (ngày truyền thống ngành Tuyên giáo của Đảng lấy ngày 01-8-1930), cơ
quan tham mưu và giúp cấp ủy thực hiện công tác tư tưởng của Đảng.
Nhiệm vụ của Ban Tuyên giáo
đảng ủy cơ sở gồm:
Một là, giúp cấp ủy xây dựng và tổ
chức thực hiện kế hoạch công tác giáo dục lý luận chính trị, nâng cao nhận thức
và sự thống nhất tư tưởng và hành động trong Đảng, thực hiện thắng lợi các
nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
Hai là, giúp cấp ủy xây dựng và tổ
chức thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức, lối sống, đấu tranh chống quan liêu,
tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống, ngăn chặn các
tệ nạn xã hội; là thường trực Ban chỉ đạo của Cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” của đảng ủy cơ sở.
Ba là, giúp cấp ủy xây dựng kế
hoạch công tác tư tưởng của chi bộ, đảng bộ trong cuộc vận động xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh. Ban Tuyên giáo vừa
xây dựng kế hoạch (kế hoạch theo nhiệm kỳ đại hội của chi bộ, đảng bộ; kế hoạch
năm, quý, kế hoạch thực hiện chương trình hành động của cấp ủy…) vừa trực tiếp
tác nghiệp trên các lĩnh vực sau:
+ Giữ vai trò nòng cốt trong
việc tuyên truyền, giáo dục, vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Ban Tuyên giáo
cùng với mạng lưới cộng tác viên từ xã, phường đến thôn, làng, ấp, bản, tổ dân
phố, tổ nhân dân tự quản, các đoàn thể nhân dân, các nghiệp đoàn, hội… là lực
lượng quan trọng trong công tác giáo dục cán bộ, đảng viên làm theo Điều lệ
Đảng, xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh.
+ Phát hiện kịp thời những
vấn đề tư tưởng mới nảy sinh để tham mưu giúp cấp ủy các biện pháp giải quyết.
Phát hiện kịp thời gương người tốt, việc tốt để tuyên truyền và nhân rộng trong
Đảng, trong nhân dân.
+ Hướng dẫn, phối hợp, đôn
đốc, kiểm tra các lực lượng trong xã, phường, thôn, làng, ấp, bản, khu phố…
thực hiện nhiệm vụ công tác tư tưởng.
+ Trực tiếp
chỉ đạo về nội dung chính trị, tư tưởng của các tài liệu phục vụ cho hoạt động
tuyên truyền của mạng lưới báo cáo viên, tuyên truyền viên, đội văn nghệ, đài
truyền thanh, nhà văn hóa, điểm bưu điện – văn hóa, thư viện, tủ sách, bản
tin,…
- Hướng dẫn nội dung sinh
hoạt định kỳ hoặc đột xuất của đảng bộ, chi bộ.
Bốn là, tham mưu cho cấp ủy về kế
hoạch, nội dung tiến hành thường xuyên cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa
bình” về tư tưởng, văn hóa, lối sống…
Ban tuyên giáo cơ sở phải
xây dựng kế hoạch, xác định rõ nội dung, phương pháp, phối hợp lực lượng, tiến
hành sơ kết theo từng đợt, từng chủ đề; báo cáo cấp ủy theo định kỳ và không
định kỳ về tình hình diễn biến tư tưởng trong Đảng, trong nhân dân, đánh giá
khả năng “đề kháng” của cán bộ, đảng viên, nhân dân trước những diễn biến phức
tạp của tình hình thế giới, trong nước, địa phương; trước những khó khăn, biến
động trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Phương thức hoạt động chủ
yếu của ban tuyên giáo đảng ủy cơ sở là:
+ Xây dựng kế hoạch hoạt
động: bao gồm kế hoạch dài hạn (theo nhiệm kỳ đại hội của đảng bộ, chi bộ) kế
hoạch năm, quý, tháng, kế hoạch theo các chủ đề… Đây là vấn đề có tính nguyên
tắc, làm cơ sở cho các mặt công tác khác.
+ Lên lịch sinh hoạt: họp
định kỳ; giao ban tư tưởng định kỳ với cấp ủy; mạng lưới cộng tác viên (các
đoàn thể, báo cáo viên, tuyên truyền viên, các nghiệp đoàn, các hội đoàn, các
cơ quan giáo dục, y tế…). Xây dựng chế độ báo cáo và phân công giải quyết công
việc cho các thành viên của Ban.
2. Phối hợp lực lượng làm
công tác tư tưởng ở cơ sở
a. Các lực lượng chủ yếu làm
công tác tư tưởng ở co sở
- Ban Tuyên giáo đảng ủy cơ
sở, các đồng chí bí thư các chi bộ, tổ trưởng tổ nhân dân tự quản, báo cáo
viên, tuyên truyền viên.
- Ban Công tác Mặt trận và
trưởng các đoàn thể, hội, nghiệp đoàn, phụ trách nhà văn hóa, bưu điện – văn
hóa xã, trung tâm giáo dục cộng đồng, đài truyền thanh…
- Ban Giám hiệu trường phổ
thông cơ sở, Trưởng Trạm y tế…
- Các đơn vị quân đội, công
an, bộ đội biên phòng đóng trên địa bàn…
b. Các hình thức phối hợp
lực lượng
- Phối hợp lực lượng trong
công tác tuyên truyền, giáo dục thực hiện các cuộc sinh hoạt chính trị, các
phong trào thi đua yêu nước, các ngày kỷ niệm, các sự kiện lớn của đất nước.
- Phối hợp tổ chức các hội
nghị, hội thảo về các lĩnh vực tư tưởng – văn hóa.
- Cấp ủy làm nhiệm vụ kiểm
tra thường xuyên việc thực hiện các nhiệm vụ công tác tư tưởng – văn hóa của
các đoàn thể nhân dân, các đơn vị văn hóa, thông tin trên địa bàn.
- Cấp ủy lực chọn, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng – văn hóa.
III - ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC TƯ
TƯỞNG Ở CƠ SỞ TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
1. Thực trạng tư tưởng và
công tác tư tưởng ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay
a. Tình hình tư tưởng ở cơ
sở
Sự nghiệp đổi mới đất nước
dưới sự lãnh đạo của Đảng trong những năm qua đạt được những thành tựu to lớn
và có ý nghĩa lịch sử. Đó là nguồn động viên, cổ vũ lớn lao đối với toàn Đảng,
toàn dân ta. Đại bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân ta phấn khởi, tin tưởng
và quyết tâm thực hiện thắng lợi nghị quyết của Đảng và các chính sách, pháp
luật của Nhà nước, các chủ trương, nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
của địa phương.
Trong cơ chế thị trường, một
bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng năng động, tích cực, thích ứng
và phát huy tài năng, trí tuệ vươn lên, vượt qua đói nghèo, chiến thắng lạc
hậu. Nhiều tấm gương tiêu biểu có mặt trên khắp mọi miền của Tổ quốc, ở mọi
cấp, mọi ngành đã có sức động viên lôi cuốn đông đảo quần chúng vươn lên. Sự ổn
định về tư tưởng, chính trị ở cơ sở ngày càng vững chắc.
Tuy nhiên, ở nhiều nơi, do
sản xuất chậm phát triển, đời sống của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, thiếu
thốn, dân trí thấp, công tác giáo dục tư tưởng và quản lý xã hội còn thiếu sót,
khuyết điểm, nên tình hình tư tưởng ở một số cơ sở còn có diễn biến phức tạp.
Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, xa dân của một số cán bộ, đảng viên, công
chức, các tiêu cực và tệ nạn xã hội đang có chiều hướng phát triển đã tác động
đến niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ, đặc biệt tại cơ sở. Tại một số
vùng trọng yếu, các thế lực thù địch đang tập trung chống phá quyết liệt, tạo
nên sự mất ổn định về tư tưởng, gây mơ hồ về chính trị, ảo tưởng về chủ nghĩa
tư bản, thiếu sự nhất trí và đồng thuận với chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước trong một bộ phận nhân dân. Tệ nạn xã hội,
sự xuống cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ
phận cán bộ, đảng viên và nhân dân vẫn là vấn nạn và rất bức xúc hiện nay. Hiện
tượng phai nhạt lý tưởng trong một bộ phận thanh niên, tư tưởng thực dụng, sùng
ngoại trong nhân dân có chiều hướng gia tăng…
b. Công tác tư tưởng ở cơ sở
trong thời gian qua
Trong những năm qua, nhất là
từ khi có Nghị quyết Trung ương 5, khóa IX về “nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư
tưởng, lý luận trong tình hình mới” và gần đây là Nghị quyết Trung ương 5 khóa
X về “Công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới”, công tác tư
tưởng ở cơ sở đã được các cấp ủy đảng, ban tuyên giáo các cấp quan tâm, chỉ đạo
sâu sát hơn, đầu tư lực lượng cán bộ, cơ sở vật chất… ngày càng tốt hơn.
Bên cạnh đó, công tác tư
tưởng ở cơ sở còn nhiều hạn chế, yếu kém:
Công tác tư tưởng ở một số
cơ sở chưa được tổ chức và tiến hành chu đáo, chặt chẽ, có biểu hiện buông
lỏng, coi nhẹ. Một số nơi đầu tư cho công tác tư tưởng ở cơ sở quá yếu, cả về
lực lượng và phương tiện. Đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng ở cơ sở nhìn
chúng vừa thiếu lại vừa yếu.
2. Một số kinh nghiệm trong
tổ chức và hoạt động công tác tư tưởng ở cơ sở
a. Tăng cường sự chỉ đạo,
hướng dẫn của cấp ủy và ban tuyên giáo các cấp đối với công tác tư tưởng ở cơ
sở
b. Phát huy vai trò của cấp
ủy, chính quyền và các đoàn thể nhân dân trong hệ thống chính trị ở cơ sở để
tiến hành công tác tư tưởng
c. Bám sát thực tiễn cuộc
sống ở cơ sở, kịp thời giáp đáp những đòi hỏi của thực tiễn làm cho công tác tư
tưởng có sức sống và hiệu quả cao
d. Phát huy nhân tố tích cực
trong nhân dân, dựa vào nhân dân để tuyên truyền giáo dục, vận động nhân dân.
3. Đổi mới công tác tư tưởng
ở cơ sở
Với phương châm hướng về cơ
sở, xây dựng cơ sở vững mạnh, tạo tiền đề tiến hành công tác tư tưởng có chiều
rộng, chiều sâu và sức sống bền vững trong toàn xã hội, vấn đề đổi mới công tác
tư tưởng ở cơ sở đang được đặt ra một cách bức xúc.
a. Đổi mới nhận thức của cấp
ủy và nhận thức của cán bộ, đảng viên đối với công tác tư tưởng ở cơ sở
Cần thống nhất quan điểm,
nhận thức về vị trí, vai trò quan trọng, tác dụng to lớn của công tác tư tưởng
đối với mọi hoạt động ở cơ sở. Khắc phục mọi biểu hiện coi nhẹ, trông chờ, ỷ
lại vào cấp trên, khoán trắng cho cán bộ chuyên trách.
b. Đổi mới nội dung công tác
tư tưởng ở cơ sở
Trước hết, cần đổi mới nội
dung và hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước.
c. Đổi mới phương thức tiến
hành công tác tư tưởng ở cơ sở
Đang dạng hóa các hình thức
tiến hành công tác tư tưởng ở cơ sở, làm cho công tác tư tưởng luôn phong phú,
sinh động, đáp ứng yêu cầu của mọi đối tượng, trong mọi hoành cảnh.
d. Đổi mới cơ chế, chính
sách đối với công tác tư tưởng
Trước hết, cần tăng cường
điều kiện vật chất, phương tiện làm công tác tư tưởng ở cơ sở, như sách, báo,
tài liệu, phương tiện nghe nhìn, phương tiện thông tin, cổ động… Đảm bảo mỗi
thành viên của ban tuyên giáo cơ sở có đủ các tài liệu và được bồi dưỡng về
nghiệp vụ, cung cấp thông tin kịp thời. Có chế độ bồi dưỡng nghiệp vụ hàng năm
(theo định kỳ) do ban tuyên giáo cấp huyện tổ chức.
Chuyên đề 2
CÔNG TÁC GIÁO DỤC LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ VÀ GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG Ở CƠ SỞ
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG
TÁC GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
1. Khái niệm
Công tác giáo dục lý luận
chính trị là
một bộ phận cơ bản trong công tác tư tưởng của Đảng, thực hiện việc truyền bá
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối, quan điểm
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong cán bộ, đảng viên và nhân
dân. Công tác giáo dục lý luận chính trị nhằm hình thành thế giới quan, phương
pháp luận khoa học, nhận thức tư tưởng, bản lĩnh chính trị, niềm tin và năng
lực hoạt động thực tiễn cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân, đáp ứng yêu
cầu của từng thời kỳ phát triển của đất nước.
2. Vai trò công tác giáo dục
lý luận chính trị
Công tác giáo dục lý luận
chính trị có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, xuất
phát từ những yếu tố sau:
Thứ nhất, vai trò của lý luận chính
trị đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Chính đảng của giai cấp công
nhân không ra đời một cách tự phát. Đó là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ
nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân. Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào công nhân
và phong trào yêu nước. Phong trào công nhân và phong trào yêu nước là cơ sở
vật chất, chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở tinh thần cho sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam .
Không có sự truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào công nhân thì không
thể có sự ra đời của Đảng.
Thứ hai, công tác giáo dục lý luận
chính trị giữ vai trò quan trọng trong mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam .
Thứ ba, công tác giáo dục lý luận
chính trị có vai trò quan trọng trong công tác xây dựng Đảng vững mạnh về chính
trị, tư tưởng, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, xây dựng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo của Đảng, xây dựng con người mới.
Chính vì vậy, công tác giáo
dục lý luận chính trị có vai trò quan trọng trong công tác xây dựng Đảng từ
Trung ương đến cơ sở.
3. Yêu cầu, nhiệm vụ công
tác giáo dục lý luận chính trị trong thời kỳ mới
Hiện nay toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân đang tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Nhiệm vụ chính trị trong thời kỳ mới hết sức nặng nề.
Mặt khác, các lực lượng thù
địch đang tăng cường chống phá cách mạng nước ta trên cả lĩnh vực lý luận và
thực tiễn.
a) Yêu cầu của công tác giáo
dục lý luận chính trị trong thời kỳ mới
Một là, tạo ra sự nhất trí cao đối
với đường lối của Đảng, có ý chí nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, đẩy mạnh
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hai là, xây dựng con người Việt Nam
đủ khí phách bản lĩnh, phẩm chất, đạo đức và kiến thức trong thời kỳ mới, thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu xã hội chủ
nghĩa, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”.
Ba là, phát huy tinh thần cách mạng
tiến công, giữ vững và tăng cường chủ động trên trận địa tư tưởng, làm thất bại
mọi âm mưu, thủ đoạn và hành động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng –
văn hóa của các thế lực thù địch.
b. Nhiệm vụ của công tác
giáo dục lý luận chính trị trong thời kỳ mới
Một là, tiếp tục giáo dục trong Đảng
và nhân dân kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối mới của
Đảng, làm cho ý chí kiên định đó trở thành lập trường chính trị không thể lay
chuyển, kiên quyết đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch, ngăn
ngừa ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc. Kiên định nhưng phải sáng
tạo, phát triển không ngừng.
Hai là, tiếp tục giáo dục sâu rộng
trong Đảng và nhân dân đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
Giai đoạn hiện nay cần tập
trung quán triệt quan điểm cơ bản của Đảng “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước kém phát triển” và “phấn
đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại”.
Ba là, giáo dục nâng cao bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức, kiến thức và năng lực thực tiễn của cán bộ, đảng
viên và nhân dân, thực hiện thắng lợi Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và
nhân dân.
Bốn là, giáo dục, nâng cao cảnh
giác, chống các âm mưu, thủ đoạn và hành động “diễn biến hòa bình” gây bạo
loạn, lật đổ và răn đe quân sự của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.
II. CÔNG TÁC GIÁO DỤC LÝ
LUẬN CHÍNH TRỊ Ở CƠ SỞ
1. Đối tượng, nội dung giáo
dục lý luận chính trị ở cơ sở
- Công tác giáo dục lý luận
chính trị ở cơ sở thuộc hệ giáo dục phổ cập, vì vậy phải quan tâm đến mọi thành
viên ở cơ sở, trước hết là cán bộ, đảng viên và đội ngũ cán bộ, công chức trong
hệ thống chính trị ngoài diện đào tạo, bồi dưỡng do trường chính trị tỉnh,
thành phố phụ trách và các đoàn viên, hội viên của các đoàn thể nhân dân ở cơ
sở.
- Nội dung cơ bản của giáo
dục lý luận chính trị ở cơ sở là những vấn đề cơ bản, thiết thực nhất của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước… theo hướng dẫn của Ban Tuyên giáo
Trung ương.
2. Tổ chức lực lượng làm
công tác giáo dục lý luận chính trị ở cơ sở
Theo đối tượng được phân
cấp, tổ chức lực lượng làm công tác giáo dục lý luận chính trị ở cơ sở bao gồm
những lực lượng chủ yếu sau:
- Ban Tuyên giáo và Trung
tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện.
- Ban Tuyên giáo cấp xã là
cơ quan tham mưu và là lực lượng chủ yếu trực tiếp giúp cấp ủy tổ chức học tập
Nghị quyết và các chỉ thị của Đảng.
- Lãnh đạo các đoàn thể nhân
dân: Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên, Công đoàn, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến
binh, Hội Phụ nữ… tuyên truyền và tổ chức học tập chính trị cho hội viên, đoàn
viên các đoàn thể nhân dân.
- Giáo viên của hệ thống
trường học ở cơ sở tuyên truyền, giáo dục chính trị cho học sinh theo các
chương trình thuộc hệ thống giáo dục quốc dân.
3. Một số vấn đề nghiệp vụ
công tác giáo dục lý luận chính trị ở cơ sở
a. Về giáo dục chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Xây dựng quy hoạch, kế
hoạch bồi dưỡng lý luận chính trị hàng năm cho các đối tượng: Bí thư đảng bộ,
chi bộ, cấp ủy viên; trưởng thôn, trưởng bản; đảng viên mới; đối tượng phát
triển Đảng; trưởng các ban, ngành, đoàn thể… Kế hoạch được cấp ủy thông qua rồi
gửi lên Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện để Trung tâm đưa vào kế hoạch mở
lớp.
b. Về triển khai học tập
nghị quyết của Đảng
- Tổ chức học tập nghị quyết
cho đảng viên
+ Xây dựng kế hoạch học tập
nghị quyết, chuẩn bị tài liệu và những điều kiện vật chất khác, thông báo sớm
để đảng viên sắp xếp công việc đến dự đông đủ, nghiêm túc. Cố gắng tổ chức để
tất cả đảng viên trong đảng bộ được học. Nếu số lượng đảng viên đông có thể
phân chai thành hai, ba lớp nối tiếp nhau, hoặc tổ chức học tập kỹ cho đội ngũ
đảng ủy viên, bí thư chi bộ, chi ủy viên để về truyền đạt, hướng dẫn lại cho
đảng viên trong chi bộ.
+ Lựa chọn, bố trí báo cáo
viên nắm chắc tinh thần nội dung cơ bản của nghị quyết và có phương pháp trình
bày, phân tích dễ hiểu, dễ nhớ để giúp người học hiểu đúng, hiểu rõ nghị quyết.
+ Mỗi lần học nghị quyết
nhất thiết phải có báo cáo của cấp ủy về chương trình hành động thực hiện nghị
quyết của cơ sở.
+ Cố gắng bảo đảm cho mỗi
chi bộ có ít nhất một cuốn Văn kiện nghị quyết và cuốn tài liệu học tập nghị
quyết (tài liệu dành cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở) giúp đảng viên trong chi bộ
nghiên cứu sâu và kỹ hơn.
+ Khi đã học nghị quyết, đã
có chương trình hành động phải tập trung chỉ đạo có hiệu quả, tạo chuyển biến
thực sự, đảm bảo lời nói đi đôi với việc làm. Đảng viên nào không làm, làm
không đầy đủ hoặc làm trái nghị quyết của Đảng phải bị phê bình, xử lý nghiêm
túc.
- Tổ chức tuyên truyền nghị
quyết trong nhân dân.
+ Việc giáo dục nghị quyết,
trước hết thông qua các hình thức sinh hoạt của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân ở cơ sở, chú trọng bồi dưỡng đội ngũ cán bộ để họ phát huy được
vai trò tích cực trong việc tổ chức học tập và thực hiện nghị quyết trong tổ
chức, đoàn thể mình.
+ Gắn nội dung tuyên truyền,
phổ biến nghị quyết với nội dung các kỳ sinh hoạt xóm, thôn, tổ dân phố. Sử
dụng có hiệu quả hệ thống truyền thanh xã, phường để giúp nhân dân hiểu được
những điều thật cần thiết trong nghị quyết.
Tài liệu phổ biến rộng rãi
dành cho nhân dân là cuốn sách Hỏi – Đáp do Ban Tuyên giáo Trung ương biên
soạn. Chương trình hành động của đảng bộ phải được tuyên truyền, phổ biến rộng
rãi và trở thành các phong trào hoạt động cụ thể của nhân dân hưởng ứng và làm
theo nghị quyết của Đảng.
c. Về tổ chức giáo dục sâu
rộng chính sách, pháp luật của Nhà nước
- Chính sách pháp luật của
Nhà nước là sự thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng. Vì vậy, giáo dục
chính sách, pháp luật chính là nội dung, hình thức giáo dục lý luận chính trị.
Cần có kế hoạch tổ chức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nghiên cứu về các
chính sách, pháp luật hiện hành, nhất là các chính sách pháp luật có quan hệ
trực tiếp đến đời sống của nhân dân, như Luật Đất đai, Luật Bảo vệ rừng, Luật
Hợp tác xã, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí, Bộ luật Hình sự, Bộ Luật Dân sự, Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Giáo dục,
Pháp lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo, Luật Hôn nhân và gia đình v.v…
- Mọi đảng viên phải học,
nắm vững và thực hiện nghiêm túc, đồng thời phổ biến sâu rộng và vận động nhân
dân chấp hành đúng chính sách, pháp luật hiện hành của Nhà nước.
- Hình thức giáo dục chủ yếu
là thông qua sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt đoàn thể, thôn xóm, tổ dân phố… Mặt
khác, cần thường xuyên theo dõi kiểm tra kịp thời biểu dương những gương chấp
hành tốt; nhắc nhở, phê phán những trường hợp làm sai, nhất là những việc cố ý
làm trái quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Sử dụng có
hiệu quả tủ sách pháp luật của xã, phường, đơn vị.
d) Thực hiện nhiệm vụ kiểm
tra công tác giáo dục lý luận chính trị ở cơ sở
Đảng ủy cơ sở cần thường
xuyên kiểm tra cán bộ, đảng viên thực hiện các quy định nói trên, kịp thời biểu
dương những tấm gương học tập tốt; nhắc nhở, phê bình những trường hợp lười
học, ngại học. Hàng năm, khi phân tích chất lượng chi bộ, đảng viên cần lấy kết
quả học tập, nhất là học tập lý luận chính trị làm một tiêu chuẩn để xem xét,
đánh giá.
III. CÔNG TÁC BIÊN SOẠN LỊCH
SỬ ĐẢNG BỘ CẤP XÃ VÀ GIÁO DỤC TRUYỀN THÔNG CÁCH MẠNG
1. Về biên soạn lịch sử đảng bộ
cấp xã
a. Một số công việc cần tiến
hành để biên soạn lịch sử đảng bộ xã, phường, thị trấn.
- Công tác nghiên cứu biên
soạn lịch sử đảng bộ cấp xã do Ban Thường vụ cấp ủy đảng trực tiếp lãnh đạo về
mọi mặt.
- Sự lãnh đạo của Ban thường
vụ cấp ủy đảng bao gồm những công việc sau:
+ Quyết định những chủ
trương về nghiên cứu lịch sử Đảng.
+ Cho ý kiến về những kết
luận trong nội dung nhất là kết luận về bước ngoặt của lịch sử đảng bộ.
+ Ra quyết định cung cấp
kinh phí cho việc hoàn thành cuốn lịch sử đảng bộ.
+ Thành lập Hội đồng chỉ đạo
biên soạn lịch sử đảng bộ.
+ Thành lập Ban biên soạn
gồm một chủ biên và các thành viên (có sự kết hợp với Ban Tuyên giáo tỉnh và
huyện).
b. Xã hội hóa các công trình
lịch sử đảng bộ
Sau khi cuốn lịch sử đảng bộ
đã được in ấn, cần có kế hoạch tuyên truyền, giáo dục trong Đảng, trong nhà
trường, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Ban Tuyên giáo lập kế hoạch phổ biến
và phát huy vai trò của cuốn lịch sử trình ban thường vụ thông qua. Trong tổ
chức tuyên truyền và phổ biến cuốn lịch sử cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa
thường trực Đảng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
Để phát huy tác dụng của
Lịch sử đảng bộ, cần thực hiện nhiều hình thức phong phú. Trong thời gian qua,
đã có nhiều địa phương tổ chức cuộc thi tìm hiểu về lịch sử đảng bộ địa phương
nhân ngày kỷ niệm thành lập đảng bộ. Ban Tuyên giáo phối hợp với các phương
tiện thông tin đại chúng, báo, đài, truyền hình trong việc tuyên truyền, giáo
dục lịch sử đảng bộ địa phương. Nhiều tỉnh đưa vào chương trình học tập của nhà
trường…
2. Công tác giáo dục truyền
thống cách mạng ở cơ sở
a. Mục đích của giáo dục
truyền thống
- Truyền thống là thói quen
được hình thành từ lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế
hệ này sang thế hệ khác. Truyền thống có tính cộng đồng và tính lịch sử; có
tính ổn định và bền vững tương đối; có thể trở thành những chuẩn mực, định
hướng hành động cho các cá nhân và cộng đồng.
- Truyền thống cách mạng là
truyền thống của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản.
Giáo dục truyền thống cách
mạng nhằm nâng cao lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho quần chúng nhân dân
là một nhiệm vụ thường xuyên, cần thiết đối với Đảng Cộng sản cầm quyền trong
tiến trình xây dựng và phát triển đất nước.
b. Nội dung chủ yếu của giáo
dục truyền thống cách mạng
- Giáo dục chủ nghĩa yêu
nước. Yêu nước là giá trị truyền thống cao quý nhất của nhân dân ta được hun
đúc suốt quá trình hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, trở thành cội nguồn sức
mạnh của dân tộc. Ngày nay giáo dục truyền thống yêu nước cần gắn liền với yêu
cầu chủ nghĩa xã hội, đó là mục tiêu lý tưởng của Đảng ta và của dân tộc ta.
- Giáo dục truyền thống đoàn
kết, gắn bó trong cộng đồng dân tộc. Lòng nhân ái “Thương người như thể thương
thân”, truyền thống đoàn kết hợp tác, giúp nhau trong khó khăn, hoạn nạn… là
truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta, ngày nay được Đảng ta kế thừa và
phát huy trên tinh thần của chủ nghĩa nhân đạo mác xít, trên tinh thần quốc tế
vô sản cao cả.
- Truyền thống anh hùng, bất
khuất trong đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta được Đảng ta phát
huy và phát triển thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu và lao
động sáng tạo trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc hiện nay.
- Cần cù và sáng tạo trong
lao động là nét đẹp truyền thống của nhân dân ta. Trong cách mạng, truyền thống
ấy được kế thừa và phát huy trên tinh thần tự hào và tự tôn dân tộc, trở thành
thái độ lao động mới, lao động sáng tạo, có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất
lao động cao, phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
- Tinh thần lạc quan cách
mạng trong cuộc sống và trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng. Đây cũng là truyền
thống tốt đẹp của dân tộc được Đảng ta phát huy và phát triển trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam .
- Trong quá trình cách mạng
dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với những truyền thống vốn có của dân tộc thì
nhiều giá trị tinh thần mới được hình thành và phát triển, trở thành truyền
thống tốt đẹp của nhân dân ta như tinh thần dân chủ, thi đua yêu nước, “uống
nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, tinh thần quốc tế thủy chung trong sáng…
Giáo dục truyền thống cách
mạng là nhằm “xây dựng những con người và thế hệ Việt Nam gắn bó thiết tha với
lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí
kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, giữ gìn và phát huy các giá trị của văn hóa dân tộc, có năng lực tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại, phát huy tiềm năng của dân tộc và con người
Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ
tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực
hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khỏe,
là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như
lời căn dặn của Bác Hồ.
c. Hình thức giáo dục truyền
thống cách mạng
Tùy theo nội dung và điều
kiện cụ thể của từng cơ sở mà có thể lựa chọn các hình thức phù hợp
Theo sự tập hợp từ các
ngành, địa phương, có một số hình thức sau:
- Tổ chức mít tinh tuyên
truyền cổ động ở cơ sở vào dịp vác ngày lễ lớn của dân tộc và cách mạng.
- Tổ chức tốt công tác tuyên
truyền miệng, thông tin cổ động về đề tài này qua hoạt động của các đoàn thể
chính trị ở địa phương.
- Tổ chức sinh hoạt chính
trị tư tưởng, thi tìm hiểu các đề tài về truyền thống cách mạng; nêu gương;
tham quan; lễ hội quần chúng.
- Sử dụng các loại hình văn
học nghệ thuật, thể dục, thể thao…
Cần tổ chức sơ kết, tổng kết
rút kinh nghiệm công tác giáo dục truyền thống theo định kỳ hàng tháng, quý,
năm. Tổ chức rút kinh nghiệm sau mỗi đợt phát động phong trào, tổ chức các hội
thi… Đây là việc làm cần thiết góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả
công tác giáo dục truyền thống cách mạng.
3. Về tổ chức lấy ý kiến của
các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước
- Thông qua các cuộc tổ chức
lấy ý kiến cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia xây dựng đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ giáo dục lý luận
chính trị.
- Để đạt được yêu cầu tập
hợp trí tuệ của đông đảo cán bộ, đảng viên, nhân dân ở cơ sở và thực hiện nhiệm
vụ giáo dục lý luận chính trị, cần tạo điều kiện để mọi người chuẩn bị những ý
kiến có chất lượng; tổ chức các cuộc đóng góp ý kiến nghiêm túc, dân chủ, khơi
dậy được không khí thảo luận, tranh luận xây dựng thẳng thắn. Khắc phục tình
trạng làm hình thức, chiếu lệ, chỉ cốt cho xong việc trên giao.
Chuyên đề 3
CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, CỔ
ĐỘNG Ở CƠ SỞ
1. Khái niệm
Tuyên truyền, cổ động theo nghĩa rộng là hoạt động
có mục đích của một chủ thể nhằm truyền bá những tri thức, giá trị tinh thần,
tư tưởng đến đối tượng, biến những tri thức, giá trị tinh thần, tư tưởng đó
thành nhận thức, niềm tin, tình cảm, cổ vũ đối tượng hành động theo những định
hướng do chủ thể tuyên truyền đặt ra. Cùng với công tác lý luận, công tác tuyên
truyền và công tác cổ động là ba bộ phận họp thành của công tác tư tưởng.
Tuyên truyền và cổ động là
hai hình thái của công tác tư tưởng, có mối quan hệ, gắn bó mật thiết với nhau.
2. Vai trò của công tác
tuyên truyền, cổ động
Tuyên truyền, cổ động là
những bộ phận quan trọng của công tác tư tưởng. Trong điều kiện bùng nổ thông
tin, công tác tuyên truyền, cổ động càng trở nên quan trọng để định hướng thông
tin, làm cho cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân tiếp nhận các chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước một cách đầy đủ, đúng đắn.
- Là công cụ để định hướng
tư tưởng, hướng dẫn suy nghĩ và hành động của toàn xã hội.
- Góp phần quan trọng để xây
dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa.
- Góp phần tăng cường mối
quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, xây dựng khối đoàn kết thống nhất
trong Đảng, tăng cường sự đồng thuận trong xã hội.
- Là công cụ sắc bén trong
đấu tranh bảo vệ chân lý, chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”
của các thế lực thù địch; phê phán các quan điểm sai trái, lệch lạc nảy sinh
trong cán bộ, đảng viên và nhân dân trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới
của Đảng và Nhà nước.
3. Những hình thức chủ yếu
của tuyên truyền cổ động
Hình thức tuyên truyền, cổ
động rất đa dạng, nhưng tập trung vào mấy loại hình sau đây:
a. Tuyên truyền
- Tuyên truyền miệng. Đây là hình thức tuyên
truyền đặc biệt quan trọng, nhất là ở cơ sở, được thực hiện chủ yếu bởi đội ngũ
báo cáo viên, tuyên truyền viên, thông qua các hình thức giao tiếp trực tiếp,
như nói chuyện thời sự, tọa đàm, hội thảo, kể chuyện gương người tốt, việc tốt…
- Tuyên truyền thông qua các
ấn phẩm viết, như
sách, báo (báo in, báo điện tử), bản tin, khẩu hiệu, biểu ngữ, truyền đơn, tờ
gấp…
- Tuyên truyền thông qua
nghe, nhìn, như
phát thanh truyền hình, phim ảnh, triển lãm, tham quan…, trong đó vai trò của
truyền hình ngày càng trở nên quan trọng do tính phổ cập, nhanh chóng và rộng
rãi trong toàn xã hội.
Tuyên truyền bằng các hoạt
động văn hóa, nghệ thuật, thông qua các hoạt động của ngành văn hóa, nghệ thuật…
- Tuyên truyền tổng hợp, kết hợp cổ động, tuyên
truyền miệng, phim ảnh, thơ ca, hò, vè… (tuyên truyền lồng ghép).
b. Cổ động
- Cổ động miệng qua hệ thống
loa, phát thanh, truyền thanh, v.v…
- Cổ động bằng panô, áp phích,
các khẩu hiệu.
- Cổ động bằng và trên các
phương tiện thông tin đại chúng.
- Cổ động bằng tuần hành,
mít tinh…
Mỗi hình thức tuyên truyền,
cổ động nêu trên đều quan trọng và có ưu thế riêng. Việc quyết định sử dụng
hình thức nào phải xuất phát từ nội dung, tính chất và yêu cầu cụ thể của từng
vấn đề, từng đợt tuyên truyền, đối tượng và khả năng kinh tế của địa phương, cơ
sở.
4. Nguyên tắc cơ bản của
công tác tuyên truyền, cổ động
Công tác tuyên truyền, cổ
động có các nguyên tắc cơ bản sau:
a. Tính đảng
- Tính đảng là một trong
những nguyên tắc cơ bản của công tác tuyên truyền, cổ động. Nguyên tắc tính
đảng đòi hỏi việc xem xét, lý giải mọi hiện tượng, sự kiện của đời sống xã hội
đều phải dựa trên lập trường, quan điểm, của giai cấp công nhân, vì lợi ích của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
- Nguyên tắc tính đảng trong
công tác tuyên truyền, cổ động đòi hỏi người làm công tác tuyên truyền, cổ động
phải có niềm tin vững chắc vào chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sự
lãnh đạo của Đảng và thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Nội dung tuyên truyền,
cổ động phải định hướng xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học, nhân
sinh quan cách mạng cho quần chúng.
- Phải nêu cao tinh thần
chiến đấu trong công tác tuyên truyền, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh
chống các quan điểm sai trái, phản động, các biểu hiện tiêu cực, tham nhũng,
xâm phạm quyền làm của của nhân dân.
b. Tính khoa học, thực tiễn
- Tính khoa học đòi hỏi công
tác tuyên truyền, cổ động phải phân tích, đánh giá, tìm ra mối liên hệ giữa các
hiện tượng và lý giải đúng đắn bản chất sự việc và hiện tượng trên cơ sở khoa
học.
- Công tác tuyên truyền phải
xuất phát từ thực tiễn và phục vụ thực tiễn ở cơ sở, tham gia giải quyết các
vấn đề thực tiễn đặt ra.
- Nội dung, hình thức tuyên
truyền, cổ động phải phù hợp với từng đối tượng cụ thể.
c. Tính chân thực
Tính chân thực là
nguyên tắc quan trọng của công tác tuyên truyền. Tính chân thực đòi hỏi việc
tuyên truyền, cổ động phải giải thích những thành tựu cũng như những sai lầm,
thiếu sót trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội một cách trung thực, khách quan,
không được nói dối, nói quá, thổi hồng, bao che, xuyên tạc sự thật…
d. Tính chiến đấu
- Tính chiến đấu chính là
bản chất của công tác tuyên truyền, cổ động chính trị. Tính chiến đấu biểu hiện
ở sự nhạy bén chính trị, tinh thần tiến công cách mạng trong thực hiện tuyên
truyền, cổ động.
- Trong mỗi sự việc cần phân
biệt rõ ràng sai – đúng, phải – trái, phù hợp – không phù hợp, biểu dương, phê
phán kịp thời.
- Tính chiến đấu còn thể
hiện ở việc kiên quyết phê phán các luận điệu tuyên truyền phản động, phản khoa
học, trái với quan điểm, đường lối của Đảng.
e. Tính phổ thông, đại chúng
Tính phổ thông, đại chúng trong công tác
tuyên truyền đòi hỏi:
- Tuyên truyền, cổ động phải
đến với toàn dân, muốn vậy cách nói, cách làm trong tuyên truyền phải bám sát
từng đối tượng để chọn ra phương pháp phù hợp.
- Phải động viên nhiều
người, nhiều lực lượng cùng tham gia vào công tác tuyên truyền.
- Tuyên truyền phải gắn liền
với phong trào. Tuyên truyền còn để tổ chức, hướng dẫn phong trào.
- Hình thức, nội dung tuyên
truyền phải linh hoạt, sáng tạo, phù hợp phong tục tập quán, truyền thống của
từng dân tộc, từng vùng, từng địa phương.
5. Phương châm công tác
tuyên truyền, cổ động
a. Bám sát nhiệm vụ chính
trị của Đảng, phát huy tinh thần cách mạng của các tầng lớp nhân dân
b. Công tác tuyên truyền, cổ
động phải kịp thời, nhạy bén, nội dung chính xác, có tính chiến đấu cao
c. Kết hợp tuyên truyền, cổ
động nâng cao nhận thức tư tưởng với hướng dẫn hành động và cổ vũ phong trào
d. Kết hợp giữa biểu dương
và phê phán
Biểu dương và phê phán là hai mặt không thể
thiếu được trong tuyên truyền, cổ động. Hai mặt này gắn bó mật thiết với nhau,
hỗ trợ, tạo điều kiện cho nhau. Khắc phục khuynh hướng chỉ nhấn mạnh một mặt
xem nhẹ mặt kia vì cả hai khuynh hướng này đều hạn chế hiệu quả tuyên truyền,
thậm chí có thể gây ra phản tác dụng tuyên truyền.
e. Tuyên truyền, cổ động
phải cụ thể, thiết thực, sinh động
- Cụ thể thiết thực, trước hết cần nắm vững
tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân để tuyên truyền đúng đối tượng.
- Trong tuyên truyền phải sử
dụng cách nói dễ hiểu, đơn giản, bằng ngôn ngữ của quần chúng để nói với quầng
chúng, tránh những từ hoa mỹ, trống rỗng. Sử dụng những hình thức phù hợp với
đối tượng ở cơ sở.
- Những nhiệm vụ đặt ra phải
cụ thể, thiết thực quần chúng có thể làm được.
f. Phối hợp tốt các mặt hoạt
động của công tác tuyên truyền, cổ động
Kết hợp các lực lượng và hình thức tuyên
truyền. Kết hợp tuyên truyền thường xuyên với tuyên truyền theo chủ đề, từng
thòi gian. Kết hợp tuyên truyền với cổ động.
II - NHIỆM VỤ, NỘI DUNG
TUYÊN TRUYỀN, CỔ ĐỘNG Ở CƠ SỞ
1. Nhiệm vụ của công tác
tuyên truyền, cổ động ở cơ sở
Công tác tuyên truyền, cổ động ở cơ sở có ba
nhiệm vụ cơ bản sau:
- Nâng cao nhận thức của cán
bộ, đảng viên và nhân dân về lý luận chính trị, đó là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, những kiến thức khoa học…, tạo sự thống nhất cao trong Đảng và đồng thuận
trong nhân dân.
- Cổ vũ, động viên các tầng
lớp nhân dân tham gia các phong trào và hành động cách mạng, thực hiện thắng
lợi nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và góp phần xây
dựng con người mới, nề văn hóa mới, xây dựng quê hương giàu đẹp, văn minh.
- Đấu tranh chống mọi thủ
đoạn tuyên truyền của các lực lượng thù địch, chống những quan điểm sai trái,
cơ hội, lệch lạc, phản động, bài trừ các loại thủ tục lạc hậu, các biểu hiện
phi văn hóa trong nhân dân.
Từ ba nhiệm vụ cơ bản nêu
trên, tùy theo nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ và tình hình, đặc điểm của
địa phương, đơn vị để xác định nhiệm vụ cụ thể của công tác tuyên truyền, cổ
động ở cơ sở.
2. Nội dung của công tác
tuyên truyền, cổ động ở cơ sở
Nội dung tuyên truyền, cổ động ở cơ sở rất
phong phú, nhưng có thể khái quát thành những nội dung cơ bản sau đây:
- Tuyên truyền, cổ động về
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và của địa
phương. Đây là một nội dung chủ yếu, thường xuyên của công tác tuyên truyền, cổ
động, nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, nhân dân, biến những chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thành những kết quả trong thực tế.
- Thông tin có định hướng
tình hình thời sự địa phương, trong nước và quốc tế.
- Tiến hành các hoạt động
tuyên truyền, giáo dục nhân các ngày kỷ niệm và các đợt vận động chính trị lớn
của đất nước và địa phương. Tuyên truyền, giáo dục truyền thống dân tộc, truyền
thống cách mạng trong nước và địa phương.
- Tuyên truyền, phổ biến
kiến thức mới, quy trình công nghệ mới trong sản xuất, đời sống và bảo vệ môi
trường ở cơ sở.
- Tuyên truyền, cổ động về
những thành tựu chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… của đất nước và của địa
phương, những thuận lợi và khó khăn, những kinh nghiệm trong việc tổ chức thực
hiện các nhiệm vụ của địa phương.
- Tuyên truyền, giáo dục về
người tốt, việc tốt và các điển hình tiên tiến, thúc đẩy các phong trào thi đua
ở cơ sở.
- Tuyên truyền, cổ động về
đạo đức, lối sống, nếp sống…, góp phần xây dựng con người mới và nền văn hóa
mới ở địa phương.
- Chỉ rõ âm mưu, thủ đoạn
“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; về nhiệm vụ đấu tranh chống quan
liêu, tham nhũng, tệ nạn xã hội, phê phán những thói hư, tật xấu… tại cơ sở.
III.
MỘT SỐ NGHIỆP VỤ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TUYÊN TRUYỀN, CỔ ĐỘNG Ở CƠ SỞ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét