Thứ Hai, 15 tháng 7, 2019

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ ĐẮK LẮK


Câu 1: Tỉnh Đắk Lắk được thành lập từ năm nào? Tỉnh Đắk Lắk hiện nay có bao nhiêu huyện, thị, thành phố và tên gọi các huyện, thị, thành phố?
Đắk Lắk là một tỉnh nằm trung tâm Tây Nguyên, phía Bắc giáp tỉnh Gia Lai, phía Nam giáp tỉnh Lâm Đồng và tỉnh Đắk Nông, phía Đông giáp tỉnh Phú Yên và tỉnh Khánh Hòa, phía Tây giáp tỉnh Mondolkiri (Campuchia).
- Vùng đất Tây Nguyên nói chung và Đắk Lắk nói riêng có từ lâu đời, nhất là từ sau cuộc chiến tranh mở đất về phía nam của Lê Thánh Tông (năm 1471) đã nằm dưới sự kiểm soát của nhà nước quân chủ Việt Nam, và cũng từ cuối thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XIX, về danh nghĩa là của Vua hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá nhưng thực tế phần nào chịu ảnh hưởng của những chính sách cai trị của Vua chúa Việt Nam, nhất là từ thời Viên trấn thủ Quảng Nam, Bùi Tá Hán (cuối thế kỷ XVI) trở đi đến thời dưới triều Nguyễn thể kỷ XIX (1802 - 1884).

- Ngày 3-10- 1893 một Hiệp ước Pháp - Xiêm được ký kết, thừa nhận quyền của nước Pháp trên phần đất nằm ở tả ngạn sông Mê Kông. Trong đó có Cao Nguyên (gọi là Hin truland).
- Ngày 1-6-1895 thống sứ Lào là Boulloche chia lãnh thổ Lào thành hai vùng riêng biệt, một gọi là Thượng Lào đóng trụ sở tại Kong của Stung Streng, Cao Nguyên Hin truland được sát nhập vào 3 tỉnh Stung Streng trong đó địa bàn Đắk Lắk, tỉnh Alopen và tỉnh Saravane.
- Ngày 16-10-1898, Khâm sứ Trung kỳ Bovelloche buộc triều đình Huế sắp đặt vùng Tây Nguyên dưới sự đặc trách của người Pháp.
- Ngày 31-01-1899, toàn quyền Đông Dương ban hành Nghị định thành lập một cơ sở hành chính tại Bản Đôn, trên bờ sông Sê Rê Pốc trực thuộc tỉnh Stung Streng với mục đích thể hiện quyền cai trị của nước Pháp trên thung lũng này để kiểm soát người dân tộc Jarai cũng như tạo sự dễ dàng cho việc buôn bán giữa Lào và Trung kỳ.
- Ngày 22-11-1899, viên quản nhiệm Bovrglocs lập ra hạt đại lý khu vực Bản Đôn với mục đích làm thí điểm trong cuộc bình định Cao nguyên trung phần tìm cách thu phục đồng bào Êđê, M’nông (nhóm Kpă và Bih) vùng hạ lưu sông Krông Ana và sông Krông Nô, nhưng tất cả ý đồ đó đều thất bại.
- Ngày 22-11-1904 Hội đồng Tối cao toàn quyền Đông Dương ban hành Nghi định tách Đắk Lắk ra khỏi địa bàn nước Lào và đặt thành một tỉnh thuộc quyền giám sát và quản trị Khâm sứ Trung kỳ (sứ An Nam). Như vậy, với Nghị định ngày 22-11-1904 Đắk Lắk chính thức trở thành một trong 20 tỉnh, thành phố thuộc Trung kỳ.
- Ngày 9 tháng 2 năm 1913, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập tỉnh Kon Tum (trước là đại lý Kon Tum trực thuộc toà công sứ Qui Nhơn), bao gồm đại lý Kon Tum tách khỏi Bình Định, đại lý Cheo Reo tách từ tỉnh Phú Yên và đại lý Đắk Lắk (tỉnh Đắk Lắk bị giải thể hạ xuống làm một đại lý) thuộc tỉnh Kon Tum, từ đó tỉnh Đắk Lắk không còn nữa nhưng địa danh vẫn còn.
- Đến ngày 2-7-1923, Toàn quyền Đông Dương ban hành Nghị định tách Đắk Lắk khỏi tỉnh Kon Tum.
- Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền Nam Bắc, chính quyền Sài Gòn chia trung phần thành Cao Nguyên và Trung Nguyên trung phần. Đắk Lắk thuộc Cao Nguyên trung phần.
Từ sau năm 1975 đến nay, tỉnh Đắk Lắk có những thay đổi như sau:
- Tháng 2-1976 Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra Nghị định giải thể khu và hợp nhất các tỉnh ở miền Nam, trong đó có tỉnh Đắk Lắk gồm cả tỉnh Đắk Lắk và Quảng Đức cũ.
- Ngày 26-11-2003 tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI đã ra Quyết định số 22/2003/QH 11, chia tách Đắk Lắk thành hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông.
- Hiện nay, tỉnh Đắk Lắk có 15 đơn vị hành chính, gồm có 01 thành phố, 01 thị xã và 13 huyện.
Câu 2: Vì sao Bộ Chính trị lại chọn Buôn Ma Thuột làm mục tiêu chủ yếu của chiến dịch Tây Nguyên? Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Buôn Ma Thuột (10/3/1975)?
- Cuối năm 1974 ngụy quân ngụy quyền Sài Gòn tuy còn ngoan cố đẩy mạnh bình định lấn chiếm chống phá cách mạng, nhưng thế và lực của địch ngày càng suy yếu, các lực lượng cách mạng ở miền Nam tiếp tục giành nhiều thắng lợi. Tháng 10-1974, Bộ Chính trị họp nhận định tình hình và thời cơ chiến lược mới. Hội nghị khẳng định: “Mỹ đã rút khỏi miền Nam thì khó có khả năng đưa quân trở lại và dù chúng có can thiệp đi nữa cũng không thể cứu vãn nguy cơ của sự sụp đổ ngụy quyền Sài Gòn”. Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 đến 1976 và chọn Tây Nguyên làm hướng tấn công chủ yếu trong năm 1975.
- Tháng 9 năm 1974, Bộ Tổng tư lệnh giao nhiệm vụ (lần thứ nhất) cho chiến trường Tây nguyên: “Trong năm 1975, chiến trường Tây Nguyên là chiến trường chính, trong hoạt động mùa khô của toàn miền Nam. Cụ thể là, sẽ mở chiến dịch tiến công lớn ở Nam Tây Nguyên, tiêu diệt một số lực lượng địch, giải phóng một số vùng đất đai, tạo điều kiện để mở thông đường chiến lược Hồ Chí Minh vào đến Nam Bộ. Mục tiêu tiến công chủ yếu là quận lỵ Đức lập (Dak Min).
- Đến tháng 11 năm 1974, Bộ Tư lệnh bổ sung nhiệm vụ (lần thứ hai): “Mục tiêu chủ yếu của chiến dịch Nam Tây Nguyên là thị xã Gia Nghĩa”.
- Từ ngày 18-12-1974 đến ngày 8-1-1975 Bộ Chính trị họp (mở rộng) soát xét tình hình địch, ta ở miền Nam và sau chiến thắng Phước Long (ngày 6-1-1975), Bộ Chính trị quyết định: “Tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa tiêu diệt và làm tan rã ngụy quân, đánh đổ ngụy quyền từ Trung ương đến địa phương, giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà”. Bộ Chính trị còn dự kiến: “Nếu thời cơ đến vào đầu năm hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”. Cũng thời gian này, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định lấy Buôn Ma Thuột làm mục tiêu chủ yếu của chiến dịch Tây Nguyên năm 1975. 
- Việc chọn Buôn Ma Thuột làm mục tiêu quyết chiến trong xuân 1975 có ý nghĩa chiến lược hết sức quan trọng. Buôn Ma Thuột là thị xã của tỉnh Đắk Lắk và cũng là thị xã lớn nhất ở Tây Nguyên, diện tích khoảng 25km­­2 với dân số trên 7 vạn người có 17.000 đồng bào dân tộc. Buôn Ma Thuột nằm trên trục đường 14, 21 thuận lợi cho việc phát triển chiến đấu ra các tỉnh Tây Nguyên, xuống duyên hải miền Trung và vào Nam Bộ. Buôn Ma Thuột là vị trí chiến lược quan trọng ở Nam Tây Nguyên nhưng lại tương đối cô lập xa các trung tâm quân sự lớn, hạn chế sự chi viện lớn của địch. Buôn Ma Thuột và vùng phụ cận có địa thế rất thuận lợi cho tác chiến hợp đồng binh chủng, nhưng ta chưa dùng chủ lực lớn đánh vào thị xã nên địch bố trí binh lực ở đây có sơ hở hơn so với Pleiku và Kon Tum. Do đó, một trận đánh lớn ở Buôn Ma Thuột sẽ tạo sự rung động mạnh về chiến lược, làm đảo lộn thế phòng thủ của địch ở Tây Nguyên, uy hiếp đồng bằng ven biển miền Trung, mở ra hướng tiến công quan trọng vào Sài Gòn.
Với những điều kiện thuận lợi như trên, trong Hội nghị ngày 08-1-1975, đồng chí Tổng Bí thư đã kết luận: “Chúng ta đồng ý năm nay mở đầu bằng đánh Tây Nguyên…Cần đánh mở ra ở Buôn Ma Thuột và Tuy Hòa”. Và đồng chí Trường Chinh phát biểu: “Phải có những đòn tiêu diệt lớn như ở Điện Biên Phủ…”. Cũng trong phiên họp này, Bộ Chính trị đã có quyết định rất quan trọng về chiến lược: “Chọn Buôn Ma Thuột làm mục tiêu chủ yếu của chiến dịch nam Tây Nguyên”.
- Để tạo bí mật bất ngờ cho trận quyết chiến chiến lược ở Buôn Ma Thuột, từ đầu năm 1975 lực lượng bộ đội chủ lực của ta ở Tây Nguyên đã tiến hành một kế hoạch nghi binh rất tài tình, thu hút sự chú ý đối phó của địch ở bắc Tây Nguyên. Cuối tháng 2 năm 1975, Sư đoàn 968 đánh tiêu diệt chốt Mỹ, bức rút Đồn Tám và một số cứ điểm ở Tây Plâycu, uy hiếp các quận lỵ Thanh An, căn cứ Thanh Bình. Ở phía đông An Khê. Ngày 4-3-1975 Sư đoàn 3 của Quân khu V cắt đường 19 và đánh tiêu diệt một số vị trí của địch từ An Khê đến  Bình Khê. Cho đến đầu tháng 3 năm 1975 địch vẫn chưa phát hiện ta sẽ tấn công Buôn Ma Thuột, chúng còn đưa Trung đoàn 45 ở Đắk Lắk ra Plâycu đối phó với hoạt động của chủ lực ta ở Bắc Tây Nguyên.
- Sáng ngày 05-3-1975, Trung đoàn 25 cắt đường 21. Ngày 8-3-1975 Trung đoàn 48 đánh chiếm quận lỵ Thuần Mẫn và căn cứ Cẩm Ga cắt đứt đường 14 diệt tiểu đoàn bảo an, bắt 120 tên địch, thu 200 súng. Ngày 9-3 Sư đoàn 10 đánh quận lỵ Đức Lập, căn cứ Núi Lửa, cứ điểm 22. Nhưng chiến sự kéo dài đến ngày 10-3 mới chiếm được quận lỵ và các cứ điểm Đắk Song, Đắk Sắc, diệt 1 tiểu đoàn của trung đoàn 53, 1 tiểu đoàn bảo an, bắt 100 tên địch, thu 14 pháo, 20 xe tăng thiết giáp.
- Đúng 2 giờ 03 phút sáng ngày 10-3-1975, từ các hướng, quân ta nổ súng tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột. Mở đầu đặc công đánh sân bay thị xã, đánh khu kho Mai Hắc Đế, lực lượng bộ binh đánh sân bay Hòa Bình; cùng thời gian này hoả tiễn H12, ĐKB và các cụm pháp tập trung bắn vào Sư bộ 23 của địch. Sáng ngày 10-3, ở hướng bắc, bộ binh ta có xe tăng phối hợp đánh vào Ngã Sáu và đánh chiếm Tiểu khu Buôn Ma Thuột. Hướng tây bắc, lực lượng ta tiêu diệt Sở chỉ huy khu kho Mai Hắc Đế, đánh chiếm các cứ điểm Chư Êbur, Chư Dluê... phá hệ thống cứ điểm án ngữ vòng ngoài thị xã. Ở hướng Tây quân ta đánh chiếm doanh trại tiểu đoàn quân y và áp sát căn cứ Sư bộ 23. Ở hướng Nam, ta đánh vào khu hành chính, khu tiếp vận, Sở Thú y, Ty Ngân khố, khu cư xá Sỹ quan và đánh chiếm quận lỵ Hòa Bình.
Ngày 11- 3-1975, bộ binh, xe tăng và trọng pháo của ta tập trung đánh vào Sư bộ 23, địch chống trả quyết liệt, nhưng đến 10 giờ quân ta đã làm các mục tiêu, chiếm lĩnh Sư bộ 23, bắt sống tên tỉnh trưởng Đắk Lắk và đại tá sư đoàn phó sư 23 ngụy, lực lượng ta đã làm chủ hoàn toàn thị xã.
Ngày 18-3-1975, Ủy ban quân quản thị xã Buôn Ma Thuột do đại tá Y Blốc Êban, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Đắk Lắk làm Chủ tịch ra mắt trước 300 đại biểu nhân dân tại đình Lạc Giao.
Sau khi tiêu diệt lực lượng địch, giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột, Ủy ban quân quản đã lãnh đạo các huyện sử dụng lực lượng địa phương phát động quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kềm, truy quét tàn quân địch. Ngày 28-3 toàn tỉnh Đắk Lắk đã hoàn toàn giải phóng, chính quyền thuộc về tay nhân dân.
Như vậy chỉ trong một thời gian ngắn, ta đã tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch trên một chiến trường rộng lớn, mở đầu cho sự sụp đổ dây chuyền và thất bại thảm hại của toàn bộ hệ thống chính quyền tay sai toàn miền Nam và kết thúc bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Chiến thắng Buôn Ma Thuột đã đi vào lịch sử là một trong những chiến thắng oanh liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân và dân ta trong cả nước mở màn thắng lợi cho cuộc Tổng tấn công và nổi dậy, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Chiến thắng Buôn Ma Thuột trước hết là nhờ sự chỉ đạo sáng suốt, tài tình của Bộ Chính trị, của Quân ủy Trung ương đã có quyết tâm cao, chọn đúng thời cơ lịch sử, chọn đúng điểm quyết chiến chiến lược và tập trung cao độ binh hỏa lực để giành thắng lợi. Chiến thắng Buôn Ma Thuột là chiến công chung của quân và dân trong cả nước mà trực tiếp là lực lượng chủ lực của mặt trận Tây Nguyên đã nghi binh giỏi, tạo thế bí mật bất ngờ cho trận đánh, có cách đánh linh hoạt, tài tình chia cắt địch từ xa, hợp đồng binh chủng chặt chẽ, tấn công địch liên tục bằng nhiều trận then chốt./.
Câu 3: Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Đắk Lắk được thành lập vào thời gian nào? tại đâu? Từ khi thành lập đến nay, Đảng bộ tỉnh đã trải qua bao nhiêu kì đại hội, được tổ chức vào thời gian nào, tại đâu? Nêu tên các đồng chí Bí thư Tỉnh ủy từ khi Đảng bộ tỉnh thành lập đến nay?
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3-2-1930) là một bước ngoặt vĩ đại, chấm dứt hoàn toàn vấn đề khủng hoảng lãnh đạo của cách mạng Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam có một ý nghĩa hết sức quan trọng đối với tiến trình phát triển thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc ở Đắk Lắk nói riêng, ở Tây Nguyên nói chung.
- Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đặc biệt chú ý tới công tác lãnh đạo, tổ chức và vận động cách mạng trong khu vực đồng bào các dân tộc thiểu số, coi “Lực lượng đấu tranh của các dân tộc thiểu số là một lực lượng rất lớn. Giải phóng đồng bào các dân tộc là một bộ phận quan trọng trong cuộc cách mạng phản đế và điền địa ở Đông Dương, là một bộ phận cách mạng thế giới”.
- Quá trình phát triển cuộc vận động giải phóng dân tộc ở Đắk Lắk từ năm 1930 trở đi là quá trình đồng bào các dân tộc ở Đắk Lắk đi theo tiếng gọi của Đảng và cũng là quá trình Đảng dần dần thâm nhập vào phong trào ở đây để nắm quần chúng và lãnh đạo phong trào cách mạng đi đến thắng lợi.
Ngay từ khi thực dân Pháp xây dựng những đồn điền đầu tiên, ở Đắk Lắk đã có những phong trào đấu tranh khá sôi nổi và mạnh mẽ. Những cuộc đấu tranh đó từ những hình thức bất hợp tác đến những cuộc đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm v.v.. đã thể hiện cả một quá trình của phong trào từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn. Tiêu biểu là phong trào đấu tranh của công nhân đồn điền Mai Dô (năm 1927), của công nhân đồn điền MêWal, C.H.P.I, Rô Si (năm 1933), cuộc đấu tranh của công nhân làm cầu đường 14 ở Krông Buk (năm 1935) và cuộc đấu tranh của công nhân ở đồn điền Ca Đa (năm 1940)... Phong trào đấu tranh của công nhân và sự trưởng thành của đội ngũ công nhân ở Đắk Lắk đã tạo ra tiền đề khách quan hết sức thuận lợi cho sự phát triển cách mạng ở Đắk Lắk.
Bên cạnh đó, ở Nhà đày Buôn Ma Thuột, một tổ chức trung kiên được hình thành ngay trong nhà tù để lãnh đạo cách mạng. Các chiến sĩ cộng sản ở Nhà đày Buôn Ma thuột đã đấu tranh không mệt mỏi, đòi cải thiện tù nhân, chống tra tấn khủng bố, đòi tự do báo chí, hội họp... nhiều cuộc đấu tranh trong tù đã làm cho Pháp hoảng sợ.
Trong những năm 1930 đến 1940, nhiều cuộc tổ chức vượt ngục của các chiến sĩ đã thành công. Trên cơ sở đó, vào cuối năm 1940 do tình hình đòi hỏi, một số chiến sỹ cộng sản (khoảng 10 đồng chí trong các tổ chức bí mật trong nhà tù) tự thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam (Chi bộ lúc mới thành lập có 10 đồng chí. Đến ngày ra tù (tháng 4-1945) đã có trên 150 đồng chí. Ban Chấp hành có các đồng chí: Trần Hữu Dực (Bí thư), Ngô Tuân (ba Đốc), Vịnh (Nguyễn Chí Thanh), Trần Tống, Nguyễn Hữu Khiếu. Với các ký hiệu hoặc tên gọi khác nhau, chi bộ được tổ chức hoạt động và phát triển đội ngũ đảng viên của mình theo Chính cương, Điều lệ của Đảng và tự xác định phải thực hiện cho được các nhiệm vụ sau:
- Làm hạt nhân tổ chức và lãnh đạo toàn thể tù nhân đấu tranh để bảo vệ quyền lợi, bảo vệ và cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho tù nhân.
- Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ cho Đảng, chuẩn bị cho hoạt động cách mạng của từng người sau khi ra tù.
- Tìm cách liên lạc để tổ chức vận động cách mạng ở thị xã Buôn Ma Thuột mà trước hết là hai đối tượng là: quần chúng lao động và binh lính của địch.
- Tổ chức các cuộc vượt ngục, vọt tàu lửa để đưa cán bộ về cho Đảng. Bồi dưỡng lý luận cách mạng và các chỉ thị, nghị quyết của Đảng cho những người sắp hết hạn tù để trở ra hoạt động cách mạng.
Việc chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Nhà đày Buôn Ma Thuột ra đời không những đã thống nhất được sự lãnh đạo của Đảng trong tù mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc vận động cách mạng ở Đắk Lắk phát triển thêm một bước mới, chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám năm 1945 ở Đắk Lắk.

* CÁC KỲ ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH ĐẮK LẮK

Kể từ khi chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên ra đời ở Đắk Lắk (năm 1940), đến nay Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk đã trải qua 14 kỳ đại hội.
- Tháng 8 năm 1960, được sự chỉ đạo của Liên khu ủy V, tỉnh Đắk Lắk (lúc này gồm 4 huyện MĐrăk, đông Cheo Reo, tây Cheo Reo và Buôn Hồ) triệu tập Đại hội Đảng Bộ lần thứ nhất tại vùng núi Chư Djŭ. Về dự Đại hội có 50 đại biểu được bầu từ các huyện và các cơ quan của tỉnh. Đại hội đã kiểm điểm tình hình và sự chỉ đạo của tỉnh từ sau hiệp định Giơnevơ đến năm 1960, đề ra phương hướng, nhiệm vụ tiếp tục thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 13 đồng chí, đồng chí Hồng Ưng được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
Từ giữa năm 1961, các đồng chí Hồng Ưng và Nguyễn Liên được điều động về Khu ủy khu VI, đồng chí Nguyễn Tuấn (Ama Đăng) Phó Bí thư Tỉnh ủy làm Bí thư. Tháng 6 năm 1962, đồng chí Nguyễn Tuấn về Khu VI, đồng chí Nguyễn Viên (Bình) Trưởng ban Quân sự tỉnh làm Quyền Bí thư. Cuối năm 1962, Khu ủy VI điều đồng chí Nguyễn Liên làm Bí thư Tỉnh ủy.
- Tháng 8 năm 1963, Đại hội lần thứ II của Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk (B3) họp tại Ea Drăh vùng căn cứ đông Djŭ. Đại hội kiểm điểm tình hình chỉ đạo của tỉnh trong thời kì địch chuyển sang chiến tranh đặc biệt và đề ra phương hướng nhiệm vụ trong thời gian tới, tập trung vào nhiệm vụ trung tâm là phát động quần chúng phá kìm, phá ấp giành lại nông thôn. Đại hội cũng đặc biệt nhấn mạnh đến công tác xây dựng Đảng, tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong Đảng bộ, khắc phục tư tưởng ngại gian khổ, cố thủ rụt rè, tập trung cho công tác tiến công ra phía trước. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk khóa II, đồng chí Nguyễn Liên (Bốn Đạo) được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
- Tháng 7 năm 1966, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ III được triệu tập tại vùng căn cứ phía nam của tỉnh (Ea Play xã Dak Tuôr) để kiểm điểm tình hình và sự chỉ đạo của tỉnh, đề ra nhiệm vụ trong giai đoạn chống chiến tranh cục bộ. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành mới của tỉnh, đồng chí Nguyễn Liên (Bốn Đạo) được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
- Tháng 4 năm 1969, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IV họp tại buôn MNăng Dơng vùng căn cứ phía nam của tỉnh, để kiểm điểm tình hình và sự chỉ đạo của tỉnh trong thời kỳ chiến tranh cục bộ, đề ra nhiệm vụ chống bình định nông thôn, chống “Việt Nam hóa chiến tranh” và tăng cường công tác xây dựng Đảng. Đại hội bầu Ban Chấp hành mới, đồng chí Nguyễn Liên (Bốn Đạo) được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy, sau đó Thường vụ Khu ủy V quyết định đưa đồng chí Võ Trung Thành (Năm Vinh) Khu ủy viên Khu V về làm Bí thư thay đồng chí Nguyễn Liên về Khu V nhận công tác mới.
- Tháng 10 năm 1971, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ V họp tại buôn Ngô, vùng căn cứ phía nam của tỉnh. Đại hội kiểm điểm tình hình từ sau Tết Mậu Thân và bàn phương hướng nhiệm vụ chống Việt Nam hóa, chống bình định và lấn chiếm, chuẩn bị cho đợt hoạt động năm 1972. Đại hội bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa V gồm 31 đồng chí, đồng chí Huỳnh Văn Cần được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
- Tháng 9 năm 1973, Đại hội Đảng bộ  lần thứ VI họp tại buôn Ea MDlan vùng căn cứ phía Bắc tỉnh. Đại hội xác định nhiệm vụ chống lấn chiếm bình định và giữ vững vùng mới giải phóng, chuẩn bị mọi điều kiện cho cách mạng trong tỉnh, xây dựng vùng hành lang an toàn, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Đại hội bầu Ban Chấp hành khóa VI gồm 27 đồng chí, đồng chí Huỳnh Văn Cần tiếp tục được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
- Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ VII họp vòng 1 từ ngày 12-11-1976 đến 20-11-1976; vòng 2 từ ngày 13-6-1977 đến ngày 19-6-1977, tại thị xã Buôn Ma Thuột, số lượng đại biểu được triệu tập là 252 đồng chí (25 đồng chí dự khuyết). Đại hội kiểm điểm tình hình lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh, quốc phòng của tỉnh sau hai năm đầu mới giải phóng, đề ra quyết tâm thực hiện thắng lợi “Kế hoạch 5 năm 1976 - 1980”. Xác định nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng bộ, quân và dân các dân tộc trong tỉnh là tập trung cao độ vào mặt trận sản xuất nông nghiệp.
Đại hội bầu ra Ban Chấp hành khóa VII gồm 39 đồng chí, trong đó có 35 đồng chí là ủy viên chính thức, 4 đồng chí là ủy viên dự khuyết. Đồng chí Trần Kiên được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
- Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII: Thời gian tiến hành từ ngày 07 đến ngày 10-11-1979 tại thị xã Buôn Ma Thuột, số lượng đại biểu được triệu tập là 351 đồng chí đến từ 16 tổ chức đảng bộ trực thuộc. Đại hội đã kiểm điểm tình hình phát triển kinh tế - xã hội trong nhiệm kỳ VII và đề ra chủ trương, phương hướng, biện pháp phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ (1980 -1981).
Đại hội xác định các nhiệm vụ là: tiếp tục đẩy mạnh sản xuất nông - lâm - công nghiệp phát triển toàn diện, cùng nhiệm vụ sản xuất lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu là trọng tâm.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ (khóa VIII) gồm 43 đồng chí, trong đó có 40 đồng chí uỷ viên chính thức và 03 đồng chí ủy viên dự khuyết. Đồng chí Y Ngông Niê Kdăm được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ.
- Đại hội lần thứ IX của Đảng bộ Đắk Lắk được tiến hành thành 2 vòng, vòng 2 thời gian từ ngày 5-3-1983 đến ngày 9-3-1983 tại thị xã Buôn Ma Thuột, số lượng đại biểu được triệu tập là 372 đại biểu chính thức đại diện cho hơn 9.000 đảng viên thuộc 20 đảng bộ  trực thuộc trong tỉnh.
 Đại hội đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đảng bộ khóa VIII đã tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật ban đầu cho nền kinh tế- xã hội của tỉnh. Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ chung của Đảng bộ trong ba năm (1983 -1985) là: ra sức phát triển phong trào quần chúng sâu rộng, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Tăng cường hơn tình đoàn kết dân tộc. Đề ra các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, tiếp tục xác định vững chắc cơ cấu kinh tế công - lâm - nông nghiệp, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, đẩy mạnh sự nghiệp văn hóa - giáo dục, y tế đi vào chất lượng.
Đại hội bầu ra Ban chấp hành khóa IX gồm 45 đồng chí trong đó có 41 đồng chí là ủy viên chính thức và 4 đồng chí là ủy viên dự khuyết, đồng chí Y Ngông Niê Kdăm được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
 - Đại hội đại biểu lần thứ X của Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk họp tại thị xã Buôn Ma Thuột từ ngày 9-10 đến ngày 14-10-1986. Về dự Đại hội có 400 đồng chí đại biểu chính thức đến từ 24 đảng bộ trực thuộc, đại diện cho hơn 10.000 đảng viên trong toàn tỉnh. Đại hội đã kiểm điểm tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và đề ra phương hướng, nhiệm vụ của Đảng bộ tỉnh trong 5 năm từ 1986 - 1990 là: “Nắm vững đường lối và các quan điểm cơ bản của Đảng, ra sức phấn đấu đến mức cao nhất với tinh thần tự lực, tự cường và ý chí quyết tâm cao, phát huy triệt để sức mạnh tổng hợp của từng địa phương, cơ sở và của toàn tỉnh, hướng mạnh về phía trước, tạo ra một sự thay đổi lớn trên mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng và xây dựng Đảng, đưa sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa trong tỉnh tiến lên giành nhiều thắng lợi to lớn, toàn diện và vững chắc hơn”.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành khóa X gồm 55 đồng chí (trong đó có 45 đồng chí là ủy viên chính thức, 10 đồng chí là ủy viên dự khuyết), đồng chí Huỳnh Văn Cần được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ.
- Đại hội lần thứ XI thời gian tiến hành thành 2 vòng, vòng 2 khai mạc vào ngày 08-1-1992 đến ngày 11-1-1992 tại thị xã Buôn Ma Thuột, số lượng đại biểu được triệu tập là 292 đại biểu chính thức, thay mặt cho 16.509 đảng viên về dự Đại hội. Đại hội nhấn mạnh: Tiếp tục thực hiện đổi mới toàn diện đồng bộ, đi vào chiều sâu với bước đi vững chắc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ổn định và phát triển kinh tế của tỉnh theo cơ cấu nông - lâm - công nghiệp chế biến và dịch vụ. Đổi mới quản lý và điều hành kinh tế của nhà nước trên cơ sở xác định được chức năng, quyền hạn được quy định. Tiếp tục chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa XI) gồm 47 đồng chí. Đồng chí Huỳnh Văn Cần được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Đến Hội nghị giữa nhiệm kỳ đồng chí Huỳnh Văn Cần nhận nhiệm vụ khác, đồng chí Ama Pui được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
- Đại hội đại biểu Đảng bộ Đắk Lắk lần thứ XII được triệu tập từ ngày 07-5-1996 đến ngày 10-5-1996 tại thành phố Buôn Ma Thuột, về dự Đại hội có 349 đồng chí đại diện cho hơn 17.000 đảng viên của 23 đảng bộ trực thuộc trong tỉnh. Đại hội đã kiểm điểm tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội XI và đề ra phương hướng và nhiệm vụ của Đảng bộ từ năm 1996 - 2000. Nghị quyết Đại hội nhấn mạnh: phấn đấu đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp tục xác định cơ cấu kinh tế của tỉnh là nông - lâm nghiệp - công nghiệp chế biến và dịch vụ. Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành khóa XII gồm 49 đồng chí, đồng chí Mai Văn Năm được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ. Đến tháng 9-1999, Trung ương điều đồng chí Mai Văn Năm về Ủy ban Kiểm tra Trung ương, đồng chí Nguyễn An Vinh được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
- Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII diễn ra từ ngày 31-1-2001 đến ngày 02-2-2001 tại thành phố Buôn Ma Thuột, về dự Đại hội có 397 đại biểu của 24 đảng bộ trực thuộc đại diện cho hơn 27.930 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Với không khí đoàn kết, dân chủ và đổi mới, Đại hội đã bầu ra 47 đồng chí trong Ban Chấp hành khóa XIII (2001 - 2005), đồng chí Y Luyện Niê Kdăm được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
Trên cơ sở kiểm điểm tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII, Đại hội nhấn mạnh trong những năm tới bảo đảm tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao và ổn định trên cơ sở phát huy nội lực, khơi dậy tiềm năng to lớn của địa phương, kết hợp với việc tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài, tăng cường hợp tác đầu tư, từng bước mở rộng thị trường nước ngoài, tiếp tục phát triển mạnh nông sản xuất khẩu đi đôi với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển mạnh các ngành công nghiệp, dịch vụ, trong đó trọng tâm là công nghiệp chế biến nông - lâm sản. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với môi trường, thực hiện tốt các vấn đề xã hội; xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân; giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội; xây dựng Đảng và cả hệ thống chính trị vững mạnh. “Phấn đấu đến năm 2010 đưa tỉnh ta trở thành một tỉnh có kinh tế phát triển đạt mức trên trung bình của cả nước; có văn hóa tiên tiến và giữ được bản sắc dân tộc; xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Đến ngày 31-12-2003, tỉnh Đắk Lắk được tách thành hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông theo Nghị quyết số 22 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã chỉ định Ban Chấp hành lâm thời gồm 46 đồng chí, đồng chí Y Luyện Niê Kdăm tiếp tục làm Bí thư Tỉnh ủy.
- Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV tiến hành từ ngày 12-12-2005 đến ngày 14-12-2005 tại thành phố Buôn Ma Thuột. Về dự Đại hội có 299 đại biểu đại diện cho gần 32.000 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Trên cơ sở kiểm điểm tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII, Đại hội nhấn mạnh: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, phát huy sức mạnh đoàn kết các dân tộc, giữ vững ổn định chính trị, tiếp tục đổi mới toàn diện, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững”, Đại hội đã bầu ra 48 đồng chí trong Ban Chấp hành khóa XIV (2005 - 2010), đồng chí Niê Thuật được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.

* CÁC ĐỒNG CHÍ BÍ THƯ TỈNH ỦY ĐẮK LẮK QUA CÁC THỜI KỲ

1. Đồng chí Phan Kiệm, sinh năm 1920 tại Triệu Thành, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, với trách nhiệm là người phụ trách chung Ban cán sự Đảng tỉnh Đắk Lắk, đồng chí chăm lo củng cố giữ vững chính quyền cách mạng còn non trẻ, chuẩn bị cho ngày tổng tuyển cử bầu đại biểu Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ở tỉnh Đắk Lắk.
Đầu năm 1946, tổ chức phân công về khu V công tác, phụ trách mặt trận Bình Định, An Khê. Tháng 6 năm 1947 Trung ương điều động đồng chí vào chiến trường Nam Bộ. Năm 1954 đồng chí được phân công ở lại Sài Gòn – Gia Định. Năm 1960, đồng chí tham gia vào Thành ủy Sài Gòn – Gia Định. Năm 1976 nghỉ công tác. Đồng chí mất năm 1996.
2. Đồng chí Nguyễn Khắc Tính, bí danh “Nguyễn Sách”, sinh năm 1920 tại Sơn Tiến, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Ngày 24-8-1945 đồng chí cùng với Ban lãnh đạo khởi nghĩa tổ chức giành chính quyền tại thị xã Buôn Ma Thuột. Cuối năm 1946, Ban cán sự Đảng tỉnh Đắk Lắk được thành lập, đồng chí làm Bí thư Ban cán sự Đảng cho đến năm 1949. Năm 1962, đồng chí làm Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đức. Năm 1970, đồng chí làm Bí thư khu X (khu X lúc này có Quảng Đức, Phước Long, Bình Long cũ). Năm 1975, đồng chí về làm Phó Trưởng ban kinh tế mới Trung ương Cục miền Nam. Năm 1977 đồng chí chuyển về công tác ở Bộ Nông nghiệp và đến năm 1980 đồng chí nghỉ hưu tại thành phố Hồ Chí Minh.
3. Đồng chí Lê Vụ, (tức Thái Căn) sinh ngày 14 tháng 03 năm  1923 tại thôn Long An, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Tháng 11 năm 1940, đồng chí bị địch bắt và đày vào Nhà tù Buôn Ma Thuột. Tháng 5-1945, sau khi ra tù đồng chí tiếp tục hoạt động và giữ những chức vụ quan trọng như: Phó Chủ nhiệm Việt Minh, Ủy viên Ban thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị, Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên… Tháng 10 năm 1949 đến tháng 4 năm 1952, đồng chí làm Phó Bí thư; Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk. Tháng 5-1952, được tổ chức phân công là ủy viên dự khuyết Liên khu ủy V, Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên. Từ tháng 7-1961 đến tháng 2-1967, đồng chí làm Khu ủy viên Liên khu V, Chánh Văn phòng Trung ương Cục miền Nam. Đến tháng 3-1967 là Ủy viên Ban thống nhất Trung ương. Tháng 8-1975, đồng chí về công tác tại Ban Dân tộc Trung ương. Tháng 5-1987, đồng chí nghỉ hưu. Đồng chí mất ngày 18-10-1990 tại Hà Nội.
4. Đồng chí Trương Quang Giao, sinh năm 1910 tại Mỹ Khê (nay thuộc xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi). Từ tháng 2- 1939 đến tháng 1-1944, đồng chí bị địch bắt và đày vào Nhà tù Buôn Ma Thuột, sau đó địch chuyển đồng chí về Ba Tơ (Quảng Ngãi). Cuối tháng 12-1944 đồng chí vượt ngục thành công, tiếo tục hoạt động làm Bí thư Tỉnh uỷ lâm thời Quảng Ngãi. Năm 1950, làm Bí thư Ban cán sự Đảng tỉnh Đắk Lắk. Năm 1955 đồng chí đi tập kết ra Bắc tiếp tục giữ nhiều chức vụ quan trọng khác như: Phó Ban Tổ chức Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban thống nhất của Chính phủ. Năm 1977 đồng chí về nghỉ hưu tại Đà Nẵng, đồng chí mất năm 1983.
5. Đồng chí Lê Văn Nhiễu, sinh tháng 1 năm 1920 tại xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Tháng 9 năm 1940, đồng chí bị thực dân Pháp kết án tù chung thân, sau đó bị đày lên nhà tù Buôn Ma thuột. Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, đồng chí được điều về làm cán bộ Tuyên huấn Liên khu V, Chủ nghiệm Trường Lục quân Liên khu V, Bí thư Đảng uỷ Trung đoàn 125. Từ năm 1952 đến năm 1954, đồng chí làm Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk kiêm Chính ủy Trung đoàn 84. Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, đồng chí dẫn đầu đoàn cán bộ Đắk Lắk tập kết ra Bắc tiếp tục giữ nhiều chức vụ quan trọng khác trong quân đội. Đồng chí mất tháng 5-1976.
6. Đồng chí Trương Quang Tuân, sinh năm 1923 tại thôn Trà Bình, xã Tịnh Trà, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Tháng 5-1947 đến tháng 9-1949 đồng chí làm Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Ngãi. Cuối năm 1949 đến năm 1951 đồng chí là Thư ký riêng cho đồng chí Phạm văn Đồng. Năm 1955 đến năm 1957, là Ủy viên liên Khu ủy V, Bí thư Ban cán sự Đảng tỉnh Đắk Lắk, Bí thư Ban cán sự liên tỉnh IV. Năm 1959, trên đường đi công tác đồng chí hy sinh tại huyện Trà My, tỉnh Quảng Nam.
7. Đồng chí Nguyễn Hồng Ưng, bí danh “Vũ Anh Ba”, sinh ngày 14 tháng 04 năm 1922 tại xã Tịnh Hà, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết (tháng 7-1954), đồng chí dược Khu uỷ V phân công ở lại làm Phó Bí thư Tỉnh uỷ Gia Lai. Đến giữa năm 1959, đồng chí được Liên Khu uỷ V phân công về làm Bí thư Tỉnh uỷ Đắk lắk. Tháng 8-1960, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ nhất, họp tại Chư Djũ. Đại hội bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 13 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Hồng Ưng được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk và làm Tỉnh ủy viên Liên tỉnh IV. Sau giải phóng miền Nam (1975) đồng chí làm Uỷ viên Thường vụ, Trưởng ban Kinh tế mới - định canh, định cư tỉnh Lâm Đồng. Năm 1978, đồng chí nghỉ hưu và mất ngày 01-10-1996.
8. Đồng chí Nguyễn Tuấn, bí danh (Ama Đăng), sinh ngày 10 tháng 10 năm 1924 tại thôn Long Tường (Phụng Tường 2), Tuy Hòa (nay là Phú Hòa) tổng Hòa Tường, phủ Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Tháng 8-1960, Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ nhất họp tại Chư Djũ, đã bầu đồng chí Nguyễn Hồng Ưng làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Tuấn (AMa Đăng) làm Phó Bí thư. Sau một thời gian cấp trên phân công đồng chí Nguyễn Hồng Ưng nhận công tác khác, tháng 12 năm 1960 đồng chí Nguyễn Tuấn được chỉ định làm Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk.  
9. Đồng chí Võ Trung Thành, bí danh (Năm Vinh), sinh ngày 14 tháng 10 năm 1924 tại thôn Thủy Thạch, xã Phổ Cường, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Năm 1953, đồng chí được điều động lên Tây Nguyên giữ chức Phó Bí thư Liên tỉnh uỷ Gia lai – Kon Tum. Sau đó được cử làm Bí thư Tỉnh uỷ Gai Lai. Tháng 6-1963 đồng chí làm Bí thư B3 (bao gồm 4 huyện M’Đrắk, đông Cheo Reo, tây Cheo Reo và Buôn Hồ). Sau khi thống nhất hai B (B3 và B5) thành tỉnh Đắk Lắk đồng chí được điều về Khu nhận công tác mới. Tháng 5-1969, Thường vụ Khu uỷ V quyết định điều động đồng chí vào làm Bí thư Tỉnh uỷ Đắk Lắk thay đồng chí Nguyễn Liên về Khu V nhận công tác mới. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (tháng 3-1982) đồng chí được bầu làm Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng. Đồng chí mất ngày 12-7-1982 tại Hà Nội.
10. Đồng chí Nguyễn Xuân Nguyên, tên khai sinh là Nguyễn Liên, bí danh (Mười Nguyên), sinh ngày 20 tháng 12 năm 1922 tại xã Tịnh Thọ, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết (tháng 7-1954), đồng chí Nguyễn Xuân Nguyên được Khu uỷ Khu V phân công ở lại Tây Nguyên làm Bí thư Tỉnh uỷ Kon Tum, Uỷ viên Liên Tỉnh uỷ III (Tây Nguyên). Từ năm 1961 đến năm 1963 là Uỷ viên Khu uỷ VI. Tại Đại hội đại biểu tỉnh Đắk Lắk lần thứ II (3-1963) đồng chí được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk và là Khu ủy viên khu V. Đầu năm 1965, Trung ương chủ trương chia Đắk Lắk thành B5 và B6, đồng chí  Nguyễn Xuân Nguyên được phân công làm Bí thư B5. Tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ III (tháng 7-1966) đồng chí được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk và Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ IV (tháng 4-1969) đồng chí tiếp tục được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Năm 1973 đồng chí là Khu ủy viên khu V, Trưởng ban Miền núi khu V. Đến năm 1974, được bầu làm Ủy viên Thường vụ Khu ủy V, phụ trách Tuyên huấn và Ban Miền núi khu V. Tháng 5-1975, đồng chí được phân công về làm Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk. Năm 1987 đồng chí nghỉ công tác. Đồng chí Nguyễn Xuân Nguyên là đại biểu Quốc hội khoá V và khoá VI.  
11. Đồng chí Trần Kiên, tên khai sinh là Nguyễn Tài, bí danh “Quế” và “Sơn”. Sinh ngày 15 tháng 5 năm 1920 tại xã Nghĩa Kỳ, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Từ năm 1954 đến cuối năm 1960, đồng chí Trần Kiên là Bì thư tỉnh uỷ Kon Tum và Tỉnh uỷ viên Liên tỉnh IV (Tây Nguyên). Cuối năm 1964 đến hết năm 1965, đồng chí làm Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Ngãi, kiêm Chính trị viên Tỉnh đội. Tháng 12-1975, đồng chí làm bí thư Tỉnh uỷ Gia Lai-Kon Tum. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12-1976) đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Từ năm 1977 đến năm 1978, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng phân công đồng chí về làm Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk. Từ năm 1979 đến năm 1980 đồng chí làm Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp. Từ tháng 12-1980, làm Bí thư Tỉnh uỷ Nghĩa Bình (nay là Quảng Ngãi và Bình Định). Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (tháng 3-1982) và lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đồng chí được bầu lại vào Ban chấp hành Trung ương Đảng và dược bầu vào Ban Bí thư Trung ương và làm Trưởng ban kiểm tra Trung ương. Đồng chí là đại biểu Quốc hội khoá VI. Đồng chí mất ngày 26-5-2004 tại Quảng Ngãi.
12. Đồng chí Huỳnh Văn Cần, tên khai sinh là Huỳnh Văn Mẫn, bí danh là “Quyết”, sinh ngày 19 tháng 9 năm 1927 tại xã Phổ Ninh, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ V (10-1971) đồng chí được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk, kiêm Trưởng ban Tổ chức và Ban Kiểm tra Tỉnh ủy. Tháng 12-1973, Đại hội đại biểu khu V lần thứ III, đồng chí được bầu làm Uỷ viên dự khuyết Khu uỷ V và tiếp tục làm Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk (nhiệm kỳ VI) cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30-4-1975). Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ X (tháng 10-1986) đồng chí được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI (tháng 1-1992), đồng chí tiếp tục được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk và được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII, kiêm Bí thư Đảng uỷ Quân sự tỉnh và Uỷ viên Đảng uỷ Quân sự Khu V. Tháng 10-1997 đồng chí nghỉ công tác.
13. Đồng chí Y Ngông Niê Kdăm, tên thường gọi là Y Ngông, bí danh là “Nguyễn Ái Việt”, sinh ngày 13 tháng 8 năm 1922, sinh tại buôn Ea Sút, thị trấn Ea Pôk, huyên Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk. Năm 1941 đồng chí Y Ngông theo học trường Y khoa Đông Dương tại Sài Gòn. Sau khi tốt nghiệp ra trường, đồng chí về công átc tại Đắk Lắk, tham gia Hội Thanh niên cứu quốc, Hội truyền bá Quốc ngữ của tỉnh. Cách mạng Tháng Tám ở Đắk Lắk thắng lợi, đồng chí tham gia Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Đắk Lắk, làm uỷ viên Tuyên truềyn của tỉnh. Ngày 06-1-1946, trong cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, đồng chí Y Ngông cùng với Y Wang Mlô Duôn Du là hai đại biểu Quốc hội đầu tiên của tỉnh Đắk Lắk. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc khoá I (tháng 3-1946), đồng chí được bầu làm Uỷ viên Ban Thường trực Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà. Năm 1976, đồng chí được bầu làm uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IV. Năm 1977, giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Giáo dục và là Uỷ viên Hội đồng Nhà nước. Năm 1978, đồng chí làm Phó Chủ tịch, Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk. Từ năm 1979 đến năm 1986, đồng chí làm Bí thư Tỉnh uỷ Đắk Lắk. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (tháng 3-1982) của Đảng, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Từ năm 1988, đồng chí làm chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội khoá VIII và khoá IX. đồng chí là đại biểu Quốc hội từ khoá I đến khoá IX.
14. Đồng chí AMa Pui, tên khai sinh là Y Liă Mjâo, sinh ngày 26 tháng 6 năm 1932 tại buôn A Drơng, xã Chư Pơng, huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk. Tháng 4-1975, với cương vị là Tỉnh uỷ viên, đồng chí Ama Pui được phân công làm Phó Bí thư Thị uỷ, Phó Chủ tịch UBND, Chủ tịch Mặt trận thị xã Buôn Ma Thuột. Tháng 6-1991, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, đồng chí dược bầu làm Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Năm 1992 tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ XI đồng chí được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk. Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk giữa nhiệm kỳ khóa XI đồng chí được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đồng chí là đại biểu Quốc hội khoá VIII, khoá IX; Uỷ viên Hội đồng Dân tộc của Quốc hội khoá VIII, khoá IX. Năm 1997 đồng chí nghỉ công tác.
15. Đồng chí Mai Văn Năm, sinh ngày 03 tháng 5 năm 1948 tại Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Tháng 12-1990 đồng chí Mai Văn Năm được điều động về thị xã Buôn Ma Thuột và được Đại hội Đảng bộ thị xã lần thứ IX bầu làm Bí thư Thị uỷ. Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ XI (năm 1991), đồng chí tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành và Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, kiêm Trưởng ban nội chính. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ XII (tháng 5-1996), đồng chí được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk và tại toàn quốc lần thứ VIII (tháng 6-1996) đồng chí được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tháng 10-1999, đồng chí được điều về Trung ương và được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, làm Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra. Đến tháng 3-2002, đồng chí được Bộ Chính trị điều động về làm Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nguyên.
16. Đồng chí Nguyễn An Vinh, sinh ngày 06 tháng 7 năm 1940 tại xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Từ tháng 12-1979 đến tháng 12-1994, đồng chí là Uỷ viên Ban thường vụ tỉnh uỷ, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, sau đó là Quyền Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk. Đến tháng 5 năm 1996 đồng chí được bầu làm Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Đắk Lắk. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ Đắk Lắk khóa XII (tháng 10-1999), đồng chí được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Đồng chí liên tục là đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk từ khoá I đến khoá V; đại biểu Quốc hội khoá X.
17. Đồng chí Y Luyện Niê Kdăm, tên thường gọi là Ama Hoa, sinh ngày 09 tháng 10 năm 1943 tại buôn Tay, xã Krông Jing, huyên M’Drăk, tỉnh Đắk Lắk. Năm 1981, đồng chí là Phó Bí thư huyện uỷ, Chủ tịch UBND huyện Krông Ana. Từ năm 1983 đến năm 1985 là Bí thư huyện uỷ Krông Ana. Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ XI, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, làm Phó Chủ tịch HĐND tỉnh Đắk Lắk. Đầu năm 1995, đồng chí là Uỷ viên Thường vụ Tỉnh uỷ, tháng 11-1999 là Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Đắk Lắk. Tháng 12-1999, là Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk. Tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ XIII (tháng 2-2001) đồng chí được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Đồng chí là đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh từ khoá I đến khoá VI, đại biểu Quốc hội khoá X. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá X, đồng chí được bầu là Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc Quốc hội.
18. Đồng chí Niê Thuật, sinh ngày 08 tháng 5 năm 1956 tại xã Cư Drăm, huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk. Tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ XIV (tháng 12-2005) đồng chí được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (tháng 4-2006), đồng chí được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá XII, đồng chí được bầu là Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Quốc hội.
Câu 4: Vai trò của Chi bộ Đảng Cộng sản ở Nhà đày Buôn Ma Thuột trong thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Đắk Lắk?
Ngay từ năm 1900, khi chuyển tỉnh lỵ từ Buôn Đôn về Buôn Ma Thuột, thực dân Pháp cũng đồng thời xây dựng một trại giam ở bên cạnh thị xã để giam giữ những người chống lại sự xâm lược và “bình định” của chúng. Dần dần về sau chúng tiếp nhận tù chính trị từ các nơi khác đến và biến nơi đây thành một nơi giam cầm đày ải các chiến sĩ cách mạng bị bắt trong các phong trào cách mạng ở trong nước. Từ năm 1932 thực dân Pháp xây cất thêm và mở rộng trại giam. Đến năm 1936, chúng bỏ nhà tù Lao Bảo và chuyển số tù nhân còn sống sót ở đó đến Buôn Ma Thuột. Nhà đày Buôn Ma Thuột từ đó trở thành một nhà tù lớn của Pháp ở Đông Dương.
Nhà đày Buôn Ma Thuột được tổ chức khá quy mô và kiên cố. Toàn bộ nhà tù là một vùng đất hình vuông mỗi chiều trên 100 mét, chung quanh có tường cao bao bọc, ở cổng chính và bốn góc tường đều có bót gác và đèn pha chiếu sáng ban đêm. Bên trong có 6 nhà lao để nhốt riêng từng loại tù, trong đó lao 1 và lao 2 được gọi là nhà biệt giam dùng để giam tù cầm cố …Tại đây chúng nhốt những người mà chúng cho là “nguy hiểm”, những người cầm đầu trong các cuộc đấu tranh trong các nhà lao những người bị kết án nặng nguyên là cán bộ chủ chốt của Đảng ở các cấp.
Thực dân Pháp đã thi hành một chế độ nhà tù hết sức khắc nghiệt và tàn bạo. Tất cả tù nhân đều đóng số tù ở lưng. Hàng ngày họ phải đi làm lao dịch, những công việc năng nhọc như làm quốc lộ 26, đường chiến lược 14, cầu Krông Ana, đi xây đồn Mét…ban đêm họ ngủ trong tư thế bị cùm chân. Phải làm việc khổ sai như vậy, những bữa ăn hàng ngày của tù nhân chỉ là cơm gạo mục thối. Ốm đau ghẻ lở, bệnh tật đói rét …luôn luôn là những bạn đường của người tù Buôn Ma Thuột. Đã thế trong tù hoặc trong khi đang làm việc khổ sai, bất cứ lúc nào, tù nhân cũng có thể bị bọn cai ngục đàn áp, đánh đập tàn nhẫn, phạt vạ vô căn cứ, thậm chí bị thủ tiêu hoặc bị giết chết.
Trước sự giam cầm và đàn áp của thực dân Pháp các tù nhân ở nhà đày Buôn Ma Thuột đã liên tiếp đứng dậy đấu tranh. Các chiến sỹ cộng sản đã thực sự biến nhà tù thành trận tuyến đấu tranh của mình.
- Cuối năm 1940, Chi bộ Đảng trong nhà tù được thành lập và được tổ chức hoạt động và phát triển đội ngũ đảng viên của mình theo Chính cương, Điều lệ của Đảng và tự xác định phải thực hiện cho được các nhiệm vụ sau:
+ Làm hạt nhân tổ chức và lãnh đạo toàn thể tù nhân đấu tranh để bảo vệ quyền lợi, bảo vệ và cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho tù nhân.
+ Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ cho Đảng, chuẩn bị cho hoạt động cách mạng của từng người sau khi ra tù.
+ Tìm cách liên lạc để tổ chức vận động cách mạng ở thị xã Buôn Ma Thuột mà trước hết là hai đối tượng là: quần chúng lao động và binh lính của địch.
+ Tổ chức các cuộc vượt ngục, vọt tàu lửa để đưa cán bộ về cho Đảng. Bồi dưỡng lý luận cách mạng và các chỉ thị, nghị quyết của Đảng cho những người sắp hết hạn tù để trở ra hoạt động cách mạng.
- Từ năm 1942, các chiến sỹ cách mạng ở nhà tù Buôn Ma Thuột đã được học tập Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VIII (tháng 5-1941), Chương trình, Điều lệ của Mặt trận Việt Minh. Những tài liệu tổng kết kinh nghiệm về vận động nông dân, phụ nữ, thanh niên, binh lính, về hoạt động bí mật, vv… Các sáng tác, dịch thuật trong nhà tù được đưa ra phổ biến cho các cơ sở bên ngoài. Mỗi lúc có những đồng chí hết hạn tù hoặc chuẩn bị vượt ngục ra ngoài hoạt động đều mang theo những tài liệu bí mật đó về cơ sở để tổ chức cho quần chúng học tập.
- Chính nhờ những hoạt động đó mà chi bộ Đảng Cộng sản ở Nhà đày Buôn Ma Thuột đã có một vai trò đặc biệt quan trọng đối với cuộc cách mạng Tháng Tám sau này ở Đắk Lắk. Cũng từ đây các chiến sỹ cách mạng trong tù rất quan tâm tới việc xây dựng những cơ sở cách mạng ở trong tù, trong đội ngũ các y tá trực tiếp điều trị tù nhân, lính khố xanh và cả việc xây dựng cơ sở bên ngoài.
- Từ năm 1943 trở đi, trước tình hình cách mạng ngày càng lên cao, nhiều địa phương thiếu cán bộ lãnh đạo. Trung ương Đảng đã chủ trương tổ chức cho một số cán bộ ra ngoài hoạt động. Thực hiện chủ trương ấy, một số chi bộ Đảng trong nhà tù đế quốc đã tổ chức thành công một số cuộc vượt ngục. Tháng 3 năm 1943 nhà tù Đắk Mil – Buôn Ma Thuột đã tổ chức thành công cho ba đồng chí vượt ngục ra ngoài hoạt động. Sau năm 1943, Nhà đày Buôn Ma Thuột tổ chức hai vụ, trong đó có một vụ thành công đưa được ba đồng chí trốn thoát: Nguyễn Chí Thanh, Lê Tất Đắc, Dứa…, một vụ kế tiếp đưa các đồng chí: Bùi San, Hồng Chương ra nhưng bị chúng bắt lại. Có nhiều cuộc vượt ngục, anh em đã thoát ra khỏi nhà tù nhưng vì không có cơ sở cách mạng che chở, nuôi giấu, nên thường bị bắt lại. Bởi vậy, vấn đề xây dựng cơ sở cách mạng, kể cả bên ngoài và trong binh lính địch có một ý nghĩa thiết thực và luôn luôn là những suy nghĩ và hành động hàng ngày của các chiến sỹ cộng sản.
- Cuối năm 1944, chi bộ nhà tù đã xây dựng được những cơ sở trong đồn lính khố xanh. Các đồng chí trong nhà tù đã thành lập các “Hội truyền bá quốc ngữ”, một số tổ chức bán hợp pháp để hoạt động, các tổ chức này đã có hoạt động mạnh chẳng những ở thị xã Buôn Ma Thuột mà còn tỏa về các đồn điền. Thực chất của những “Hội truyền bá quốc ngữ” là vừa để góp phần thanh toán nạn mù chữ, nhưng quan trọng hơn là để tập hợp giác ngộ quần chúng.
Hễ có điều kiện là các chiến sỹ cộng sản lại tranh thủ giáo dục, giác ngộ binh lính, liên lạc để tuyên truyền vận động quần chúng bên ngoài. Binh lính khố xanh vốn là những người nông dân mắc áo lính đã được coi là một trong những đối tượng cần vận động làm cách mạng. Các chiến sỹ cách mạng đã tranh thủ giáo dục, cảm hóa từng người một, thông qua một số cai đội nắm hạ sỹ quan, binh lính, gia đình binh lính.
Trạm xá nhà tù cũng được các chiến sỹ cộng sản đặc biệt chú ý. Tại đây một số cơ sở cách mạng trong ngành y tế và là cơ sở đầu tiên trong người dân tộc Ê Đê được xây dựng. Thông qua cơ sở này và một số người phục vụ bệnh xá, lao dịch của nhà lao, công tác tuyên truyền vận động cách mạng được thực hiện trong giới công chức ngành y và trong quần chúng lao động thị xã.
Ảnh hưởng của những phong trào đấu tranh cách mạng trong nhà đày Buôn Ma Thuột còn lan rộng ra trong cả các lớp học sinh, sở lục lộ, nhà máy đèn, nhà máy nước, sở giáo dục, bưu điện, bệnh viện… Những cơ sở cách mạng dần dần được xây dựng trong các công sở này ngày một nhiều. Những hoạt động đó có tác dụng trực tiếp làm phát triển mạnh mẽ phong trào cách mạng ở tỉnh Đắk Lắk.
Chi bộ Đảng Cộng sản ở Nhà đày Buôn Ma Thuột với cuộc chiến đấu không mệt mỏi của các đảng viên cộng sản, thực tế đã trở thành đầu mối trung tâm là yếu tố quyết định cho cuộc vận động cách mạng giải phóng dân tộc ở tỉnh Đắk Lắk, đưa Cách mạng Tháng Tám thành công.
Sự kiện Nhật đảo chính hất cẳng Pháp là một dấu hiệu mở đầu cho cuộc khủng hoảng chính trị ở Đông Dương, nó tạo thời cơ thuận lợi cho việc phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, khởi nghĩa từng phần ở cả nước để tiến tới tổng khởi nghĩa. Ở Đắk Lắk thời kỳ tiền khởi nghĩa cũng bắt đầu.
 Lợi dụng điểm giao thời Nhật đảo chính Pháp, các chiến sỹ cộng sản trong Nhà đày Buôn Ma Thuột đã kịp thời thủ tiêu các giấy tờ, sổ sách, đổi sổ tù cộng sản thành tù chống Pháp và lấy cớ đó đấu tranh đòi bọn cai ngục phải thả ra. Mặt khác, qua các cơ sở xây dựng được từ trước ở thị xã, các đồng chí lãnh đạo ở trong nhà đày đã chỉ đạo các tổ chức các cuộc đấu tranh như: đòi trừng trị bọn thân Pháp trước kia, đòi cắt chức tên tỉnh trưởng Nguyễn Sĩ Túc gian ác, đòi giải tán Hội đồng tư vấn… Những cuộc đấu tranh đó đã dẫn đến kết quả là động viên, tập hợp giáo dục được ngày càng đông đảo quần chúng, nâng cao tính cách mạng của quần chúng nhân dân và cả binh lính, vạch mặt phản động của bọn phát xít Nhật và bọn tay sai. Những cơ sở cách mạng tiếp tục được phát triển trong các công sở ở thị xã Buôn Ma Thuột. Đặc biệt, phong trào được chỉ đạo tập trung vào nhiệm vụ đòi thả tù chính trị ở nhà đày Buôn Ma Thuột.
Theo hướng dẫn của các chiến sĩ cộng sản trong nhà đày Buôn Ma Thuột, cuộc đấu tranh của các giới đồng bào với quy mô lớn đã nổ ra vào đấu tháng 4-1945. Quần chúng ở các đồn điền, các làng chung quanh thị xã đã kéo đến nhà đày yêu cầu thả tù, trả lại người thân. Các công chức, trí thức yêu nước đã kéo đến nhà tên tỉnh trưởng, vừa thuyết phục vừa đấu tranh đòi thả tù chính trị. Trước áp lực  đấu tranh mạnh mẽ của các chiến sĩ trong tù và phong trào quần chúng ở bên ngoài, các chiến sĩ cách mạng bị giam giữ trong Nhà đày Buôn Ma Thuột đã được giải phóng.
Các chiến sĩ cộng sản vừa mới thoát khỏi nhà tù đế quốc đã tiến hành công tác tuyên truyền, vận động quần chúng, nắm và kiểm tra lại các cơ sở đã xây dựng được. Các đồng chí đã chia thành từng nhóm tiến hành những cuộc diễn thuyết, tuyên truyền vận dộng cách mạng. Chỉ trong vòng chưa đầy nửa tháng sau sự kiện thả tù chính trị, phong trào việt minh ở Đắk Lắk phát triển nhảy vọt. Ở các khu vực đông dân đâu đâu cũng sôi sục khí thế đánh Nhật, cướp chính quyền. Các tổ chức hợp pháp của ta như Hội đồng hương, Hội truyền bá quốc ngữ, Hội cứu tế… tiếp tục phát triển và hoạt động gây ảnh hưởng của Việt Minh đến nhiều địa phương trng tỉnh.
Như vậy, kể từ khi Nhật đảo chính Pháp cho đến tháng 8-1945, cùng với việc giải phóng các chiến sĩ cộng sản khỏi nhà đày Buôn Ma Thuột trở về hoạt động lãnh đạo phong trào, cùng với phong trào công nhân và phong trào ở các buôn làng nông thôn, giới công chức, trí thức và binh lính ngả về cách mạng, là một dấu hiệu cho một tình thế cách mạng đã xuất hiện trong cuộc vận động giải phóng dân tộc tiến đến tổng khởi nghĩa thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám ở Đắk Lắk.
Câu 5: Nêu các thành tựu nổi bật trên lĩnh vực kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk Lắk sau 35 năm giải phóng (từ 1975 đến nay), ý nghĩa của những thành tựu đó?
Sau 35 năm giải phóng, đặc biệt là qua hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã phát huy truyền thống đoàn kết, lao động, cần cù, đẩy mạnh sản xuất, chiến đấu và xây dựng, đã giành được nhiều thành tựu to lớn và rất quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng hệ thống chính trị.
- Tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh những năm đầu giải phóng (1975 – 1976):
Bước vào thời kỳ đầu của giai đoạn cách mạng mới, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức to lớn.
Là tỉnh có địa hình phức tạp, có đường biên giới dài 240 km tiếp giáp với nước bạn Campuchia, sau ngày đất nước thống nhất, dựa vào địa thế hiểm trở của địa hình, các thế lực thù địch, đặc biệt là bọn FULRO ra sức lôi kéo các phần tử chống đối cách mạng, thường xuyên gây rối an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chính quyền cách mạng trong buổi ban đầu còn rất yếu, đặc biệt là ở cấp xã. Đội ngũ cán bộ vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về trình độ và chưa có kinh nghiệm, đứng trước đòi hỏi của nhiều công việc mới, hết sức phức tạp và khẩn trương.
Về kinh tế, sản xuất nông nghiệp còn manh mún, đa phần là tự cung tự cấp, tình trạng du canh du cư còn phổ biến, phương thức canh tác rất thô sơ và lạc hậu, đất đai tuy mầu mỡ nhưng chưa được khai thác và sử dụng hiệu quả, thuỷ lợi chưa phát triển, trồng lúa chủ yếu là một vụ vào mùa mưa, thiếu đói, dịch bệnh thường xuyên xảy ra trong nhân dân, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng căn cứ kháng chiến cũ. Các ngành kinh tế khác như công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng cơ bản... mới được xây dựng và phục hồi, cơ sở vật chất kỹ thuật còn quá non yếu. Kinh tế nhà nước trong thời gian này chưa có gì, chủ yếu dựa vào cơ sở sản xuất tư nhân, cá thể. Còn phụ thuộc vào vật tư của Trung ương chi viện là chính, cách thức quản lý mang nặng tính bao cấp, đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế thiếu tri thức, kinh nghiệm.
Các tầng lớp nhân dân trong tỉnh đại bộ phận bị địch kèm kẹp nhiều năm, nên sau ngày giải phóng tuyệt đại bộ phận đồng bào vui mừng, phấn khởi. Tuy vậy, do chưa nắm được chính sách đoàn kết, hoà hợp dân tộc của cách mạng và bị kẻ xấu tuyên truyền, hù doạ nên không ít nơi xuất hiện tư tưởng hoang mang, sợ bị phân biệt đối xử, nhất là những gia đình có người thân tham gia chế độ Mỹ, nguỵ và các địa bàn đồng bào công giáo. Ở các khu dồn, dinh điền cũ, một bộ phận nhân dân lo lắng vì không có việc làm, có nơi đồng bào tự động hồi cư, chuyển cư từ nơi này sang nơi khác làm cho tinh hình thêm phức tạp. Ảnh hưởng của tàn dư văn hoá thực dân và lối sống hưởng thụ còn trầm trọng trong nhân dân, nhất là tầng lớp thanh, thiếu niên ở thị xã, thị trấn.
Trước những khó khăn thử thách của những năm đầu mới giải phóng, Đảng bộ Đắk Lắk đã phát huy truyền thống cách mạng và tinh thần đoàn kết, kiên trì lãnh đạo nhân dân giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, truy quét bọn phản động FULRO, bảo vệ vững chắc biên giới, từng bước ổn định, xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở hoạt động hiệu quả, tạo tiền đề quan trọng cho giai đoạn phát triển tiếp theo của tỉnh, đặc biệt là thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay, Đắk Lắk đã có những bước phát triển vượt bậc, đạt nhiều thành tựu to lớn, quan trọng trên tất cả các lĩnh vực, làm biến đổi sâu sắc trong đời sống xã hội, tạo ra thế và lực để Đắk Lắk trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Tây nguyên.
Những thành tựu nổi bật:
- Trên lĩnh vực kinh tế:
Từ một nền kinh tế nhỏ bé, mang tính tự cung, tự cấp, đến nay nền kinh tế của tỉnh trong những năm qua liên tục duy trì được tốc độ tăng trưởng cao, tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh cao hơn mức tăng trưởng trung bình của cả nước. Tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn 2001-2003 đạt khoảng 9-10%. Tổng GDP năm 2008 (tính theo giá so sánh 1994) ước tính gấp 1,46 lần so với năm 2005; bình quân trong 3 năm đạt 12,68%/năm, Trong đó nông - lâm - ngư nghiệp tăng 6,32%; công nghiệp - xây dựng tăng 19,99%, dịch vụ tăng 24,95%. hu nhập bình quân đầu người (theo giá hiện hành) 10,98 triệu đồng.
Cơ cấu kinh tế năm 2008, tính theo giá so sánh 1994 tỷ trọng nông- lâm- ngư nghiệp chiếm 55,07% trong GDP; công nghiệp - xây dựng 15,94%; thương mại - dịch vụ 28,99%. Tính theo giá hiện hành nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 59,3%; công nghiệp - xây dựng 13,9%; thương mại - dịch vụ 26,8%. Trong 9 tháng đầu năm 2009, mặc dù gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh đạt 11,16%
+ Sản xuất nông - lâm nghiệp, các năm đều có bước phát triển khá, tương đối toàn diện; từ chỗ thiếu ăn đến nay chúng ta không những đủ ăn mà còn có dự trữ và đảm bảo an ninh lương thực trên phạm vi địa bàn tỉnh. Nếu như năm 1975, tổng sản lượng lương thực có hạt 61.532 tấn, năm 1985 là 209.300 tấn, năm 2003 đạt trên 851.000 tấn, đến năm 2008 tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 946.789 tấn. Sau năm 1975 cả tỉnh chỉ có 200ha ruộng nước, 5.000ha cà phê, 3.000ha cao su thì đến nay đã có trên 25.000ha ruộng nước, 181.120ha cà phê, 23.900ha cao su… Sản phẩm nông nghiệp không chỉ đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh mà còn tạo ra nguồn nông sản hàng hóa lớn phục vụ cho xuất khẩu.
Trong chăn nuôi, hình thành nhiều trang trại có quy mô lớn, đàn gia súc, gia cầm không ngừng được tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Năm 1975, toàn tỉnh chỉ có 3.520 trâu, 12.629 bò, 66.158 heo và 165.900 gia cầm, đến nay (năm 2008) đã có 29.800 trâu, 212.000 bò, 624.000 heo, 68.000 dê và 5,8 triệu gia cầm, gần 170.000 đàn ong, nuôi trồng thuỷ sản 6.319ha .... Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi đã đạt được một số kết quả nhất định theo hướng tăng giá trị kinh tế tiếp tục phát triển ổn định.
Tổng thu ngân sách trên địa bàn hàng năm luôn vượt kế hoạch, năm 2008 thu được 844 tỷ đồng, vượt 10,8% so với kế hoạch, kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh đạt trên 700 triệu USD.
+ Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp không ngừng phát triển. Tổng mức đầu tư của các thành phần kinh tế trong ngành công nghiệp qua 5 năm (2001 – 2006) đạt 3.700 tỷ đồng. Đã hình thành được một số ngành công nghiệp có vị thế và trình độ sản xuất khá so với trong nước như: chế biến cà phê, chế biến gỗ...Một số ngành sản xuất đã đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng như sản xuất vật liệu xây dựng, phân bón... Các cụm, khu công nghiệp đang được khai thác, đầu tư và đi vào hoạt động. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có sự chuyển biến tốt, hiện đang có 4 dự án đang triển khai thực hiện, tổng số vốn đăng ký gần 20 triệu USD; thu hút vốn ODA đạt kết quả khá, hiện có 20 dự án đang triển khai thực hiện với tổng số vốn đầu tư 1.727,928 tỷ đồng.
Hoạt động thương mại dịch vụ có nhiều chuyển biến tích cực góp phần thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng xã hội; thị trường nông thôn có sự phát triển đáng kể, cơ bản đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của người dân. Các dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp như: sửa chữa cơ khí, vận chuyển, sơ chế và bảo quản sản phẩm sau khi thu hoạch, bảo vệ thực vật...phát triển đa dạng và chất lượng ngày càng cao. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ năm 2008 ước đạt 13.770 tỷ đồng.
 - Trên lĩnh vc văn hóa - xã hội:
+ Hoạt động văn hóa thông tin được đẩy mạnh, bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc được giữ gìn và phát huy; toàn tỉnh có trên 70% xã có nhà văn hóa và hầu hết các thôn, buôn có nhà sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Dịch vụ viễn thông có sự phát triển mạnh, đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt đến 100% số xã trên địa bàn tỉnh; bình quân 83 thuê bao điện thoại/100 người dân, internet 11 thuê bao/100 người dân; sử dụng công nghệ thông tin ngày càng rộng rãi. Việc cung cấp dịch vụ báo chí đến người dân được nhanh hơn, đã có 150/154 xã có báo Nhân dân phát hành trong ngày, có 141/154 xã có điểm bưu điện văn hóa xã. Thể thao và Du lịch hoạt động đa dạng, phong phú để tuyên truyền về xây dựng đời sống văn hóa, nhiều hoạt động văn hóa nghệ thuật được tổ chức từ tỉnh đến cơ sở đã góp phần cải thiện đời sống tinh thần cho nhân dân; phong trào thể dục thể thao và rèn luyện thân thể ngày càng phát triển, các môn thể thao thành tích cao của tỉnh đã có vị trí trong  toàn quốc và khu vực. 
+ Ngành giáo dục phát triển khá cả về quy mô và chất lượng, số lượng, số lượng học sinh phổ thông tăng bình quân 2,7% năm. Hệ thống giáo dục phổ thông ngày càng phát triển, năm học 1975-1976 toàn tỉnh mới có 159 trường, 1.364 lớp, 58.297 học sinh, đến năm học 2008-2009 đã có 483.074 học sinh, trong đó học sinh dân tộc có 163.329 học sinh, chiếm tỷ lệ 33,8%. Đến nay không còn tình trạng học ca 3, toàn ngành có 876 trường, 492.441 học sinh, tăng 14 trường, tăng 2.505 học sinh so với năm học trước. Học sinh các cấp từ Mầm non đến THPT; chất lượng đội ngũ giáo viên ngày được nâng lên. Có 12/14 huyện được kiểm tra công nhận đạt chuẩn về phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
+ Công tác y tế, bảo vệ sức khỏe nhân dân được chú trọng và đầu tư nâng cấp. Mạng lưới y tế cơ sở được mở rộng đến thôn buôn, đến nay có 100% xã có trạm y tế, 75 % trạm y tế xã, phường có bác sỹ, 56% trạm y tế đạt chuẩn quốc gia ;(năm 1977, toàn tỉnh có 3 bệnh viện, 8 bệnh xá, 1 nhà điều dưỡng, 6 đội y tế lưu động; 62 xã có trạm y tế), hiện nay đã áp dụng thành tựu khoa học vào công tác điều trị (chạy thận nhân tạo) thực hiện tốt chính sách khám chữa bệnh cho người nghèo, cho đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần tốt hơn cho việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.
+ Thực hiện chính sách xã hội, tỉnh đã triển khai nhiều chương trình, dự án với nhiều nguồn vốn nhằm phát triển kết cấu hạ tầng như: điện, đường, trường, trạm trung tâm cụm xã, nước sạch, các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm đã góp phần nâng cao trình độ sản xuất và cải thiện đời sống nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Chương trình định canh, định cư xóa đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc được triển khai đồng bộ rộng khắp và đạt được những kết quả đáng khích lệ : Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 16%; hàng năm tạo việc làm mới cho hàng chục ngàn lao động trong đồng bào dân tộc thiểu số. 
+ Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cơ bản ổn định ; quốc phòng được giữ vững ; xây dựng hệ thống chính trị tiếp tục được củng cố, kiện toàn ; năng lực lãnh đạo và quản lý, điều hành của cấp uỷ, chính quyền các cấp ngày càng được nâng lên. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng có nhiều chuyển biến tích cực, hướng mạnh hơn về cơ sở. Công tác xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng có nhiều chuyển biến tốt, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của các tổ chức Đảng nâng lên ; niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự nghiệp đổi mới ngày càng được củng cố.
Câu 6: Nêu tóm tắt mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ XIV (nhiệm kỳ 2005-2010) đã đề ra?
Trên cơ sơ phân tích đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, những thành tựu đã đạt được, những hạn chế còn tồn tại trong 5 năm 2001-2005, rút ra những kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ. Đồng thời nhận định, đánh giá đặc điểm tình hình, những thuận lợi, khó khăn trong thời gian tới. Đại hội xác định phương hướng mục tiêu tổng quát nhiệm kỳ 2006-2010: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của của Đảng bộ, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, khắc phục mọi khó khăn thách thức, huy động và sử dụng tốt các nguồn lực, khai thác có hiệu quả các tiềm năng để tập trung đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá, phát triển đô thị và nông thôn. Phấn đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh và bền vững. Gắn phát triển kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Phát triển nguồn nhân lực, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Phát triển văn hoá thực sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh, đảm bảo quốc phòng- an ninh”.
Từ mục tiêu tổng quát, Đại hội xác định tiếp tục thực hiện đồng bộ các chương trình có tính chất đột phá để tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ và toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế- xã hội, bảo đảm quốc phòng- an ninh, xây dựng hệ thống chính trị các cấp trong tỉnh. Tập trung xây dựng các chương trình như: phát triển thủy lợi; phát triển công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp nông thôn; phát triển kinh tế buôn, thôn; phát triển chăn nuôi; chương trình giảm nghèo; chương trình đào tạo nhân lực…
Đại hội đề ra các chỉ tiêu chủ yếu cho đến năm 2010:
1- Nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân 11- 12%/năm, trong đó nông lâm nghiệp tăng 5- 6%, công nghiệp- xây dựng 22- 23%, thương mại- dịch vụ 18- 19%
Cơ cấu kinh tế của tỉnh xác định là: nông nghiệp - công nghiệp- dịch vụ; trong đó tỷ trọng nông - lâm nghiệp 48- 49%, công nghiệp - xây dựng 20,5- 21% và thương mại - dịch vụ 30,5- 31%.
2- Thu nhập bình quân đầu người đạt 850 USD (tính theo giá so sánh 1994), từ 9- 9,5 triệu đồng (tính theo giá hiện hành).
3- Phát triển cơ sở hạ tầng:
- Thuỷ lợi: bảo đảm tưới chủ động cho trên 70% diện tích cây trồng có nhu cầu tưới.
- Giao thông: cải tạo, nâng cấp nhựa hoặc bê tông hoá toàn bộ các tuyến đường tỉnh, đường đến trung tâm xã, 50% hệ thống đường huyện, 25% đường xã và liên xã.
- Điện: 95% trở lên thôn, buôn có điện, trong đó 90- 95% số hộ được dùng điện. Mức tiêu thụ điện bình quân 350 kwh/người/năm.
- Thông tin: 100% xã có hệ thống thông tin thông suốt; 100 người dân có 15 máy điện thoại.
4- Nâng độ che phủ của rừng đạt 50% diện tích tự nhiên.
5- Thu ngân sách: hàng năm huy động 11- 12% GDP (theo giá hiện hành).
6- Phấn đấu giá trị xuất khẩu đạt từ 1.600- 1.700 triệu USD, nhập khẩu đạt trên 100 triệu USD.
7- Huy động đầu tư toàn xã hội bình quân đạt từ 33- 35% GDP, tăng bình quân hàng năm 18,5%.
8- Giảm tỷ suất sinh hàng năm 1%0; tốc độ tăng dân số tự nhiên đến năm 2010 còn 1,5%; dân số khoảng 1,91 triệu người (trong đó có 30% dân số thuộc khu vực thành thị), với gần 1 triệu lao động; giảm tỷ lệ hộ nghèo 2,5% mỗi năm.
9- Tất cả các trạm y tế xã có bác sỹ và đủ điều kiện làm việc; 85% xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 25%
10- Giải quyết việc làm cho 170.000 lao động, đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo đến năm 2010 đạt 36%, trong đó qua đào tạo nghề 28%.
11- Tất cả các huyện, thành phố có trường dân tộc nội trú; có trung tâm giáo dục thường xuyên. Phổ cập trung học cơ sở trong độ tuổi đạt 85- 90%; phấn đấu phổ cập Trung học cơ sở vào năm 2008; 80- 85% thôn, buôn có trường hoặc lớp mẫu giáo; 60% trường học được kiên cố hóa; 11% trường Mầm non, 52% trường Tiểu học, 18% trường Trung học cơ sở và 23% trường Trung học phổ thông đạt chuẩn quốc gia.
12- Phấn đấu đến năm 2010 có 85% hộ trở lên đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá các cấp; 30% xã, phường, thị trấn; 50% thôn, buôn, tổ dân phố; 80- 85% cơ quan đạt tiêu chuẩn văn hóa; 100% buôn có nhà văn hoá cộng đồng vào năm 2007; 100% xã có trạm, đài truyền thanh vào năm 2006; phủ sóng phát thanh và truyền hình toàn tỉnh. Quy hoạch đất để xây dựng hội trường, điểm sinh hoạt văn hóa- thể thao ở 100% thôn, buôn.
13- Đến năm 2010 có 100% dân cư đô thị, 70% dân cư nông thôn được dùng nước sạch.
14- Xây dựng tỉnh thành khu vực phòng thủ vững chắc; giữ vững ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Xây dựng lực lượng vũ trang bảo đảm số lượng, có chất lượng toàn diện. Giải quyết dứt điểm vấn đề Fulro bên trong, không để xảy ra biểu tình, bạo loạn, vượt biên, xâm nhập trái phép.
15- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng trong tình hình mới, đồng thời chăm lo xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; 100% thôn, buôn, tổ dân phố có chi bộ Đảng vào năm 2010; 75% số tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh; 90% đảng viên đủ tư cách hoàn thành nhiệm vụ, trong đó có 35% hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Bình quân mỗi năm kết nạp từ 2.500- 3.000 đảng viên.
* NHỮNG NHIỆM VỤ  GIẢI PHÁP CHỦ YẾU:

I- Tập trung phát triển kinh tế nhanh, bền vững

1- Phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa gắn với việc xây dựng nông thôn mới, cải thiện đời sống dân cư nông thôn.
2- Đẩy nhanh tiến độ phát triển công nghiệp, góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng nền kinh tế.
3- Phát triển thương mại - dịch vụ theo hướng cơ cấu kinh tế mở, hội nhập tận dụng cơ hội phát triển thị trường trong nước và nước ngoài.
4- Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả quy hoạch, phát huy tối đa các nguồn lực để phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, tăng cường quản lý, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường.
Làm tốt công tác quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành, lĩnh vực bảo đảm cho định hướng phát triển lâu dài.
Thực hiện chiến lược huy động các nguồn lực của tỉnh để phát triển kinh tế - xã hội.
Ưu tiên phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội mà trọng tâm là thủy lợi, giao thông, điện, trường học, y tế với tỷ trọng lớn, trước hết là vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, vùng xa.
Tăng cường quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu qủa tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
5- Tiếp tục củng cố phát triển các thành phần kinh tế nhằm khai thác tối đa các nguồn lực thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
II- Phát triển văn hóa, giáo dục, chăm sóc sức khỏe nhân dân và các vấn đề xã hội
1- Tập trung tạo sự chuyển biến cơ bản về giáo dục - đào tạo phục vụ yêu cầu nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực.
2- Đẩy mạnh công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân.
3- Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; làm cho nền văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội.
4- Ổn định mức tăng dân số hợp lý, tiếp tục thực hiện xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống và giải quyết việc làm cho người lao động.
5- Thực hiện tốt chính sách dân tộc và các chính sách xã hội khác bảo đảm công bằng xã hội.
6- thực hiện nhất quán chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo.
III- Đảm bảo quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị để phát triển kinh tế - xã hội
Các cấp ủy, chính quyền, lực lượng vũ trang và các tổ chức trong hệ thống chính trị phải nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới. Phát huy truyền thống cách mạng và sức mạnh khối đại đoàn kết các dân tộc. Làm tốt công tác giáo dục quốc phòng, nêu cao cảnh giác cách mạng, kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi, làm thất bại âm mưu “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tập trung xây dựng nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang vững mạnh toàn diện theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm tốt công tác giáo giục chính trị huấn luyện quân sự, chuyên môn nghiệp vụ sát với yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu. Xây dựng các tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh với xây dựng cơ quan đơn vị, thực hiện chính sách hậu phương quân đội, công tác tuyển quân hàng năm đạt chỉ tiêu và bảo đảm chất lượng. Đầu tư trang bị, bảo đảm tốt hơn điều kiện sinh hoạt, học tập, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho lực lượng vũ trang.
Tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh các phương án phòng thủ, kế hoạch B, kế hoạch phòng không nhân dân nhất là phương án phòng chống gây rối, biểu tình, bạo loạn, khủng bố ở cấp xã, huyện, tỉnh. Tăng cường tiềm lực quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, quan tâm đầu tư các công trình phòng thủ, quy hoạch, sắp xếp, bố trí dân cư phù hợp với thế trận phòng thủ, nhất là các điểm dân cư ở các xã biên giới, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định lâu dài, tăng cường mối quan hệ hữu nghị với tỉnh Mondulkiri - Campuchia.
Đẩy mạnh công tác phát động quần chúng, tuyên truyền giáo dục nhân dân nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng. Chủ động phòng ngừa và ngăn chặn có hiệu quả các tình huống xảy ra ngay tại cơ sở; giải quyết kịp thời những vấn đề liên quan đến an ninh nông thôn. Nâng cao vai trò của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; phát động sâu rộng phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc; xây dựng lực lượng cơ sở cốt cán ở nông thôn, buôn vững mạnh toàn diện.
Thực hiện có hiệu quả Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm; kiềm chế  tiến tới làm giảm vi phạm, tội phạm nhất là các tội phạm nghiêm trọng, nguy hiểm, tội phạm có tổ chức, đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Tăng cường quản lý của nhà nước trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh, trật tự xã hội, đặc biệt là quản lý nhân khẩu, hộ khẩu, quản lý vũ khí, vật liệu nổ, trật tự an toàn giao thông, phòng chống cháy nổ. Nâng cao chất lượng điều tra, truy tố xét xử và thi hành án; xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật các loại tội phạm; giải quyết có hiệu quả các khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật; nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và các cơ quan nội chính trong sạch, vững mạnh để hoàn thành tốt nhiệm vụ; tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho cơ quan tư pháp.
IV- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, tích cực xây dựng chỉnh đốn Đảng; xây dựng, củng cố hệ thống chính trị vững mạnh toàn diện
1- Tiếp tục xây dựng bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, ngăn ngừa và đấu tranh chống tham nhũng có hiệu quả.
2- Tăng cường đoàn kết toàn dân, chăm lo xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân vững mạnh.
3- Không ngừng xây dựng, chỉnh đốn Đảng vững mạnh cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên.
4- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng đi vào chiều sâu, làm chuyển biến mạnh mẽ về chất./.
Câu 7: Viết về một tấm gương đảng viên tiêu biểu trong những năm đổi mới ở địa phương hoặc nơi công tác, học tập mà ông, bà, anh, chị, đồng chí tâm đắc nhất (Nội dung không quá 3.000 từ).

Thiếu tướng Y Blốk Êban - người con Tây Nguyên
suốt đời làm theo lời Bác dạy

Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Thiếu tướng Y Blốk vinh dự nhiều lần được gặp Bác Hồ. Với ông những lần gặp Bác không chỉ là niềm hạnh phúc lớn lao, mà ông như được lớn lên, thêm sáng mắt, sáng lòng.
Y Blốk Ê Ban là cây Pơmu cổ thụ của núi rừng Tây Nguyên. Ông vốn là lính khố xanh, được các chiến sỹ Cộng sản trong nhà tù Buôn Ma Thuột giác ngộ, tháng 5/1945 khi tròn 25 tuổi, Y Blốk Êban đã đến với cách mạng, ông cũng chính là người chỉ huy Đội bảo vệ Ủy ban Khởi nghĩa Đắk Lắk trong buổi mít tinh giành chính quyền tháng 8/1945.
Trong những năm tháng của hai cuộc kháng chiến, YBlốk Êban được giao giữ những cương vị quan trọng của Quân đội và địa phương, từ Đại đội trưởng (9/1945), Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Ama Trang Long (3/1947), Trung đoàn trưởng Trung đoàn 120 (10/1954), đến Quyền Tư lệnh Quân khu 6 (5/1961), Phó Tư lệnh Quân khu 5 (1963), Phó Bí thư Tỉnh ủy kiêm chính trị viên Tỉnh đội Đắk Lắk (1971).
Sau chiến thắng Buôn Ma Thuột (10/3/1975), Y Blốk làm Chủ tịch Ủy ban Quân quản Buôn Ma Thuột và từ năm 1975 đến 1980 ông giữ chức vụ Chủ tịch tỉnh Đắk Lắk. Năm 1982, Y Blốk được phong quân hàm Thiếu tướng.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Thiếu tướng Y Blốk Êban vinh dự nhiều lần được gặp Bác Hồ. Những lúc quây quần bên con cháu, trong căn nhà nhỏ ở khối 5, phường Tân Hòa (TP. Buôn Ma Thuột), Thiếu tướng Y Blốk thường kể lại kỷ niệm những lần ông được gần Bác, nghe Bác căn dặn những lời tâm huyết về xây dựng phong trào cách mạng.
 Lần đầu ông gặp Bác là vào giữa tháng 11-1952, khi ông cùng những đồng chí thuộc thế hệ đi trước như Nguyễn Chánh, Nguyễn Duy Trinh, Bùi San đi dự Hội nghị “Du kích chiến tranh toàn quốc” tại chiến khu Việt Bắc. Thiếu tướng Y Blốk bồi hồi nhớ lại: “Đó là buổi tối trước ngày khai mạc hội nghị, tại khu Nhà khách Trung ương nằm giữa rừng già, sau bữa cơm tối khi tôi cùng các đại biểu đi dạo quanh vườn cây bên suối thì Bác đến. Mọi người nhanh chóng vây quanh Bác. Bác nói: “Biết đoàn Nam Bộ và Tây Nguyên ra từ chiều hôm qua, nhưng để các chú nghỉ, tối nay Bác đến thăm các chú. Bác là chủ nhà mà chậm đón khách, các chú thông cảm cho!”. Rồi Bác lần lượt bắt tay từng người. Bác yêu cầu giới thiệu tên, công việc ở địa phương, Bác vừa nghe vừa gật đầu. Đến lượt tôi, tôi bước lại gần Bác và thưa: “Báo cáo Bác, cháu là Y Blốk Êban, du kích của tỉnh Dak Lak ạ!”. Nghe tôi báo cáo, Bác nắm tay tôi thật chặt rồi dặn: “Chú chuẩn bị kể lại kinh nghiệm bám dân ở trong đó và học tập anh em du kích Nam Bộ, du kích Bắc Bộ để về đẩy mạnh phát triển chiến tranh du kích của địa phương”. Buổi tối hôm khai mạc Hội nghị “Du kích chiến tranh toàn quốc”, Bác cũng đến bất ngờ như lần trước. Trong phần căn dặn những công việc phải làm sau hội nghị, tôi nhớ Bác nhắc: “Điểm trọng yếu là bất kỳ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích đều phải bám sát lấy dân, rời dân ra nhất định thất bại. Bám lấy dân là làm sao cho được lòng dân, dân tin, dân mến, dân yêu, như  vậy thì bất kể việc gì khó mấy cũng làm được cả và nhất định thắng lợi…”. Lời huấn thị của Bác hôm ấy với tôi thật sâu sắc, đó là bài học lớn về “lấy dân làm gốc”, “có dân là có tất cả”. Sau này trên bước đường công tác của mình, mỗi khi gặp khó khăn, trắc trở tôi lại nhớ lời Người huấn thị mà vận dụng. Tôi hết sức xúc động và nhớ mãi bữa cơm tổng kết hội nghị, tôi và một chiến sĩ người dân tôäc Tày được cùng ăn cơm với Bác. Đây là một hạnh phúc mà tôi không bao giờ dám nghĩ đến. Bữa cơm thật đạm bạc chỉ có dăm miếng đậu phụ với khúc cá kho tương, nhưng đây là bữa cơm ngon nhất trong cuộc đời tôi! Từ bữa cơm ấy, tôi hiểu thêm phẩm chất, đạo đức cách mạng của Người. Người thật giản dị, sống cả cuộc đời thanh bạch, tất cả vì nước, vì dân. Tôi nghĩ rằng, các thế hệ cán bộ của ta bây giờ cũng cần phải học Bác ở lối sống giản dị, tiết kiệm này. Cán bộ, đảng viên phải biết chia sẻ nỗi nhọc nhằn với dân. Khi dân chưa no đủ, thì cán bộ không thể sống sung sướng được.
Vào khoảng cuối năm 1955, khi tôi đang huấn luyện bộ đội Trung đoàn 120 tại Nam Đàn (Nghệ An), trên cương vị Trung đoàn trưởng thì vinh dự đón Bác tới thăm. Lần ấy Người huấn thị về công tác nuôi quân, chấn chỉnh điều lệnh quân đội và nhắc nhở về xây dựng tình đoàn kết cán bộ với chiến sĩ và chiến sĩ giữa các địa phương với nhau. Đặc biệt ngày 2-9-1958, khi tôi từ Nam Đàn về Hà Nội dự kỷ niệm Quốc khánh và vào Phủ Chủ tịch, một vinh dự và hạnh phúc lớn nữa đã đến với tôi, đó là tôi được Bác đích thân gắn quân hàm thượng tá. Tháng 8-1961, trước khi từ Hà Nội trở lại Tây Nguyên trên cương vị quyền Tư Lệnh Quân khu 6, một lần nữa tôi được gặp Bác, được Bác nắm chặt tay và căn dặn nhiều điều và đây cũng là lần cuối cùng tôi được gặp Người”.
Theo lời kể của Thiếu tướng Y Blốk Êban, những lần được gặp Bác, ông đã tiếp thu nhiều điều không chỉ cần thiết cho người lãnh đạo, chỉ huy xây dựng, thúc đẩy phong trào cách mạng ngày ấy, mà cho đến ngày nay lời dạy của Bác vẫn còn nguyên giá trị. Học tập và làm theo lời Bác dạy, Thiếu tướng Y Blốk Êban đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên những cương vị được giao trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Bây giờ, về nghỉ hưu sum vầy bên con cháu, ông vẫn luôn là người ông, người cha mẫu mực để con cháu noi theo. 90 tuổi đời, hơn 60 năm tuổi Đảng, nhưng mỗi lần nhớ về Bác Hồ kính yêu, vị tướng già Y Blốk Êban vẫn bồi hồi xúc động như Bác đang ở bên, lời Bác dạy như còn ấm áp bên tai.
Nói về Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” mà Đảng ta phát động, Thiếu tướng Y Blốk Êban cho rằng cuộc vận động này cần phải nhân rộng và hướng tới tất cả mọi tầng lớp nhân dân, trên tất cả các lĩnh vực học tập, lao động và công tác; làm thế nào để mọi người cùng nhận thức: Học Bác phải học suốt cuộc đời. Học Bác để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân ngày một tốt hơn, để xây dựng quê hương đất nước ngày một giàu đẹp hơn, đưa nước ta “sánh vai cùng các cường quốc năm châu” mà sinh thời Bác hằng mong muốn.
Học tập và làm theo lời Bác dạy, Thiếu tướng Y Blốk Êban đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, trên những cương vị được giao trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân

Câu 8: Viết về suy nghĩ, cảm xúc của bản thân về lịch sử vẻ vang của Đảng bộ tỉnh qua 70 năm hình thành và phát triển (Nội dung không quá 3.000 từ). 
 Vào những năm cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp đã đẩy mạnh các họat động do thám, nắm tình hình dưới nhiều danh nghĩa khác nhau, nhằm phục vụ cho âm mưu xâm lược Tây Nguyên, Đắk Lắk. Đến năm 1898, chúng tập trung lực lượng đánh chiếm Buôn Đôn và lần lượt mở rộng chiến tranh đánh chiếm toàn bộ cao nguyên Đắk Lắk.
Sau khi chiếm Đắk Lắk, thực dân Pháp bắt tay xây dựng bộ máy thống trị, thành lập đơn vị hành chính tỉnh Đắk Lắk vào năm 1904 theo Nghị định của Tòan quyền Đông Dương. Chúng chia Đắk Lắk làm 5 quận, áp đặt chế độ trực trị, thực hiện chính sách "chia để trị". Nhưng cũng chính từ sự áp bức, bóc lột hà khắc đó, đồng bào các dân tộc Đắk Lắk đã liên tục và anh dũng đứng lên chống thực dân Pháp, dưới sự lãnh đạo của các vị Đày trưởng. Trong những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong tỉnh liên tục nổ ra các cuộc khởi nghĩa và đấu tranh vũ trang, như cuộc khởi nghĩa của Ama Jhao (1890-1904), cuộc đấu tranh của N’Trang Gưh (1900 -1914), cuộc khởi nghĩa của Oi H’Mai (1903 – 1909). Tiêu biểu hơn cả là cuộc nổi dậy của đồng bào M’nông do N’Trang Lơng lãnh đạo, cuộc khởi nghĩa này kéo dài 23 năm (1912-1935) lôi cuốn đồng bào các dân tộc, không chỉ ở Tây Nguyên, mà cả Cam pu chia hưởng ứng.
Cùng với các cuộc đấu tranh và khởi nghĩa vũ trang do các vị tù trưởng lãnh đạo, trong tỉnh cũng đã xuất hiện một số phong trào đấu tranh chính trị hợp pháp của tầng lớp công chức, viên chức, trí thức, học sinh chống chính sách chia để trị của thực dân Pháp, chống chính sách ngu dân, khinh miệt đồng bào các dân tộc bản xứ. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh do hai giáo chức yêu nước người Ê đê là Y Jút và Y út lãnh đạo (1925 - 1926).
Cũng trong thời kỳ này, do chính sách lập đồn điền khai thác thuộc địa, ở Đắk Lắk đã xuất hiện một tầng lớp công nhân làm thuê cho các đồn điền. Để chống lại sự áp bức bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp, công nhân các đồn điền đã nhiều lần tổ chức các cuộc đấu tranh dưới nhiều hình thức khác nhau. Tiêu biểu cho phong trào đấu tranh của công nhân thời kỳ này là cuộc đấu tranh của công nhân đồn điền Mai ô (Maillot) năm 1927, cuộc đấu tranh của công nhân đồn điền Rossi, CHPI năm 1933, công nhân cầu đường Buôn Hồ 1935 và sau này là công nhân đồn điền CADA...
Năm 1900, khi chuyển tỉnh lỵ từ buôn Đôn về Buôn Ma Thuột, thực dân Pháp cũng đồng thời xây dựng một trại giam ở bên cạnh thị xã để giam giữ những người chống lại quá trình xâm lược và bình định của chúng. Về sau, chúng tiếp nhận đày chính trị từ nơi khác đến và biến nơi đây thành một nơi giam cầm, đày ải và thủ tiêu các chiến sĩ cách mạng bị bắt trong các phong trào yêu nước. Sau năm 1930 - 1931, chúng đày lên Buôn Ma Thuột 30 chiến sĩ cộng sản. Từ năm 1932, thực dân Pháp xây cất thêm và mở rộng trại giam. Đến năm 1936, chúng bỏ nhà đày Lao Bảo (Quảng Trị) và chuyển số đày còn sống sót đến Buôn Ma Thuột. Trại giam Buôn Ma Thuột từ đó trở thành một nhà đày lớn của Pháp ở Đông Dương.
Trước sự giam cầm và đàn áp của thực dân Pháp các đày nhân ở nhà đày Buôn Ma Thuột đã liên tiếp đứng dậy đấu tranh. Cuối năm 1940, Chi bộ Đảng trong nhà đày được thành lập và được tổ chức hoạt động và phát triển đội ngũ đảng viên của mình theo Chính cương, Điều lệ của Đảng. Việc chi bộ của Đảng ra đời đã thống nhất sự lãnh đạo của Đảng trong nhà đày, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc vận động cách mạng ở Đăk Lăk phát triển thêm một bước mới.
Năm 1942 trở đi, các chiến sĩ cách mạng ở nhà đày Buôn Ma Thuột được học tập Nghị quyết ban đầu của Trung ương Đảng và cả chương trình, điều lệ của mặt trận Việt Minh. Những tài liệu học tập trong đày được đưa ra phổ biến ở bên ngoài bằng nhiều con đường khác nhau. Các chiến sĩ cộng sản rất quan tâm tới việc xây dựng những cơ sở cách mạng ở trong đày như: đội ngũ y tá, lính khố xanh và cả việc xây dựng những cơ sở bên ngoài.
Ảnh hưởng của nhà đày Buôn Ma Thuột còn lan rộng ra cả các lớp học sinh, sở lục bộ, nhà máy đèn, nhà máy nước, bưu điện, xây cất nhà cửa, bệnh viện...chính vì vậy mà Chi bộ cộng sản trong nhà đày Buôn Ma Thuột có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống chính trị của nhân dân các dân tộc Đăk Lăk.
Những hoạt động của các chiến sĩ cộng sản ở nhà đày Buôn Ma Thuột không chỉ ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào chung của nhân dân, đến sự hình thành và hoạt động của Đảng bộ sau này, mà còn gieo mầm, tạo những hạt giống đỏ đầu tiên của Đảng bộ tỉnh. Nhiều người thuộc các dân tộc thiểu số vốn làm việc cho chính quyền thực dân, nhưng được những người cộng sản giáo dục, cảm hóa, đã trở thành những cán bộ cách mạng, theo Đảng, theo Bác Hồ, có uy tín lớn đối với nhân dân các dân tộc Tây Nguyên nói chung, Đắk Lắk nói riêng. Nhà đày Buôn Ma Thuột -thông qua hoạt động của các chiến sĩ cộng sản đã tạo nên những nhân tố quyết định cho thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám ở Đắk Lắk ngày 24-8-1945.
Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, đồng bào các dân tộc Đăk Lăk đã đoàn kết chung sức xây dựng chế độ mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và Ủy Ban nhân dân cách mạng lâm thời, các tầng lớp nhân dân trong tỉnh đã hăng hái tham gia củng cố chính quyền, xây dựng lực lượng vũ trang, chống giặc đói, giặc dốt.
Chỉ một trăm ngày sau khi giành được chính quyền, quân và dân Đắk Lắk đã phải bước vào cuộc kháng chiến chống pháp xâm lược. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương, của Xứ uỷ, của Miền, được sự chi viện của đồng bào cả nước, phát huy truyền thống cách mạng kiên cường, Đảng bộ Đắk Lắk đã lãnh đạo quân và dân trong tỉnh làm thất bại âm mưu đánh chiếm Buôn Ma Thuột của Pháp tháng 10-1945, sau đó anh dũng chiến đấu chặn từng bước tiến của thực dân Pháp, góp phần làm phá sản chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của chúng và bảo toàn lực lượng để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Sau khi Đắk Lắk bị chiếm đóng, Đảng bộ đã lãnh đạo gây dựng lại cơ sở chính trị trong vùng địch hậu, phát động chiến tranh du kích từng bước biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta, đi đôi với lãnh đạo tác chiến tiêu hao tiêu diệt địch để phối hợp với các chiến trường, góp phần vào thắng lợi chung đánh bại cuộc chiến trnah xâm lược của thực dân Pháp, đưa cách mạng nước ta tiến lên một bước ngoặt mới.
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đắk Lắk phải đương đầu với một kẻ thù vô cùng tàn bạo và xảo quyệt, dùng hết chiến lược này đến chiến lược khác để đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân. Bên cạnh kẻ thù Mỹ - nguỵ, nhân dân Đắk Lắk còn phải đối phó với một lực lượng phản động có vũ trang là FULRO, với chiêu bài “tự trị giả hiệu, bài kinh chống cộng” được Mỹ nuôi dưỡng, giúp đỡ, làm cho tình hình chính trị, quân sự trong tỉnh thêm khó khăn, phức tạp.
Trong những năm đầu sau Hiệp định Giơnevơ, lực lượng cách mạng ở Đắk Lắk còn lại ít nhưng đã bố trí đều khắp các địa bàn trong tỉnh, cả nông thôn và đô thị, xây dựng và phát triển cơ sở rộng khắp, liên tục giữ vững và phát triển phong trào cách mạng, đưa đến đợt đồng khởi năm 1960 đến năm 1961 giành làm chủ nhiều vùng rộng lớn ở nông thôn, giữ được thế đấu tranh hợp pháp cho quần chúng.
Trong thời kỳ địch gom dân, lập ấp chiến lược, quân dân Đắk Lắk đã kiên trì bám ấp, bám dân vận dụng phương châm 2 chân, 3 mũi giáp công đưa đến cao trào tấn công nổi dậy, phá ấp chiến lược năm 1964 đến năm 1965, phá âm mưu vũ trang của địch, thu hàng vạn súng, giải phóng đại bộ phận nông thôn trong tỉnh, cả vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và vùng đồng bào Kinh, dinh điền, đồn điền, với những phương thức và cách làm rất linh hoạt, độc đáo, sáng tạo.
Trong thời kỳ chống “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, quân dân Đắk Lắk đã giữ vững thế chủ động tiến công địch. Trong cuộc tổng tấn công và nổi dậy Tết  Mậu Thân, Đắk Lắk là một trong những chiến trường thể hiện tốt quyết tâm chiến lược của Trung ương, tấn công chiếm lĩnh được nhiều mục tiêu quan trọng trong thị xã, phối hợp nhịp nhàng giữa tấn công quân sự với tấn công binh vận và phong trào nổi dậy của quần chúng, giữa nông thôn và đô thị, đưa hàng vạn quần chúng nổi dậy với khí thế khởi nghĩa rất sôi nổi và quyết liệt.
Mùa xuân năm 1975, Đắk Lắk được vinh dự chọn thị xã Buôn Ma Thuột làm điểm quyết chiến chiến lược. Quân và dân Đắk Lắk đã góp phần cùng với quân chủ lực làm nên chiến thắng lịch sử Buôn Ma Thuột, tiêu diệt địch, giải phóng toàn tỉnh Đắk Lắk, mở màn thắng lợi cho cuộc tổng tấn công và nổi dậy giải phóng miền Nam, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta đến thắng lợi hoàn toàn, kết thúc vẻ vang quá trình 30 năm đấu tranh giành độc lập, tự do, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi cả nước. Non sông thu về một mối, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới - giai đoạn cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong hơn 10 năm từ 1975-1986 cùng cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong bối cảnh hết sức phức tạp, vừa phải chống thù trong, giặc ngoài, vừa phải xây dựng và phát triển kinh tế từ điểm xuất phát rất thấp, song với truyền thống kiên cường, ý chí quyết tâm của toàn Đảng bộ, toàn quân và toàn dân, Đảng bộ Đắk Lắk đã lãnh đạo nhân dân trong tỉnh từng bước vượt qua khó khăn, thử thách giành được những thành tựu bước đầu hết sức quan trọng trên tất cả các lĩnh vực.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, V và các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương Đảng, với nhiệm vụ chiến lược trong thập kỷ đầu sau giải phóng mà Đảng bộ đã xác định: Truy quét bọn phản động, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ cấp bách, xây dựng phát triển kinh tế là trọng tâm, sản xuất lương thực là nhiệm vụ số một. Đảng bộ đã lãnh đạo tốt nhiệm vụ truy quét, giải quyết vấn đề FULRO, đẩy lùi các cuộc lấn chiếm biến giới và đập tan các cuộc tấn công quân sự của bọn Pôn Pốt-Iêng Xary, giữ vững an ninh chính trị, góp phần bảo vệ vững chắc biên giới phía Tây Nam của Tổ quốc, xây dựng và phát triển kinh tế, chăm lo đời sống nhân dân, thực hiện cuộc vận động định canh định cư trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Từ cuối năm 1986 -2010, vận dụng sáng tạo đường lối của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII và IX của Đảng, vào thực tiễn của địa phương, Đảng bộ tỉnh đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp thích hợp, kịp thời, cụ thể hoá chủ trương đường lối của Đảng vào thực tiễn đời sống của nhân dân; xây dựng, phát triển, hoàn thiện cơ chế quản lý mới, cùng cả nước nhanh chóng thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, từng bước hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa tỉnh nhà vững bước tiến lên theo con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Lịch sử như một dòng chảy liên tục để mỗi thế hệ khi tìm hiểu và nghiên cứu về nó có thể rút ra cho mình, thế hệ mình những bài học, kinh nghiệm lịch sử quý giá. Để thực hiện thành công mục tiêu chiến lược của tỉnh xuyên suốt các kỳ đại hội Đảng bộ tỉnh là bảo vệ quê hương Đắk Lắk, đánh đưổi ngoại xâm và xây dựng Đắk Lắk trở thành một tỉnh giàu về kinh tế, vững về chính trị, mạnh về quốc phòng – an ninh. Chặng đường phía trước của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh mở ra nhiều triển vọng, nhưng cũng không ít khó khăn, thử thách. Song, với kinh nghiệm tích luỹ được qua gần một phần ba thế kỷ xây dựng và phát triển, những thành tựu đã giành được, khẳng định vai trò và năng lực lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh với chặng đường đã qua và chặng đường phía trước. 
Những thành tựu và kinh nghiệm tích luỹ trong 70 năm qua đã trở thành hành trang quý báu của Đảng bộ, nhân dân các dân tộc tỉnh Đắk Lắk vững bước trên con đường đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa những năm đầu thế kỷ XXI. Lịch sử không lặp lại, nhưng những tinh hoa được đúc kết từ máu, mồ hôi tranh đấu, sáng tạo của các thế hệ cán bộ, đảng viên, nhân dân các dân tộc trong 70 năm qua đang thẩm thấu, lan toả để trở thành động lực phát triển, đưa Đắk Lắk trở thành một tỉnh giàu về kinh tế; vững về quốc phòng và an ninh chính trị; phong phú, đậm đà bản sắc văn hóa của các dân tộc, cùng cả nước vững bước tiến trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", xứng đáng là trung tâm chính trị, kinh tế- xã hội của vùng đất Tây Nguyên bao la, hùng vỹ.








Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét