CHUYÊN ĐỀ NĂM 2015
HỌC TẬP VÀ LÀM
THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VỀ TRUNG THỰC,
TRÁCH NHIỆM; GẮN BÓ VỚI NHÂN DÂN;
ĐOÀN KẾT, XÂY DỰNG
ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH
(Thực hiện Thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW,
14/5/2011 của Bộ Chính trị
và Kế hoạch 03-KH/TW,
01/7/2011 của Ban Bí thư, Hướng dẫn số
137-HD/BTGTW, ngày
03/12/2014 của BTGTW)
Năm 2015 là
năm cuối thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XI, nhiều nhiệm vụ lớn, quan
trọng đặt ra trước toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, cần nỗ lực và tập trung
giải quyết. Kết quả thực hiện các nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng
Đảng trong 2015 có ý nghĩa quan trọng không chỉ với thực hiện kế hoạch 5 năm
2011-2015, mà còn tạo tiền đề cho những năm sau.
- Về phát
triển kinh tế - xã hội. Sau 4 năm thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng, phát
triển nhanh, hiệu quả và bền vững với 3 khâu đột phá chiến lược, nền kinh tế
nước ta đã có chuyển biến tích cực, đang phục hồi rõ rệt, tạo cơ sở cho sự phát
triển cao hơn trong năm 2015. Đồng thời, những cố gắng và kết quả đạ được trong
năm 2015 có vai trò quan trọng đến việc hoàn thành kế hoạch 5 năm 2011-2015.
Tuy vậy, quá
trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng của nền kinh tế nước ta đang đặt ra nhiều
vấn đề cần phải giải quyết. Tiềm năng tăng trưởng theo chiều rộng ngày càng
giảm dần. Việc tăng trưởng theo chiều sâu, hiệu quả và bền vững cần nhiều yếu
tố mới, trong đó có khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực, môi trường, thể chế
kinh tế…., Sự thống nhất tư tưởng và hành động trong Đảng và xã hội, nêu cao
tinh thần trách nhiệm ở mọi cấp, mọi ngành là yêu cầu đầu tiên để thực hiện
thắng lợi quá trình chuyển đổi trên. Học tập và theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh về trung thực, trách nhiệm, gắn bó với Nhân dân, đoàn kết, xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh, góp phần vào thực hiện nhiệm vụ quan trọng đó.
- Xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược luôn luôn gắn với nhau, phải
tiến hành đồng thời. Phát huy tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc của mỗi công
dân, trước hết là trong mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, để bảo vệ độc lập,
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia dân tộc là yêu cầu chung trong
mọi giai đoạn cách mạng.
Trong giai
đoạn hiện nay, vấn đề đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường tiềm
lực quốc phòng, an ninh, nhất là tiềm lực chính trị tinh thần, để bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia dân tộc ngày càng
trở nên quan trọng. Học tập và theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về trung
thực, trách nhiệm, gắn bó với Nhân dân, đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch vững
mạnh trực tiếp thực hiện các nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
- Công tác xây
dựng Đảng được xác định là nhiệm vụ then chốt trong công cuộc đổi mới ở
nước ta. Lời dặn đầu tiên trong bản Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh để lại cho chúng ta là “trước hết nói về Đảng”. Xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh luôn luôn là nhân tố đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam .
Nguy cơ suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và xã hội, nhất là
trong điều kiện đảng cầm quyền, đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh cảnh báo từ rất
sớm, ngay sau khi giành được chính quyền, xây dựng bộ máy nhà nước mới. Trong
công cuộc đổi mới, Đảng ta đã chỉ ra nguy cơ này tại Hội nghị toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khóa VII, tháng 01-1994. Đến nay tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống đã trở thành một hiện tượng khá phổ biến, có trong
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong các tầng lớp Nhân dân. Từ sự suy
thoái đó, đã nảy sinh ta nhiều tệ nạn đáng lo ngại, như tham nhũng, tiêu cực,
bè phái, lợi ích nhóm… Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI coi đây
là “vấn đề cấp bách”, cần tập trung giải quyết.
Trong bản Di
chúc, viết vào những năm 1965 - 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy trước những
thay đổi, những nguy cơ nêu trên của đất nước. Bởi vậy, Người coi việc đầu tiên
là “về con người” và trước hết là nói về Đảng, về xây dựng Đảng. Cốt lõi
vấn đề là đoàn kết, phải giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng như
"giữ gìn con ngươi của mắt mình".
Học tập và
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh góp phần tích cực, quan trọng để thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khắc
phục tình trạng nêu trên.
- Năm 2015 là
năm chuẩn bị và tiến hành đại hội các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII của Đảng. Đại hội diễn ra trong bối cảnh đất nước ta có nhiều
cơ hội to lớn để đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, đồng thời đất nước cũng đang đứng trước những thách thức không nhỏ cần
phải giải quyết. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, gắn bó
với nhân Nhân dân, phát huy tinh thần đoàn kết trong xây dựng Đảng là nhân tố hàng
đầu đảm bảo chất lượng và thắng lợi của đại hội các cấp tiến tới Đại hội toàn
quốc lần thứ XII của Đảng.
- Năm 2015
tiếp nối những hoạt động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh theo Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị và Kế hoạch 03-KH/TW của Ban
Bí thư khóa XI. Chủ đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh hướng
vào 3 nội dung lớn: về trung thực, trách nhiệm; về gắn bó với Nhân dân; về đoàn
kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Thực hiện tốt chủ đề trên không chỉ
góp phần thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ to lớn đặt ra trước Đảng, Nhà nước,
Nhân dân ta, mà còn để phát huy những kết quả đạt được trong thực hiện chủ đề
các năm trước, thực hiện chủ đề chung trong toàn khóa, tạo tiền để cho việc học
tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách của Bác trong những năm
sau.
Tổ chức tốt
việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh năm 2015 còn là để tổng
kết, đánh giá kết quả đạt được, báo cáo với Đại hội các cấp và Đại hội XII,
kiến nghị với Đại hội về hình thức, phương pháp tổ chức học tập và làm theo tấm
gương đạo đức của Bác trong những năm tới.
II- TƯ TƯỞNG,
TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VỀ TRUNG THỰC, TRÁCH NHIỆM; GẮN BÓ VỚI NHÂN DÂN;
ĐOÀN KẾT, XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH
1- Tư
tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về trung thực, trách nhiệm
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về trung thực,
trách nhiệm
1.1.1. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về trung thực,“nói thì phải làm”
- Trung thực
là là một phẩm chất đạo đức, thể hiện sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động,
nhận thức và việc làm; giữa tư tưởng đạo đức và hành vi đạo đức của mỗi người.
Đối lập với trung thực là giả dối. Trong quan hệ giữa người với người, Hồ Chí
Minh coi trung thực là nói đi đôi với làm. Trong bài giảng “Tư cách một người
cách mệnh”, Người viết:… “Nói thì phải làm” [1]...
- Cơ sở tư
tưởng Hồ Chí Minh về phẩm chất đạo đức “trung thực” bắt nguồn từ truyền thống
của dân tộc: những phẩm chất thật thà, ngay thẳng, vị tha, thương yêu con
người, sống có tình, có nghĩa... Tất cả những điều đó làm nổi lên đức tính
trung thực của người Việt Nam .
Đồng thời, Hồ Chí Minh còn tiếp thu, thâu hái những tinh hoa văn hóa đạo đức
của nhân loại, từ triết lý “kỷ sở bất dục, mặc thi ư nhân” “chính danh
quân tử” của Nho giáo; những lời răn dạy “từ bi, hỷ xả”, “cứu khổ, cứu nạn”,
không nói dối trá, không ăn cắp, cưu mang giúp đỡ con người… của Phật giáo; đến
đức hy sinh, tự sám hối với mình của Công giáo…Trung thực trong tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh mang nội dung đạo đức cao quý của người cộng sản, những người
đã công khai nói về sự tự nguyện hy sinh, cống hiến cả cuộc sống của mình cho
mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người…
Theo tư tưởng
Hồ Chí Minh, biểu hiện cụ thể của trung thực là “nói thì phải làm”. Nói đi
đôi với làm là nguyên tắc thực hành đạo đức, là phương châm hoạt động, là biểu
hiện sinh động cụ thể của việc quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận với thực tiễn, giữa suy nghĩ và hành động trong một con người.
- Nội
dung tư tưởng Hồ Chí Minh về trung thực, "nói thì phải làm"
+ Với cán bộ,
đảng viên, công chức, trung thực trước hết là với Đảng với cách mạng. Xây dựng,
rèn luyện bản lĩnh vững vàng, có niềm tin vào mục tiêu lý tưởng cách mạng của
Đảng, thì dù phải trải qua những tình huống phức tạp, những bước ngoặt hiểm nghèo,
vẫn luôn luôn trung thực với mình, trung thành với Đảng, với sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc, vì tự do, ấm no, hạnh phúc của Nhân dân.
+ Trung thực
là phải nói và làm đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, chống chủ
nghĩa cá nhân, không được vì lợi ích cá nhân mà xuyên tạc, nói sai, làm sai.
Nắm vững mục tiêu lý tưởng của Đảng trong toàn bộ tiến trình cách mạng và được
cụ thể hóa thành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước trong từng giai đoạn để thực hiện cho đúng; để tuyên truyền, giáo dục, vận
động Nhân dân làm theo cho đúng.
+ Trung thực,
thống nhất giữa lời nói và việc làm, “không được nói một đàng, làm một
nẻo” là sự thể hiện sự trung thực với chính mình. Nếu chính mình tham ô mà
bảo người khác liêm khiết thì không được và là sự giả dối. Nếu kêu gọi mọi
người cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư, mà bản thân mình lại lười biếng,
không cần, kiệm, không hoàn thành những công việc được giao, luôn tìm cách tham
ô tiền của Nhà nước và Nhân dân, sống hoang phí, xa hoa…, là giả dối, không
trung thực.
+ Trung thực
là nghiêm túc với chính mình, đúng mực với người khác, không được “hứa mà không
làm”. Lời hứa chỉ có giá trị khi đi liền với việc làm cụ thể. “Làm” ở
đây chính là hành động từ việc nhỏ đến việc lớn, là hoạt động thực tiễn tổ chức
thực hiện, đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước vào cuộc sống. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên “Nói ít, bắt đầu
bằng hành động”[2]; “tốt nhất là miệng nói, tay làm, làm
gương cho người khác bắt chước”[3]. Cán bộ, đảng
viên “cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm.
Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh... phải thật thà nhúng
tay vào việc”[4].
+ Đối với
Đảng, Hồ Chí Minh yêu cầu “Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và
những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết
và chỉ thị đó sẽ hóa ra là lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của Nhân
dân đối với Đảng”. Đảng phải luôn luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn để hoàn thành
trách nhiệm, lời hứa trước Nhân dân. Khi mắc sai lầm, khuyết điểm thì dũng cảm
nhận lỗi trước dân và kiên quyết dựa vào dân để sửa chữa khuyết điểm.
1.1.2.Tư tưởng
Hồ Chí Minh về trách nhiệm
- Hồ Chí Minh
coi trách nhiệm là việc phải làm không thể thoái thác. Trách nhiệm như là bổn
phận của mỗi người, dù ở cương vị nào, to hay nhỏ, lớn hay bé, mỗi người đều
có ‘bổn phận”. Ý thức trách nhiệm là tự ý thức được về các công việc phải
làm, “nhận rõ phải, trái, đúng sai”, tự mình xác định việc cần làm. Trên
cơ sở có ý thức đúng đắn, tự giác, tích cực thực hiện trách nhiệm của mình là
“có tinh thần trách nhiệm cao”.
- Chủ tịch Hồ
Chí Minh xác định mỗi người đều có trách nhiệm và nhấn mạnh trách nhiệm của
người cán bộ, đảng viên, công chức.
Một là, trách nhiệm với Tổ quốc.
Chủ nghĩa yêu nước chân chính và tinh thần dân tộc là cơ sở của ý thức trách
nhiệm trong mỗi người dân với Tổ quốc. Khi Tổ quốc lâm nguy thì “Bất kỳ
đàn ông, đàn bà, bất kỳ ngưới già, người trẻ, không phân biệt tôn giáo, đảng
phái, dân tộc, hễ là người Việt thì phải đứng lên chống thực dân
Pháp”. Lòng yêu nước ấy dâng lên mạnh mẽ “kết thành làn sóng nhấn
chìm bè lũ cướp nước và bán nước”.
- Theo Hồ Chí
Minh, mọi cán bộ, đảng viên, công chức luôn có trách nhiệm thiêng liêng, cao cả
đối với Tổ quốc, với sự sống còn của quốc gia, dân tộc. Trách nhiệm ấy được thể
hiện ở tinh thần đấu tranh quên mình cho độc lập, tự do, thống nhất đất nước.
Lịch sử Đảng ta đã có nhiều tấm gương điển hình tuyệt vời về trách nhiệm cao cả
ấy. Tại Lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng, tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
"Biết bao đảng viên ưu tú đã hy sinh một cách cực kỳ oanh liệt. Chỉ riêng
trong cấp Trung ương của Đảng đã có 14 đồng chí bị đế quốc Pháp bắn, chém, hoặc
đập chết trong các nhà tù. Máu đào của các liệt sĩ ấy đã làm cho lá cờ cách
mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước
ta nở hoa độc lập, kết quả tự do".
- Trách nhiệm
của cán bộ, đảng viên, công chức đối với Tổ quốc còn thể hiện ở tinh thần nỗ
lực phấn đấu cho đất nước giàu mạnh, cho chủ nghĩa xã hội thành công. Trong quá
trình lãnh đạo xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa (1954-1969), Người luôn nhắc
nhở trách nhiệm của đội ngũ đảng viên là phải ra sức xây dựng, phát triển kinh
tế, quyết tâm đưa miền Bắc tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Đã
nhiều lần, Người chỉ rõ trách nhiệm của toàn Đảng nói chung và của từng đảng
viên nói riêng là: "Lãnh đạo Nhân dân kháng chiến thắng lợi, kiến
quốc thành công, thực hiện dân chủ mới, tiến lên chủ nghĩa xã hội, rồi tiến đến
chủ nghĩa cộng sản".
Hai là, trách nhiệm đối với Nhân
dân. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, công chức
với Nhân dân được bắt nguồn từ nguyên lý: "Nước lấy dân làm gốc",
"Sự nghiệp cách mạng là do Nhân dân tiến hành", "Nhân dân là
người làm ra lịch sử"… Cán bộ, đảng viên, công chức phải “hết lòng, hết
sức phục vụ Nhân dân”. Để làm được việc đó, cán bộ, đảng viên công chức còn
phải thường xuyên tuyên truyền, giáo dục cho Nhân dân nắm vững quan điểm, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; lãnh đạo quần chúng Nhân dân
thực hiện thắng lợi các đường lối, chính sách ấy. Trong bài "Đảng
viên Đảng lao động Việt Nam ", Người
đã chỉ rõ: "Mỗi đảng viên là một người thay mặt cho Đảng trước quần
chúng, giải thích chính sách của Đảng và của Chính phủ cho quần chúng hiểu rõ
và vui lòng thi hành".
- Người nhắc
nhở, muốn lãnh đạo được quần chúng Nhân dân thì cán bộ, đảng viên, công chức
phải sâu sát, gần gũi quần chúng, chăm lo giúp đỡ quần chúng về mọi mặt;
phải "trọng dân, sát dân, tin dân", phấn đấu sao
cho "dân phục, dân tin, dân yêu". Người luôn yêu cầu tất cả đảng
viên phải "… lắng nghe ý kiến và nguyện vọng của Nhân dân, học hỏi
kinh nghiệm của Nhân dân", "việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với
dân chúng, giải thích cho dân chúng… Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và
tìm cách giải quyết".
- Trách nhiệm
của cán bộ, đảng viên là phải nêu gương trước quần chúng về mọi mặt. Theo
Người, trong mọi phong trào, mọi nhiệm vụ, cán bộ, đảng viên đều phải tiên
phong, gương mẫu làm trước, tiến trước để quần chúng noi theo. Sự gương mẫu của
đội ngũ cán bộ, đảng viên có vai trò rất to lớn để biến đường lối, chủ trương
của Đảng thành hiện thực. Người nhấn mạnh:"Người đảng viên - dù công tác
to hay nhỏ, địa vị cao hay thấp - ở đâu cũng phải làm gương mẫu cho quần chúng…
Muốn cho quần chúng nghe lời mình, làm theo mình, thì người đảng viên, từ việc
làm, lời nói đến cách ăn ở đều phải gương mẫu".
- Hồ Chí Minh
yêu cầu cán bộ, đảng viên, công chức phải kính trọng dân. Người luôn nhắc nhở
đảng viên phải kính yêu Nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ của Nhân dân, tuyệt
đối không được có thái độ "vác mặt làm quan cách
mạng", không được hách dịch, nhũng nhiễu Nhân dân. Nói chuyện với cán
bộ, đảng viên tỉnh Hà Tây, Người nhấn mạnh: "Mỗi người đảng viên, mỗi
người cán bộ từ trên xuống dưới đều phải hiểu rằng: mình vào Đảng để làm đầy tớ
cho Nhân dân… Lãnh đạo là làm đầy tớ Nhân dân và phải làm cho tốt".
Ba là, trách nhiệm đối với
Đảng. Tất cả đảng viên phải kiên định với tôn chỉ, mục đích, mục tiêu, lý
tưởng của Đảng. Đảng viên phải quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc đường
lối, chủ trương, nghị quyết do Đảng đề ra; thực hiện tốt các nhiệm vụ của người
đảng viên; chấp hành nghiêm Điều lệ, kỷ luật Đảng; tích cực tham gia xây dựng
đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh; luôn giữ vững tính tiền phong, gương mẫu
của người đảng viên. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Người cộng sản chúng ta
không được phút nào quên lý tưởng cao cả của mình là: suốt đời làm cách mạng,
phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, làm cho chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản hoàn toàn thắng lợi trên Tổ quốc ta và trên toàn thế giới".
- Hồ Chí Minh
còn chỉ rõ, trách nhiệm của đảng viên đối với Đảng là phải ra sức học tập chủ
nghĩa Mác - Lênin. Bởi lẽ, theo Người, nếu thiếu hiểu biết, nhất là thiếu hiểu
biết về chủ nghĩa Mác - Lênin thì trình độ giác ngộ của đảng viên sẽ thấp, nhất
định không thể hăng hái đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng. "Học hỏi là một
nghĩa vụ của đảng viên đối với Đảng, đối với Nhân dân".
- Để nâng cao
trách nhiệm với Đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức phải không ngừng rèn
luyện đạo đức cách mạng, phải thực hiện tốt 5 điều "nhân, nghĩa, trí,
dũng, liêm", tuyệt đối chấp hành nghị quyết và kỷ luật Đảng, luôn đặt lợi
ích của Đảng lên trên, lên trước lợi ích của cá nhân mình. Người yêu cầu mọi
đảng viên không chỉ nhận thức đầy đủ, sâu sắc trách nhiệm của mình đối với
Đảng, mà quan trọng hơn là những trách nhiệm ấy phải được thực hiện nghiêm túc,
hiệu quả, thường xuyên, liên tục.
Bốn là, trách nhiệm với bản thân,
gia đình, quê hương.
- Biểu hiện cụ
thể của các trách nhiệm nêu trên của mỗi người là trách nhiệm với chính mình,
với “bổn phận”, công việc được giao. Khi xác định rõ “bổn
phận”, trách nhiệm phải làm thì tự thân mỗi người tự giác, tự mình cố gắng
vươn lên để hoàn thành trách nhiệm đó. Là một thành viên của xã hội, của tổ
chức, mỗi người giữ một vị trí xã hội nhất định, hoạt động trong một lĩnh vực
nhất định và thực hiện một công việc nhất định. Do vậy, hoàn thành nhiệm vụ
được giao là kết quả thực hiện các trách nhiệm nêu trên.
- Cán bộ, đảng
viên, công chức phải chăm lo xây dựng gia đình, dòng họ, quê hương… Phải giáo
dục cho các thế hệ trong gia đình, dòng họ về lòng yêu nước, về trác nhiệm xã
hội, về ý chí vươn lên trong học tập và công tác, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được
giao. Đặc biệt, tất cả đảng viên phải quan tâm giáo dục cho con cháu về đạo
đức, lối sống lành mạnh, nhất là tinh thần cần kiệm, liêm chính, lòng nhân ái,
tình đoàn kết cộng đồng; biết kế thừa, phát huy truyền thống tốt đẹp của gia
đình, dòng họ, quê hương và của toàn dân tộc.
1.2. Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về trung
thực, trách nhiệm
- Ra đi tìm
đường cứu nước, Hồ Chí Minh mang theo hoài bão, khát vọng giành lại nền độc lập
cho Tổ quốc. Người đã xác định trách nhiệm của người dân đối với Tổ quốc, ở đây
là người dân mất nước. Những hoạt động của Người trong thời gian tìm đường cứu
nước (1911-1920) là công việc tự giác, là trách nhiệm của một người dân đối với
Tổ quốc, đối với dân tộc, Nhân dân mình. Suốt gần mười năm trải qua bao nhiêu
sự tìm tòi, chiêm nghiệm, khám phá, cuối cùng Người đã tìm được con đường cứu
nước, giải phóng dân tộc, hoàn thành trách nhiệm đầu tiên do chính mình đặt ra.
- Sau khi tìm
được con đường cứu nước, Hồ Chí Minh tự xác định trách nhiệm thức tỉnh dân tộc
Việt Nam, trước hết là lớp thanh niên, trí thức yêu nước về nhiệm vụ và con
đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Đầu năm 1930, Người đã hoàn thành được một
nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng hàng đầu của tiến trình cách mạng, đó là sáng
lập ra đội tiên phong của giai cấp công nhân và của cả dân tộc - Đảng Cộng sản
Việt Nam - để lãnh đạo toàn dân đấu tranh giành lại nền độc lập cho Tổ quốc.
- Trong 15
năm, năm 1930 đến năm 1945, Hồ Chí Minh đã hai lần bị bắt, bị giam cầm trong
nhà tù của thực dân đế quốc. Trong hoàn cảnh lao tù, Người xác định “Muốn nên
sự nghiệp lớn, tinh thần càng phải cao”, “Tai ương rèn luyện tinh thần thêm
hăng”. Trong những năm hoạt động bí mật trên chiến khu, người đã trải qua cuộc
sống gian khổ, cùng Nhân dân để chuẩn bị đấu tranh giành chính quyền. Khi kêu gọi
Nhân dân tham gia Mặt trận Việt Minh, Người xác định trách nhiệm của
mình: “Riêng phần tôi, xin đem hết tâm lực đi cùng các bạn, vì đồng bào
mưu giành tự do độc lập, dầu phải hy sinh tính mệnh cũng không nề”[5].
- Từ sau năm
1945, với cương vị là người đứng đầu Đảng và Nhà nước, Hồ Chí Minh đã tự xác
định cho mình trách nhiệm người công dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và
trách nhiệm nặng nề của người lãnh đạo cao nhất. Người tâm sự:“Cả đời tôi chỉ
có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân.
Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự
hiểm nghèo - là vì mục đích đó... Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ
theo đuổi một mục đích, làm cho ích quốc lợi dân”[6]. Trong
hoàn cảnh cách mạng “ngàn cân treo sợi tóc” những năm 1945-1946, Người xác
định trách nhiệm quan trọng nhất là cùng với Đảng với dân bảo vệ được nền độc
lập dân tộc mới giành được, để xây dựng đất nước, mang lại tự do, ấm no, hạnh
phúc cho Nhân dân.
- Trong quan
hệ với Nhà nước và Nhân dân, Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ trách nhiệm của mình,
đó là nhận sự uỷ thác của quốc dân, đồng bào, hoàn thành trách nhiệm được Tổ
quốc, Nhân dân giao phó "cũng như người lính vâng mệnh lệnh quốc dân
ra trước mặt trận"[7] nhằm làm
cho "Nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành"[8]; xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ, giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới…
- Trong lãnh
đạo cách mạng, có lúc Đảng, Nhà nước phạm sai lầm, khuyết điểm. Trước khuyết
điểm chung, với tinh thần dám chịu trách nhiệm, Người đứng lên, thay mặt Đảng,
Chính phủ xin lỗi Nhân dân. Trong Thư gửi đồng bào nông thôn và cán bộ
nhân dịp cải cách ruộng đất ở miền Bắc căn bản hoàn thành, sau khi nêu những
khuyết điểm, sai lầm của Đảng trong việc đoàn kết nông thôn, việc đánh kẻ địch,
việc chấn chỉnh tổ chức, trong chính sách thuế nông nghiệp, Người viết: “Trung
ương Đảng và Chính phủ đã nghiêm khắc kiểm điểm những sai lầm, khuyết điểm ấy
và đã có kế hoạch kiên quyết sửa chữa, nhằm đoàn kết cán bộ, đoàn kết Nhân dân,
ổn định nông thôn, đẩy mạnh sản xuất”[9].
2. Tư
tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về gắn bó với Nhân dân
2.1.Tư tưởng
Hồ Chí Minh về gắn bó với Nhân dân
- Tư tưởng Hồ
Chí Minh về sự gắn bó mật thiết với Nhân dân bắt nguồn từ quan niệm của
Người, coi Nhân dân là nguồn gốc của mọi sức mạnh. Người viết: “...Trong
bầu trời không gì quí bằng Nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực
lượng đoàn kết của Nhân dân”[10]. “Cách mệnh là
việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”[11].
- Cơ sở hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về gắn bó với Nhân dân bắt đầu từ truyền thống dân
tộc. Những quan niệm “Tập hợp bốn phương manh lệ”, “trên dưới đồng lòng,
cả nước chung sức”, “tướng sĩ một lòng phụ tử”, “khoan thư sức dân làm kế sâu
rễ bền gốc”, “chở thuyền là dân, lật thuyền là dân”, đã trở thành tình cảm tự
nhiên, triết lý nhân sinh, phép ứng xử và tư duy chính trị của dân tộc Việt Nam.
Phát huy truyền thống dân tộc, năm 1955, Người viết: “... với sự đoàn kết
nhất trí của tất cả những người xứng đáng là con Lạc cháu Hồng - Mặt trận nhất
định sẽ thành công trong việc đánh tan âm mưu của Mỹ và bè lũ tay sai của
chúng và thực hiện hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước Việt
Nam yêu quý của chúng ta”1.
Tư tưởng gắn
bó với Nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn bắt nguồn từ tổng kết kinh
nghiệm của phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới. Người chỉ ra
nguyên nhân không thành công của các phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX là do chưa tập hợp được đông đảo quần chúng Nhân dân tham
gia. Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh chỉ rõ cách mạng Mỹ và
cách mạng Pháp, là các cuộc cách mạng “không đến nơi”, bởi kết quả
cuối cùng là chính quyền rơi vào tay một thiểu số người và bảo vệ lợi ích cho
một nhóm ít người đó. Hồ Chí Minh nghiên cứu cách mạng Nga, rút ra nhiều bài
học về huy động, tập hợp lực lượng từ Nhân dân, gắn bó với dân và luôn luôn bảo
vệ lợi ích của đa số quần chúng Nhân dân.
- Với cách
mạng Việt Nam ,
Hồ Chí Minh khẳng định sự cần thiết phải tập hợp quần chúng Nhân dân cho phong
trào giải phóng dân tộc. Năm 1924, Người viết: “người ta không thể làm được gì
cho Đông Dương nếu không phát huy được chủ nghĩa dân tộc ở họ…” . Vì vậy phải
bắt đầu từ giác ngộ, tổ chức tập hợp quần chúng. Truyền bá chủ nghĩa Mác -
Lênin vào phong trào yêu nước và phong trào công nhân, khơi dậy chủ nghĩa yêu
nước và tinh thần dân tộc, tập hợp Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là nguyên
nhân chính của mọi thắng lợi của cách mạng. Khi nói về thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh nói: “Nhất là vì lực lượng của cuộc toàn dân đoàn
kết. Tất cả các dân tộc, các giai cấp, các địa phương, các tôn giáo đều nổi dậy
theo lá cờ Việt Minh để tranh lại quyền độc lập cho Tổ quốc. Lực lượng toàn dân
là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng được lực lượng đó”[12]. Khi nói về công việc “Kháng chiến kiến
quốc”, Người hỏi: Ai thực hiện “kháng chiến kiến quốc” ? và trả lời:
“Trong công cuộc kháng chiến kiến quốc, lực lượng chính là ở dân”[13].
- Để gắn bó
với dân, giữ vững mối liên hệ giữa cán bộ, đảng viên và Nhân dân, Người yêu cầu
mỗi cán bộ, đảng viên, công chức phải :
+ “Nhận rõ
phải, trái. Giữ gìn lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân. Mọi việc
thành hay bại là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay là không”. [14]
+ Cán bộ của
Đảng, Nhà nước “cần phải xung phong, gương mẫu trong sản xuất và trong công
tác, hết lòng hết sức phục vụ Nhân dân, luôn luôn trau dồi đạo đức cách mạng,
cần kiệm, liêm chính”[15].
+ Với mỗi đảng
viên “Bất kỳ khó khăn đến mức nào cũng kiên quyết làm đúng chính sách và
nghị quyết của Đảng, làm gương cho quần chúng. Mọi đảng viên phải nâng cao tinh
thần trách nhiệm trước Nhân dân, trước Đảng, phải kiên quyết chống lại chủ
nghĩa cá nhân”[16];
+ “…Vô
luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên
trên hết. Nếu lợi ích của Đảng và lợi ích cá nhân mâu thuẫn với nhau, thì lợi
ích cá nhân phải tuyệt đối phục tùng lợi ích Đảng”.[17]
+ "Cán bộ
đảng viên phải nâng cao tinh thần phụ trách trước Đảng và trước quần chúng, hết
lòng, hết sức phục vụ Nhân dân. Phải kính yêu Nhân dân. Phải tôn trọng thật sự
quyền làm chủ của Nhân dân. Tuyệt đối không được “kiêu ngạo, công thần, tự cao,
tự đại"... Người dạy: "Cơm của chúng ta ăn, áo của chúng ta mặc,
vật liệu chúng ta dùng đều là mồ hôi, nước mắt của Nhân dân mà ra. Vì vậy chúng
ta phải đền ơn xứng đáng cho Nhân dân. Chớ vác mặt làm quan cách mạng để dân
ghét, dân khinh, dân không ủng hộ".
2.2. Tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh suốt đời gắn bó với Nhân dân
- Sinh ra
trong một gia đình nho nghèo, cùng sống với các tầng lớp Nhân dân lao động, Hồ
Chí Minh đã sớm có quan niệm và lối sống gắn bó với Nhân dân. Khi còn đang là
học sinh trường Quốc học Huế, Người đã xuống đường hòa vào dòng người biểu tình
chống thuế, giúp đỡ những người nông dân thể hiện các yêu sách của mình bằng
tiếng Pháp.
- Rời trường
học, Người bắt đầu cuộc đời lao động kiếm sống và hoạt động cách mạng. Làm giáo
viên trường Dục Thanh ( Bình Thuận), người gắn bó với thanh niên học sinh,
truyền cảm hứng cho họ về lòng yêu nước và trách nhiệm của người dân, đặc biệt
thanh niên với Tổ quốc. Tiếp đó, Người đã học nghề và làm việc tại xưởng tàu
với vai trò của người công nhân, trước khi xuống tàu ra nước ngoài “xem người
ta làm thế nào để về giúp nước”.
- Bôn ba qua
nhiều nơi trên thế giới trong gần 10 năm đầu tiên sống ở nước ngoài, Người đã
làm đủ nghề để kiếm sống và để hoạt động cách mạng. Làm phụ bếp trên tàu thủy,
Người chia sẻ những nỗi vất vả, nguy hiểm của thủy thủ, khuyên nhủ họ dành tiền
giúp gia đình. Làm bồi bàn, người gói những miếng bánh mỳ còn nguyên vẹn khi
dọn các bàn ăn, dành để cho những người vô gia cư ở Luân Đôn sau khi hết buổi
làm. Người gần gũi và trở thành đồng chí với các nhà cách mạng châu Á, châu
Phi, châu Mỹ La tinh, trong Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa…
- Sự gắn bó
với Nhân dân trong những năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài và sau khi về
nước không chỉ thể hiện quan điểm xuyên suốt gần dân, gắn bó với dân của Hồ Chí
Minh, mà còn là một trong những nguyên nhân thành công trong sự nghiệp cách
mạng rất phong phú và không hiếm gian nan của Người. Hai lần bị bắt, bị giam
trong tù, Người chia sẻ những nỗi đau của bạn tù cùng cảnh ngộ và nhận được sự
giúp đỡ của mọi người. Trong những năm đấu tranh giành chính quyền, kháng chiến
chống Pháp, Người sống trong dân, được giúp đỡ, chở che, và dân luôn ở bên
Người, là nguồn lực, niềm tin của Người.
- Khi trở
thành lãnh tụ cao nhất của Đảng và Nhà nước, Người vẫn muốn sống cuộc sống bình
thường, ở trong ngôi nhà dành cho những người lao động. Dù bận giải quyết nhiều
công việc hệ trọng, Người vẫn không quên theo dõi cuộc sống hàng ngày của các
tầng lớp Nhân dân, phát hiện và thưởng hơn 5.000 huy hiệu Hồ Chí Minh cho những
người tốt, việc tốt. Trong 10 năm 1959-1969, với độ tuổi 70, Người đã có trên
700 lần đi xuống cơ sở thăm và tìm hiểu tình cảnh của Nhân dân…
- Sự quan tâm
đến con người, đến mọi tầng lớp Nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện tập
trung trong bản Di chúc, lời dặn và sự “tâm nguyện” của Người. Điều đầu
tiên Người muốn nói về con người. Trong những lời dặn lại, Người yêu cầu sự
quan tâm của Đảng và Nhà nước đến mọi tầng lớp Nhân dân, không quên một ai, kể
cả những người “lầm đường, lạc lối” hay những người là “hậu quả
của chế độ cũ để lại”. Người dặn Đảng, Nhà nước phải dựa và dân để xây
dựng đất nước, xây dựng xã hội mới, bởi đây là “cuộc chiến khổng lồ”, chỉ
có thể thực hiện được khi dựa vào dân.
Tấm gương suốt
đời gắn bó với Nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện một tư tưởng lớn, một
nhân cách lớn của một anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sỹ lỗi lạc của phong
trào cách mạng thế giới, một nhà văn hóa kiệt xuất của nhân loại.
3. Tư
tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh
3.1. Tư tưởng
Hồ Chí Minh về đoàn kết
- Trong các
tác phẩm của mình, Hồ Chí Minh có tới trên 405 bài nói và viết về đoàn
kết. Tư tưởng đoàn kết nổi bật là: “Đoàn kết làm ra sức mạnh”, “Đoàn
kết là sức mạnh của chúng ta”1; “Đoàn kết là thắng
lợi”; “ Đoàn kết là then chốt của thành công”2. “Đoàn
kết” là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt ”3. “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành
công, đại thành công”4.
- Theo Hồ Chí
Minh, đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng; phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương của của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước trong mọi giai đoạn cách mạng.
Hồ Chí
Minh khẳng định, đại đoàn kết toàn dân là mục đích phấn đấu của Đảng Cộng sản.
Ngày 3-3-1951, trong “Lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt
Nam”, Hồ Chí Minh thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn dân tộc: “Mục đích của
Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm 8 chữ là “ đoàn kết toàn dân, phụng sự
Tổ quốc”1.
Ngày
31-8-1963: nói chuyện với cán bộ tuyên huấn miền núi về cách mạng xã hội chủ
nghĩa, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trước cách mạng Tháng Tám và trong kháng
chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho đồng bào các dân tộc hiểu được
mấy việc. Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập.
Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích tuyên truyền huấn luyện là: “Một là
đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước
nhà"2.
- Theo Hồ Chí
Minh, đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân. Khái niệm dân, Nhân
dân, đồng bào là một tập hợp đông đảo quần chúng, là “mọi con dân nước
Việt”,“mỗi một người con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc, tín
ngưỡng, “già, trẻ, gái trai, giàu nghèo, quý tiện”.
Đại đoàn kết
dân tộc là tập hợp được mọi người dân vào cuộc đấu tranh chung. Hồ Chí Minh
nhiều lần nêu rõ: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của
Tổ quốc; ta còn đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có
lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ Nhân dân thì ta đoàn kết với họ”1.
- Đại đoàn kết
toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân
tộc. Hồ Chí Minh “Tha thiết kêu gọi tất cả những người thật thà yêu nước,
không phân biệt tầng lớp nào, tín ngưỡng nào, chính kiến nào và trước đây đứng
về phe nào; chúng ta hãy thật thà cộng tác vì dân vì nước”. Người căn
dặn: “Cần xoá bỏ hết thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp
đỡ nhau cùng tiến bộ để phục vụ Nhân dân”2.
- Đại đoàn kết
dân tộc dựa trên nền tảng của khối liên minh công nông, tập hợp trong Mặt
trận dân tộc thống nhất. Hồ Chí Minh viết “Lực lượng chủ yếu trong khối
đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt
trận dân tộc thống nhất”3. Mặt trận hoạt động theo
nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của
dân tộc với lợi ích của các tầng lớp Nhân dân làm cơ sở để củng cố và không
ngừng mở rộng.
- Đoàn kết
toàn dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật
sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Với phương châm “cầu đồng
tồn dị”4,
Người nêu rõ: “Chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ các tầng lớp Nhân dân.. .;
phải đoàn kết tốt các đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ trong Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ;
phải đoàn kết các dân tộc anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc.. .; phải đoàn kết
chặt chẽ đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống
hoà thuận, ấm no, xây dựng Tổ quốc”.
“Đoàn kết thật
sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết
thật sự nghĩa là vừa đoàn kết vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê
bình những cái sai của nhau, phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”1.
- Đảng Cộng
sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, vừa là lực lượng lãnh
đạo Mặt trận, có trách nhiệm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững
chắc.
Hồ Chí Minh
khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam
vừa là của giai cấp công nhân, vừa là của Nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Vì vậy, “đại đoàn kết dân tộc.. . thành vấn đề máu thịt của
Đảng”. Muốn quy tụ được cả dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam phải: “Vừa là
đạo đức, vừa là văn minh”; “Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự,
lương tâm của dân tộc và thời đại”; “Đảng phải thực sự đoàn kết nhất trí”;
“được Nhân dân thừa nhận”.
Người
viết: “Đảng không thể thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là
một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu
tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng
đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh
đạo”3.
“Trong quá
trình xây dựng, củng cố và phát triển Mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng ta luôn
luôn đấu tranh trên hai mặt trận chống khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, coi nhẹ
việc tranh thủ tất cả những lực lượng có thể tranh thủ được; đồng thời chống
khuynh hướng đoàn kết một chiều, đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức trong
nội bộ Mặt trận”2.
3.2. Tư tưởng
Hồ Chí Minh về đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
3.2.1. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng
- Trong thời
gian hoạt động ở Pháp, lần đầu tiên Hồ Chí Minh tham gia hoạt động trong một đảng
chính trị, đó là Đảng Xã hội Pháp. Qua đó dần dần Người hiểu về vai trò của
đảng chính trị không chỉ trong cuộc đấu tranh giai cấp mà cả trong đấu tranh
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Từ nhận thức đó, Người đã đồng tình
với bộ phận tiên tiến trong Đảng Xã hội Pháp, tham gia Quốc tế cộng sản, tách
khỏi Đảng Xã hội, thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Đến với chủ nghĩa V. I. Lênin,
Người nhận thức rõ hơn vai trò và những điều kiện tiền đề để đảng cộng sản ra
đời, nhất là trong điều kiện của một nước thuộc địa, giai cấp công nhân còn nhỏ
bé. Toàn bộ hoạt động cách mạng của Người từ 1924 đến năm 1930 là để chuẩn bị
cho sự ra đời của đảng cộng sản ở Việt Nam.
- Trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, công tác xây dựng Đảng chiếm một vị trí quan trọng. Người
luôn khẳng định, trong sự nghiệp đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc,
xây dựng và bảo vệ đất nước luôn luôn đòi hỏi một đảng trong sạch, vững mạnh,
có tầm cao trí tuệ, sức chiến đấu, gắn bó với Nhân dân, đủ năng lực lãnh đạo
Nhân dân trong mọi giai đoạn của cách mạng.
- Chủ tịch Hồ
Chí Minh có nhiều bài nói, bài viết về công tác xây dựng Đảng. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng Đảng rất phong phú, trong đó tập trung vào những điểm chủ yếu
sau:
Một
là, cách mạng cần có đảng. Cách mạng Việt Nam muốn thắng lợi
"trước hết phải có đảng cách mệnh"[18].
“Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt"[19].
"Chủ nghĩa" mà Người đề cập ở đây là chủ nghĩa Mác - Lênin.
Hai
là, xây dựng Đảng là phải thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức và sinh
hoạt Đảng. Vận dụng và phát triển những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng vô
sản kiểu mới do V.I.Lênin đề ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu các nguyên tắc chủ
yếu là: Nguyên tắc tập trung dân chủ; Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách; Nguyên tắc tự phê bình và phê bình; Kỷ luật nghiêm minh, tự giác.[20]
Ba
là, quan tâm xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài
để Đảng xứng đáng "là đạo đức, là văn minh".
Đây là sự phát
triển sáng tạo của Hồ Chí Minh học thuyết của V.I.Lênin về đảng kiểu mới của
giai cấp vô sản. Để đảng thực sự"là đạo đức, là văn minh" phải quan
tâm xây dựng đội ngũ đảng viên của Đảng có phẩm chất, tư cách và năng lực hoạt
động.
Bốn
là, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với dân.
- Đảng ta gắn
bó với dân vì "Đảng là con nòi của dân tộc"; mục đích của
Đảng là "Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc". Đảng vừa là
người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân. Mỗi đảng
viên phải bằng hành động thực tế của mình để có niềm tin yêu của Nhân dân, chứ
không phải "dán lên trán hai chữ cộng sản" là được dân tin, dân
yêu, dân kính, dân phục. Đảng thường xuyên lắng nghe ý kiến của Nhân dân, hiểu
rõ tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân. [21]; tổ chức
và vận động Nhân dân tham gia xây dựng Đảng.
Đảng phải nêu
cao tinh thần trách nhiệm đối với dân; phải “…không ngừng nâng cao đời
sống của Nhân dân”[22].
Năm là, Đảng
phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn.
Theo Hồ Chí
Minh, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn bản thân Đảng là yêu cầu của sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Trong điều kiện cách mạng chuyển sang
giai đoạn mới càng cần quan tâm đến công tác xây dựng Đảng; “việc cần phải làm
trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng..." [23].
3.2.2. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết trong công tác xây dựng Đảng
- Tư tưởng Hồ
Chí Minh về đoàn kết xây dựng Đảng bắt nguồn từ tư tưởng đại đoàn kết toàn dân
tộc; từ vai trò của Đảng trong đại đoàn kết toàn dân và các nguyên tắc xây dựng
Đảng. Từ quan niệm “Đoàn kết là then chốt của thành công”, Người xác
định phải xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất và Đảng Cộng sản phải là hạt
nhân của đại đoàn kết trong Mặt trận. Muốn làm được viết đó, Đảng phải thực sự
là “đạo đức, là văn minh”; phải đoàn kết trong Đảng, làm gương và
thúc đẩy đoàn kết toàn dân.
- Trong công
tác xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của đoàn
kết. Điều đó thể hiện rất rõ trong những lời dạy của Người về xây dựng Đảng,
lời dặn về việc làm đầu tiên trong Di chúc. Nội dung đoàn kết xây dựng Đảng
trong tư tưởng Hồ Chí Minh tập trung lại gồm các điểm sau:
+ Vấn đề đoàn
kết có tầm quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng. Những thắng lợi của
cách mạng Việt Nam
trước hết là do sự đoàn kết trong Đảng đem lại, bởi từ đoàn kết trong Đảng dẫn
tới đại đoàn kết toàn dân. Người viết: "Nhờ đoàn kết chặt chẽ" mà
"Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo Nhân dân ta hăng hái đấu tranh
tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác".
+ Đoàn kết là
là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân tộc ta. Khi đã trở thành
truyền thống thì mọi thế hệ cách mạng đều phải có trách nhiệm duy trì và
bảo vệ. Trong Di chúc, Người tâm huyết căn dặn: "Các đồng chí từ
Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như
giữ gìn con ngươi của mắt mình".
+ Để thực hiện
đoàn kết, thống nhất trong Đảng, Hồ Chí Minh yêu cầu phải thực hiện các nguyên
tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng, đặc biệt là dân chủ và phê bình, tự phê
bình. Người căn dặn: "Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên
và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình". Theo Người, đó là cách tốt
nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng.
+ Để đoàn kết,
không chỉ là thực hiện nguyên tắc, bản lĩnh, lý trí mà rất cần cả tình thương
yêu, sự đồng cảm và chia sẻ với nhau. Năm 1967, Người bổ sung vào trong bản Di
chúc cụm từ: "trong Đảng phải có tình đồng chí, thương yêu lẫn
nhau".
+ Trong điều
kiện đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh yếu tố đạo đức của Đảng,
chống lại các căn bệnh “quan liêu”, “tham nhũng, lãng phí”, “xa
dân”. Theo Người, đảng cầm quyền có nhiệm vụ to lớn là lãnh đạo Nhân
dân xây dựng xã hội mới, một “cuộc chiến đấu khổng lồ, xóa đi những gì cũ
kỹ hư hỏng, xây dựng những cái mới mẻ, tốt tươi”. Để hoàn thành sứ mạng đó,
Đảng ta phải "là đạo đức, là văn minh". Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ
Chí Minh căn dặn: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ
phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí
công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh
đạo, là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân".
3.3. Tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh về đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
3.3.1.Tấm
gương suốt đời phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, quan tâm lãnh đạo,
rèn luyện Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
- Trong quá
trình chuẩn bị các điều kiện thành lập Đảng, Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm đến
việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn rất quan tâm giáo dục, rèn luyện
đội ngũ cán bộ nòng cốt của Đảng về đạo đức, tư cách người cách mạng.
Trong 23 điểm
nêu trong cuốn Đường Kách mệnh, từ năm 1927 Hồ Chí Minh đã chỉ ra nhiều phẩm
chất đạo đức cần có đối với người cách mang, như: Cần kiệm; Hoà mà không
tư; Cả quyết sửa lỗi mình; Cẩn thận mà không nhút nhát; Nhẫn nại (chịu khó); Vị
công vong tư; Không hiếu danh, không kiêu ngạo; Nói thì phải làm; Hy sinh; Ít
lòng tham muốn về vật chất; Khoan thứ; Có lòng bày vẽ cho người; Trực mà không
táo bạo; Quyết đoán; Dũng cảm…
- Hồ Chí Minh
đã xác định đúng ngay từ đầu đường lối, chiến lược giải phóng dân tộc để Đảng
hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo Nhân dân đấu tranh lật đổ ách thống trị của thực
dân, phong kiến, xây dựng chính quyền dân chủ Nhân dân. Trong giai đoạn
1930-1945, Người đã kiên định thực hiện đường lối chiến lược đó, mang lại thắng
lợi của các mạng Tháng Tám, giành lại nền độc lập cho dân tộc. Sau khi thành
lập chính quyền dân chủ Nhân dân, với cương vị người đứng đầu, Người cùng với
Đảng chèo lái con thuyền cách mạng trong những điều kiện cực kỳ khó khăn, phức
tạp những năm 1945-1946, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng.
- Người đã xác
định đường lối "kháng chiến, kiến quốc"; "thực hiện đồng thời
hai nhiệm vụ chiến lược"; lãnh đạo Nhân dân ta đánh thắng chiến tranh
xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, xây dựng và bảo vệ miền Bắc, giải
phóng miền Nam, hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ Nhân dân trong
phạm vi cả nước; cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Trong cuộc
đấu tranh lâu dài, gian khổ đó, có lúc Đảng gặp sai lầm, Hồ Chí Minh đã nhận
trách nhiệm trước Đảng, trước dân. Trong thư gửi Nhân dân về kết quả cải cách ruộng
đất, Người thay mặt Đảng, Chính phủ xin lỗi Nhân dân, hứa sửa chữa, khắc
phục...
Trong cuộc đấu
tranh đó, Hồ Chí Minh tự đặt mình trong tập thể, trung thành với sự nghiệp cách
mạng của Đảng, của dân tộc, như Người viết “cả khi phải ẩn nấp nơi núi
non, ra vào nơi tù tội không bao giờ xa rời mục tiêu đó” và “nguyện đi cùng với
đồng bào, dù phải hy sinh tính mạng cũng không nề”…
3.3.2.Tấm
gương mẫu mực về phẩm chất, tư cách của một đảng viên, luôn luôn phấn đấu làm
tròn mọi nhiệm vụ được Đảng giao phó
Chủ tịch Hồ
Chí Minh là một tấm gương sáng, mẫu mực của một đảng viên suốt đời phấn
đấu, hy sinh cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh, nổi bật nhất ở các điểm sau:
Một
là, tấm gương tuân thủ các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng.
Là người thành
lập, rèn luyện và lãnh đạo cao nhất của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
luôn gương mẫu, thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt
Đảng, coi kỷ luật của Đảng là kỷ luật nghiêm minh và tự giác. Quan tâm đến việc
mở rộng và thực hành dân chủ trong Đảng, Người đã gương mẫu thực hiện dân chủ
đầy đủ và tích cực nhất trong sinh hoạt Đảng. Người xác định rõ trách nhiệm cá
nhân, nêu cao tinh thần “phụ trách” trước Đảng, trước dân tộc và Nhân dân.
Hai
là, tấm gương luôn luôn tự rèn luyện, trau dồi phẩm chất, năng lực, đạo
đức, lối sống, tác phong của một đảng viên.
- Đó là tấm
gương luôn luôn giữ vững và rèn luyện ý chí, quyết tâm thực hiện với tinh thần
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do!"; với trách nhiệm trung thành
với Đảng, với nước, hiếu với dân.[24]
- Tấm gương
khổ luyện, tiếp thu các giá trị văn hóa, tự hoàn thiện nhân cách, không ngừng
học tập để có tri thức, nâng cao tầm trí tuệ. Hồ Chí Minh đã được UNESCO tôn
vinh là anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa lớn, kiệt xuất của thế giới.
- Tấm gương
rèn luyện, giữ vững đạo đức cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư; lòng nhân ái
bao la, trong sáng, thủy chung; lối sống giản dị, thiết thực, hòa đồng, làm chủ
bản thân và luôn có khát vọng vươn tới những chuẩn mực của chân, thiện,
mỹ.
- Tấm gương
rèn luyện để có tác phong gần dân, hiểu dân, vì dân; gương mẫu trong cuộc sống
hàng ngày.
Tấm gương sáng
ngời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần quan trọng vào kết quả của quá trình
xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh, bởi vì như chính Người đã quan niệm: “Ở
phương Đông và ở Việt Nam ,
một tấm gương sống có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”.
III. HỌC TẬP
VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VỀ TRUNG THỰC, TRÁCH NHIỆM; GẮN BÓ
VỚI NHÂN DÂN; ĐOÀN KẾT, XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY
1.Về trung
thực, trách nhiệm
- Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về trung thực, trách nhiệm là yêu cầu
chung trong các giai đoạn phát triển của cách mạng. Đó là sự phát huy truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, sống đoàn kết gắn bó, có trách nhiệm với mình với
quê hương, đất nước. Trong lịch sử dân tộc, các quan niệm “đói cho sạch,
rách cho thơm” “thật thà, trung thực”, “không tham của người khác”, “cứu
người như cứu mình”... đã chi phối đời sống cộng dân tộc hàng ngàn năm, là
cơ sở nuôi dưỡng khối đoàn kết, tình nhân ái trong xã hội.
- Dưới ảnh
hưởng của truyền thống dân tộc và những quan niệm tốt dẹp của Nho giáo, Phật
giáo, người Việt Nam luôn có ý thức trách nhiệm với mình, với cộng đồng và xã
hội, Đầu tiên từ tu thân mới có thể tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Trách
nhiệm với quê hương, công đồng là của mỗi người, bởi “lũ lụt thì lút cả
làng", nên ai cũng phải chung tay khắc phục. Khi quốc gia“hữu
sự” thì “sất phu” cũng phải có trách nhiệm, “giặc đến nhà đàn bà
cũng đánh”...Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về trung thực và
trách nhiệm là giữ gìn, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc; là nhiệm vụ
của tất cả mọi người dân Việt Nam.
- Phát huy
truyền thống trung thực, trách nhiệm trong mỗi người Việt Nam hiện nay là để
góp phần xây dựng nền tảng đạo đức, tinh thần, văn hóa của xã hội mới, nhắm tới
mục tiêu xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”. Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng đã khẳng
định vị trí vai trò của việc xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội bên cạnh
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội mới. Đảng đã xác định phát triển
kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt và phát
triển văn hóa, xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội có vai trò quan trọng.
Duy trì và phát huy truyền thống đạo đức trung thực, trách nhiệm là yêu cầu của
việc xây dựng xã hội mới.
- Trong quá
trình xây dựng đất nước, chúng ta cần phải khắc phục sự tác động tiêu cực của
nền kinh tế sản xuất nhỏ, tiểu tư hữu, cơ sở để nảy sinh sự gian dối, làm hàng
giả ... ; trong lĩnh vực xã hội là sự thiếu trung thực, nói dối, nói một
đằng, làm một nẻo, cơ hội chủ nghĩa... Những tệ nạn xã hội này càng dễ phát
triển trong cơ chế thị trường chưa được hoàn thiện, khi quản lý nhà nước còn
lỏng lẻo trên nhiều lĩnh vực... Chủ nghĩa cá nhân theo đó có cơ hội phát triển.
Việc lợi dụng chức quyền, tham nhũng dễ nảy sịnh; tệ nói dối, làm hàng giả, ăn
cắp... “trở nên bình thường” và không còn cảm thấy xấu hổ... Nghị quyết
Trung ương 5 khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI đã xác định các nhiệm
vụ xây dựng văn hóa, con người Việt Nam, xây dựng nhân cách con người, trong đó
có phẩm chất trung thực và trách nhiệm.
- Yêu cầu của
việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về trung thực, trách
nhiệm là mỗi người Việt Nam cần xây dựng lối sống trung thực, trước hết là
trung thực với chính mình, với gia đình, người thân, để trung thực với bạn bè,
đồng chí, tổ chức và Nhân dân. Khắc phục cho được tệ nói dối trong tổ chức và
xã hội đã đến mức như thói quen; loại trừ cho được thói ích kỷ, tham lam, tranh
cướp, hôi của khi người khác gặp hoạn nạn; tệ làm hàng giả, bằng giả, gian
manh, lừa dối trên thương trường, trong quan hệ xã hội,... Đó là cơ sở để xây
dựng một xã hội dân chủ, văn minh, hạnh phúc, bởi không có xã hội hạnh phúc khi
không có các gia đình hạnh phúc, con người hạnh phúc. Mà một gia đình không thể
hạnh phúc khi mọi thành viên trong gia đình sống không trung thực...
- Trung thực
đi liền với trách nhiệm. Mỗi người trong xã hội đều có những trách nhiệm, với
những biểu hiện cụ thể nhất định. Người có cương vị càng lớn càng có trách
nhiệm cao. Đã trung thực với chính mình thì không bao giờ từ bỏ trách nhiệm của
mình. Trung thực và trách nhiệm góp phần để khắc phục những suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong xã hội ta hiện nay.
2. Về gắn
bó với Nhân dân
- Trách nhiệm
gắn bó với Nhân dân trước hết thuộc về cán bộ, đảng viên của Đảng, công chức
của Nhà nước, những người có nhiệm vụ phục vụ Nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã
khẳng định vai trò quyết định của quần chúng Nhân dân đối với thắng lợi của
cách mạng, khi Người thường nhắc câu “Dễ mười lần không dân cũng
chịu, Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Trách nhiệm gắn bó với Nhân dân
của cán bộ, đảng viên, công chức là để phục vụ Nhân dân, huy động sức mạnh
trong Nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Gắn bó với Nhân dân còn là đạo
lý của người cán bộ công chức, bởi “cơm chúng ta ăn, áo chúng ta
mặc” do Nhân dân cung cấp ; tiền lương chúng ta nhận, phương tiện
chúng ta làm việc là từ tiền thuế của dân. Thực hiện gắn bó với Nhân dân, bắt
đầu từ mực tiêu phục vụ Nhân dân là quay về những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần khắc phục sự suy thoái về tư
tưởng chính trị.
- Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về gắn bó với Nhân dân là phát huy
bài học kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam , lấy dân làm gốc. Hồ Chí Minh
từng dạy “Gốc có vững, cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền Nhân
dân”. Bài học có dân là có tất cả không chỉ đúng trong những năm “nếm
mật nằm gai”, dựa vào dân để xây dựng phong trào trong đấu tranh giành và
bảo vệ chính quyền, mà ngày nay càng chứng minh sự đúng đắn của nó. Trong xây
dựng kinh tế, không xuất phát từ lợi ích của dân, các chủ trương, chính sách
mới không được dân thực hiện, không đi vào thực tiễn, chỉ nằm trên bàn giấy;
các phong trào thi đua trở nên hình thức ; các cuộc vận động, huy động sự
đóng góp của dân bị phản ứng dưới nhiều hình thức, có khi lan rộng ra nhiều
nơi. Người cán bộ lãnh đạo hết lòng vì dân, ở đâu, khi nào cũng được dân kính
trọng, tôn vinh, như Bác Hồ và gần đây là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, được tôn
vinh là “Đại tướng của Nhân dân”...
- Gắn bó với
Nhân dân còn là yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất nước. Đổi mới mô
hình tăng trưởng, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững đang yêu cầu cao về
phát huy năng lực sáng tạo của quần chúng. Đó cũng là một trong những nguyên
nhân của quan điểm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo hiện nay. Gắn
bó với dân để phát huy những sáng kiến, kinh nghiệm trong dân, huy động các
nguồn lực phát triển trong các thành phần kinh tế, tạo động lực tăng trưởng mới
cho nền kinh tế nước ta hiện nay.
- Gắn bó với
Nhân dân là dựa vào dân để xây dựng Đảng. Đảng ta là con nòi của dân tộc, như
Hồ Chí Minh đã khẳng định. Đảng chỉ có một mục tiêu phấn đấu là vì nước, vì
dân, ngoài ra Đảng không có lợi ích nào khác. Trong lịch sử đấu tranh oanh
liệt, Đảng đã được Nhân dân yêu mến, giúp đỡ, chở che, “lòng dân yêu Đảng
như là yêu con", nhờ đó mà đạt được thắng lợi. Ngày nay, trong công
tác xây dựng Đảng, đặc biệt là chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, Đảng không thể thành
công nếu không dựa vào dân.
- Nội dung gắn
bó với Nhân dân hiện nay bao gồm nhiều mặt, từ xây dựng chủ trương, đường lối,
hoạch định chính sách đến tổ chức thực hiện. Có thể nêu một số điểm chính
là :
+ Luôn luôn
xuất phát từ lợi ích của đại đa số Nhân dân để xây dựng chính sách.
+ Gần dân,
luôn quan tâm đến đời sống thực tiễn của Nhân dân, để nắm vững dân tình, hiểu
rõ dân tâm, yêu cầu của dân sinh, dân trí... để cùng dân giải quyết.
+ Đảng và Nhà
nước có các biện pháp để thực hành dân chủ thực sự trong dân, để Nhân dân được
tham gia, được nói, được bàn, được quyết định theo đa số những vấn đề thiết
thân với dân ở cơ sở.
+ Tăng cường
hiệu quả quản lý nhà nước về KT-XH, VH, đảm bảo quyền lợi chính đáng của người
dân chân chính, hạn chế tác hại của lợi ích nhóm, chống tham nhũng có hiệu quả.
Xử lý kiên quyết, kịp thời những hành động tham ô, xâm hại đến lợi ích
chính đáng của Nhân dân, nhất là ở cơ sở hiện nay.
+ Tiếp tục
thực hiện tốt các quy định trong sinh hoạt đảng, như sinh hoạt hai chiều, lấy
phiếu tín nhiệm, điều tra dư luận xã hội, phục vụ cho công tác xây dựng Đảng
hiện nay.
3. Về đoàn
kết, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh
- Đảng ta có
truyền thống đoàn kết, vượt qua khó khăn, thử thách. Từ khủng bố trắng những
năm 1930-1931, Đảng đã vươn mình đứng dậy. Trong điều kiện “ngàn cân treo sợi
tóc” những năm 1945-1946, Đảng tự tuyên bố giải tán, trở thành “Hội
nghiên cứu chủ nghĩa Mác” để tập hợp sức mạnh toàn dân tộc và thực hiện “dễ bất
biến ứng vạn biến” để giữ vững nền độc lập còn non trẻ trước âm mưu xâm
lược của bên ngoài. Trong những năm chiến tranh, kẻ thù muốn dùng bom đạn để
biến chúng ta quay lại “thời kỳ đồ đá”, nhưng chúng ta đã đứng vững và chiến
thắng. Trong những năm 1989-1991, trong số 13 nước xã hội chủ nghĩa có 9 nước
đảng cộng sản, công nhân cầm quyền mất vai trò lãnh đạo, chế độ xã hội chủ
nghĩa sụp đổ, chúng ta đã vượt qua bao khó khăn, đổi mới để tiến lên. Nguyên
nhân đàu tiên và bài học chung của các thắng lợi là đoàn kết toàn Đảng, toàn
dân.
- Tuy nhiên,
trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, chúng ta cũng đang đứng trước
những thử thách lớn. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay đã trở
thành “vấn đề cấp bách”, cần tập trung giải quyết. Lợi ích nhóm đang
tác động lớn đến việc thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước và đang là nguy cơ trở thành cơ sở kinh tế của sự chia rẽ, thiếu
thống nhất trong nội bộ. Yêu cầu của cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc ngày càng trở nên trực tiếp và
thường xuyên. Đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh đang trở nên quan
trọng và cấp thiết hơn.
- Tăng cường
đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cần tập trung vào những nội dung,
công việc chính sau đây.
Một là, nâng
cao phẩm chất trí tuệ của Đảng, xây dựng, hoàn thiện đường lối đổi mới, đề ra
các chủ trương, giải pháp phù hợp cho giai đoạn phát triển mới
- Đảng ta là
cầm quyền. Năng lực cầm quyền của Đảng là sự tổng hoà trình độ, khả năng, bản
lĩnh chính trị để giải quyết các yêu cầu, nhiệm vụ do tình hình đất nước và thế
giới đặt ra, nhằm lãnh đạo toàn dân thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Muốn đề ra đường lối, chủ trương,
quyết sách phù hợp, Đảng phải nâng cao tầm trí tuệ, nắm chắc yêu cầu thực tiễn,
tình hình trong nước và quốc tế để tiếp tục hoàn thiện đường lối đổi mới, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại.
- Trong hoạch
định đường lối phải tránh bảo thủ, trì trệ, đồng thời phải tránh hấp tấp, vội
vàng, làm tốt công tác dự báo, chú ý đến những vấn đề mới nẩy sinh để kịp thời
nghiên cứu, tổng kết, bổ sung, phát triển cương lĩnh, đường lối, chủ trương của
Đảng. Việc xây dựng, hoàn thiện đường lối đổi mới phải quán triệt tư tưởng Hồ
Chí Minh “đảng phải có chủ nghĩa làm cốt”.Đảng phải kiên định nền tảng tư
tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm và kim chỉ nam
cho hành động, cơ sở quy tụ, xây dựng và phát huy sức mạnh đoàn kết trong Đảng,
đoàn kết toàn dân tộc.
Hai
là, quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, thực sự coi xây dựng Đảng là
nhiệm vụ then chốt ở tất cả các cấp, các ngành.
- Trong sự
nghiệp đổi mới đất nước, sự suy yếu, thoái hóa, biến chất của tổ chức đảng, làm
cho vai trò cầm quyền của Đảng bị suy giảm, có thể dẫn đến mất ổn định chính
trị - xã hội là một nguy cơ lớn. Chăm lo xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là
điều kiện tối cần thiết và là điều kiện tiên quyết để giữ vững ổn định chính
trị - xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tính chất then chốt của nhiệm vụ xây dựng Đảng thể hiện trong các điểm sau:
+ Đẩy mạnh và
nâng cao hiệu quả của nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, thu hút và phát
huy tiềm năng trí tuệ của toàn dân tộc. Trong thực hiện nhiệm vụ này, cần quán
triệt tư tưởng Hồ Chí Minh: Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng
lồ này cần phải “động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào
lực lượng vĩ đại của toàn dân”[25].
+ Cần đặc
biệt coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong điều kiện cơ chế kinh
tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
có đủ đức và tài, đầy tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước dân tộc, năng
động, dám nghĩ, dám làm... không chỉ là sự quan tâm, phát huy nhân tố con người
trong Đảng, mà còn để phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, vấn đề có ý nghĩa
quyết định đến thành bại của cả sự nghiệp cách mạng.
+ Kiên
quyết đấu tranh, khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các tiêu cực khác ở trong Đảng và
ngoài xã hội. Những tiêu cực trong xã hội đã xâm nhập vào cơ thể Đảng, vào bộ
máy Nhà nước, thách thức nghiêm trọng uy tín của Đảng, Nhà nước trong Nhân dân,
ảnh hưởng đến việc cầm quyền của Đảng, sự tồn vong của chế độ và con đường phát
triển của đất nước. Do vậy, toàn Đảng và mỗi tổ chức Đảng, mỗi cán bộ, đảng
viên cần có nhận thức đúng đắn tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh về nhiệm vụ xây
dựng Đảng, để tham gia đấu tranh khắc phục tình trạng trên, xây dựng Đảng ta
thực sự “là đạo đức, là văn minh”.
Ba
là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
- Phương thức
lãnh đạo của Đảng có vai trò quan trọng để đưa đường lối, chủ trương của Đảng
vào thực tiễn cuộc sống. Đó cũng chính là yêu cầu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề
ra trong trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”.
- Đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết và đặt trọng
tâm đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã
hội. Phát huy vai trò gám sát và phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam . Đảng tiếp
thu những ý kiến của các tổ chức, đoàn thể để bổ sung, phát triển, điều chỉnh
đường lối, chủ trương; để đổi mới phương thức lãnh đạo đối với hệ thống chính
trị và toàn xã hội.
Bốn
là, giải quyết tốt mối quan hệ với dân.
- Giải quyết
mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân hiện nay đang trở thành vấn
đề cấp thiết, là bài học lớn rút ra từ 30 năm đổi mới. Sự phản ứng, đôi khi gay
gắt, của Nhân dân ở một số nơi đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, chính quyền
các cấp, rõ nhất là cấp cơ sở; các “điểm nóng” liên quan đến nhiều
vấn đề, trong đó có vấn đề nhà, đất, quyền dân chủ, dân sinh… liên tiếp xuất
hiện ở nhiều địa phương đã phản ánh sự không bình thường trong mối quan hệ máu
thịt này.
- Trong
thời gian qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy
chế… để giải quyết mối quan hệ này, nhưng nói chung hiệu quả vẫn còn rất thấp.
Điều đó phản ánh sự cố gắng, quyết tâm chính trị nhưng vấn đề cơ bản hiện nay
là tổ chức thực hiện tích cực, kiên quyết, đồng bộ, có hiệu quả ở các cấp, các
ngành. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, của mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng
viên của Đảng, trước hết là các cấp ủy đảng.
- Để giải
quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng với dân, ở tất cả các cấp, các ngành phải quán
triệt các chỉ dẫn của Bác: Các quyết định, chủ trương được thông qua phải lấy
lợi ích của đa số Nhân dân làm mục đích; các chính sách được ban hành phải có
mục tiêu vì dân; cán bộ, đảng viên, công chức phải là công bộc của
dân, "vì Nhân dân phục vụ"; các biện pháp thực hiện phải
dựa vào sức dân và mang lợi ích cho dân... Điều quan trọng là mọi hoạt động của
tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể phải thực sự lấy dân làm gốc.
Năm
là, tổ chức tốt đại hội đảng bộ các cấp theo quy định của điều lệ Đảng.
Ngày 30-5-2014
Bộ Chính trị khóa X đã ban hành Chỉ thị 36-CT/TW về đại hội đảng bộ các cấp
tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Chỉ thị đã xác định
các yêu cầu và nội dung tiến hành đại hội đảng các cấp. Học tập và làm theo tư
tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng ta trong sạch vững mạnh,
“là đạo đức, là văn minh” phải trực tiếp phục vụ cho việc tổ chức tốt đại hội
các cấp theo quy định của Điều lệ Đảng.
- Trong Báo
cáo chính trị trình đại hội các cấp phải gắn kiểm điểm việc thực hiện nhiệm vụ
chính trị với kiểm điểm việc thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW, qua đó để phát huy vai
trò và gắn trực tiếp việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh với
nội dung tiến hành đại hội.
- Trong việc
chuẩn bị và tiến hành đại hội phải phát huy dân chủ, tăng cường đoàn kết, giữ
vững kỷ cương, coi trọng chất lượng. Phát huy cao nhất trí tuệ, trách nhiệm của
các cấp ủy, tổ chức đảng, của mỗi cán bộ, đảng viên trong công tác xây dựng
Đảng. Tổ chức thật tốt việc thảo luận những quan điểm, chủ trương, định hướng
lớn nêu trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XI và các văn kiện đại hội
đảng bộ. Báo cáo của mỗi cấp bộ đảng trước đại hội cần tập trung vào những vấn
đề quan trọng, cấp bách trước mắt và có ý nghĩa lâu dài của địa phương, đơn vị.
Tổ chức lấy ý kiến góp ý của các tầng lớp Nhân dân về các văn kiện dự thảo.
- Nâng cao
tinh thần phê bình và tự phê bình, đánh giá đúng mức ưu điểm, khuyết điểm, kết
quả lãnh đạo của cấp ủy và đảng bộ trong thực hiện nhiệm vụ chính trị; chỉ rõ
nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan, của những yếu kém, khuyết điểm và đề
ra những biện pháp khắc phục.
- Việc lựa
chọn, giới thiệu nhân sự bầu vào cấp ủy các cấp căn cứ vào tiêu chuẩn chung quy
định trong Chỉ thị 36-CT/TW của Bộ Chính trị. Trong điều kiện hiện nay, quán
triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về yêu cầu đối với cán bộ lãnh đạo, cần đặc biệt
nhấn mạnh tiêu chuẩn về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, hiệu
quả hoàn thành nhiệm vụ được giao; uy tín trong Đảng và trong xã hội; có
tư duy đổi mới, khả năng tiếp cận, nắm bắt, xử lý các vấn đề mới và vấn đề phức
tạp mới nảy sinh; khả năng đoàn kết, quy tụ; phong cách làm việc khoa học, dân
chủ, sâu sát, nói đi đôi với làm; dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm.
Đoàn kết xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh “là đạo đức, là văn minh” hiện nay không
chỉ là trách nhiệm của toàn Đảng, trước hết là của cấp ủy các cấp, từ Trung
ương đến cơ sở ; của mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng, mà còn là yêu cầu cảu
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và là sự mong đợi của các tầng lớp Nhân
dân.
(Theo
Tài liệu do Ban Tuyên giáo Trung ương
biên
soạn và phát hành).
[1]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.2, tr. 260.
[2]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, tr.430.
[3], 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, tr.108, 250.
[4]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, tr.699.
[5], 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, tr.198, 265.
[6]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, tr.240.
[7]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, tr.161.
[8]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, tr.161.
[9]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 8, tr. 236.
[10] Sđd, t8, tr 276.
[11] Sđd, t2, tr 262.
1 Sđd, t8, tr 61 - 62.
[12] Sđd, t4, tr 19 - 20.
[13] Sđd, t5, tr 409.
[14] (Sđd), tập 7, tr. 480.
[15] Sđd, tập 11, tr. 234
[16] Sđd, tập 9, tr. 288
[17] Sđd, tập 9, tr. 288-289
1 Sđd, t7, tr 392.
2 Sđd, t12, tr154.
3 Sđd, t8, tr 607.
4 Sđd, t10, tr 607.
1 Sđd, t6, tr 183.
2 Sđd, t11, tr 130.
1 Sđd, t7, tr 438.
2 Sđd, t7, tr 75 - 76.
3 Sđd, t10, tr 18.
4 Sđd, t9, tr 137.
1 Sđd, t9, tr 137.
3 Sđd, t3, tr 139
2 Sđd,
t9, tr 137
[18] ,2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1995, T.2, tr. 267 – 268.
[20] Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam do (Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng thông qua ngày 19 tháng 01 năm 2011) viết:
« Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập
trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện
các nguyên tắc : tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính
trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với Nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật ».
[21] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1995, T. 5, tr. 293.
[22] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2006, T. 12, tr. 498.
[23] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1996, T. 12, tr. 503.
[24] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1996, T. 12, tr. 501.
[25] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1996, T. 12, tr. 505.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét