GIỚI THIỆU MỘT SỐ TÁC PHẨM
CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
(Tài liệu sinh hoạt chi bộ, đoàn thể tại các cơ quan, đơn vị)
THEO TÀI LIỆU CỦA BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG
****************
Chuyên đề 1
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM ĐƯỜNG CÁCH MỆNH
I. TÁC PHẨM ĐƯỜNG CÁCH MỆNH (Trích)
Không
có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động... Chỉ có theo lý luận
cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền
phong1).(LÊNIN)
BỊ ÁP BỨC DÂN TỘC LIÊN HỢP HỘI
TUYÊN TRUYỀN BỘ ẤN HÀNH
TƯ CÁCH MỘT NGƯỜI CÁCH MỆNH
Tự mình phải:
Cần
kiệm.
Hoà
mà không tư.
Cả
quyết sửa lỗi mình.
Cẩn
thận mà không nhút nhát.
Hay
hỏi.
Nhẫn
nại (chịu khó).
Hay nghiên cứu, xem xét.
Vị
công vong tư.
Không
hiếu danh, không kiêu ngạo.
Nói
thì phải làm.
Giữ
chủ nghĩa cho vững.
Hy
sinh.
Ít
lòng tham muốn về vật chất.
Bí
mật.
Đối người phải:
Với
từng người thì khoan thứ.
Với
đoàn thể thì nghiêm.
Có
lòng bày vẽ cho người.
Trực
mà không táo bạo.
Hay
xem xét người.
Làm việc phải:
Xem
xét hoàn cảnh kỹ càng.
Quyết
đoán.
Dũng
cảm.
Phục
tùng đoàn thể.
VÌ SAO PHẢI VIẾT SÁCH NÀY?
1.
Phàm làm việc gì cũng vậy, bất kỳ lớn bé, bất kỳ khó dễ, nếu không ra sức thì
chắc không thành công. Tục ngữ Tàu có câu: "Sư tử bắt thỏ tất dùng hết
sức". Sư tử mạnh biết chừng nào, nếu bắt thỏ thì có khó gì, thế mà còn
phải dùng hết sức, huống gì làm việc to tát như việc giải phóng gông cùm nô lệ
cho đồng bào, cho nhân loại, nếu không hết sức thì làm sao được.
2.
Lại nhiều người thấy khó thì ngã lòng, không hiểu rằng "nước chảy đá
mòn" và "có công mài sắt có ngày nên kim". Việc gì khó cho mấy,
quyết tâm làm thì làm chắc được, ít người làm không nổi, nhiều người đồng tâm
hiệp lực mà làm thì phải nổi. Đời này làm chưa xong thì đời sau nối theo làm
thì phải xong.
3.
Muốn đồng tâm hiệp lực, muốn bền gan thì trước ai ai cũng phải hiểu rõ vì sao
mà phải làm, vì sao mà không làm không được, vì sao mà ai ai cũng phải gánh một
vai, vì sao phải làm ngay không nên người này ngồi chờ người khác. Có như thế
mục đích mới đồng; mục đích có đồng, chí mới đồng; chí có đồng, tâm mới đồng;
tâm đã đồng, lại phải biết cách làm thì làm mới chóng.
4.
Lý luận và lịch sử cách mệnh có nhiều sách lắm. Pháp nó sợ, nên cấm chúng ta
học, cấm chúng ta xem, cho nên đồng bào ta đối với hai chữ cách mệnh còn lờ mờ
lắm. Có người biên chép đề xướng ra một chút lại làm một cách rất hồ đồ; hoặc
xúi dân bạo động mà không bày cách tổ chức; hoặc làm cho dân quen tính ỷ lại,
mà quên tính tự cường.
5.
Mục đích sách này là để nói cho đồng bào ta biết rõ: (1) Vì sao chúng ta muốn
sống thì phải cách mệnh. (2) Vì sao cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người. (3) Đem lịch
sử cách mệnh các nước làm gương cho chúng ta soi. (4) Đem phong trào thế giới
nói cho đồng bào ta rõ. (5) Ai là bạn ta? Ai là thù ta? (6) Cách mệnh thì phải làm thế nào?
6. Sách này muốn nói cho vắn tắt, dễ
hiểu, dễ nhớ. Chắc có người sẽ chê rằng văn chương cụt quằn. Vâng! Đây nói việc
gì thì nói rất giản tiện, mau mắn, chắc chắn như 2 lần 2 là 4, không tô vẽ
trang hoàng gì cả.
Hơn sáu mươi năm nay, đế quốc chủ nghĩa
Pháp đạp trên đầu; hơn hai mươi triệu đồng bào hấp hối trong vòng tử địa. Phải
kêu to, làm chóng để cứu lấy giống nòi, thì giờ đâu rảnh mà vẽ vời trau chuốt!
Sách này chỉ ước ao sao đồng bào xem
rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà
làm cách mệnh.
Văn chương và hy vọng sách này chỉ ở
trong hai chữ: Cách mệnh! Cách mệnh!! Cách mệnh!!!
II.
BỐI CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI, CHỦ ĐỀ TƯ TƯỞNG, KẾT CẤU CỦA TÁC PHẨM
1.
Bối cảnh ra đời
Tác phẩm Đường
cách mệnh được chuẩn bị vào những năm 1925 – 1926 và được xuất bản vào năm
1927. Đây là thời kỳ hoạt động đầy sôi nổi và hiệu quả của Nguyễn Ái Quốc.
Tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng
Châu (Trung Quốc). Tại đây, Người tập hợp những người Việt Nam yêu nước, thành lập Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên. Công việc đầu tiên Nguyễn Ái Quốc làm là mở các lớp đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ. Người vừa là giảng viên chính, vừa là người tổ chức và hướng
dẫn lớp học. Thời gian từ năm 1925 đến năm 1927, Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức được
ba lớp đào tạo với tổng số 75 học viên. Các bài giảng của Người là tài liệu
chính cho học viên nghiên cứu, trao đổi.
Đầu năm 1927, các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc
tại các lớp học ở Quảng Châu được bộ tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc
bị áp bức ở Á Đông tập hợp lại và xuất bản thành sách với tên gọi Đường cách mệnh.
Sách có khổ 13 x 18cm, in trên giấy nến, kiểu chữ viết thường.
2.
Chủ đề tư tưởng
Tư tưởng chủ đạo xuyên suốt của tác phẩm là
giáo dục lý luận cách mạng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê nin, tổng kết thực tiễn phong
trào cách mạng trong nước và quốc tế, cuốn sách đã trình bày một cách hệ thống
những vấn đề cơ bản của lý luận cách mạng, làm cơ sở cho việc hoạch định đường
lối cách mạng Việt Nam.
3.
Kết cấu
Về mặt hình thức: Ngoài lời đề tựa, cuốn sách
được phân chia theo từng vấn đề, số trang cũng được đánh theo từng vấn đề,
không đánh liền cho cả cuốn sách. Trong tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc đã tập
trung đề cập 15 vấn đề: (1)Tư cách một người cách mệnh; (2) Vì sao phải viết
sách này? (3) Cách mệnh; (4) Lịch sử cách mệnh Mỹ; (5) Cách mệnh Pháp; (6) Lịch
sử cách mệnh Nga; (7) Quốc tế; (8) Phụ nữ quốc tế; (9) Công nhân quốc tế; (10)
Cộng sản thanh niên quốc tế; (11) Quốc tế giúp đỡ; (12) Quốc tế cứu tế đỏ; (13)
Cách tổ chức công hội; (14) Tổ chức dân cày; (15) Hợp tác xã.
Về kết
cấu nội dung: Tác phẩm được
triển khai theo ba nội dung cơ bản: Những vấn đề lý luận cách mạng chung; tổng
kết các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, rút ra bài học cho cách mạng Việt
Nam;
xác định phương pháp tổ chức và hoạt động cách mạng.
III.
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TÁC PHẨM
1.
Những vấn đề lý luận chung về cách mạng xã hội
Trên tờ bìa cuốn sách, ngay dưới tên sách là
câu trích trong tác phẩm Làm gì? của V.I.Lê nin, khẳng định vai trò và tầm quan
trọng của lý luận đối với sự phát triển của phong trào cách mạng nói chung:
“Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động…Chỉ có theo lý luận
cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền
phong” (Xem Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.2, tr.259)
Trong phần mở đầu cuốn sách, Nguyễn Ái Quốc
nêu rõ: “Mục đích sách này là để nói cho đồng bào ta biết rõ: (1) Vì sao chúng
ta muốn sống thì phải cách mệnh. (2) Vì sao cách mệnh là việc chung của cả dân
chúng chứ không phải việc một hai người. (3) Đem lịch sử cách mệnh các nước làm
gương cho chúng ta soi. (4) Đem phong trào thế giới nói cho đồng bào ta rõ. (5)
Ai là bạn ta? Ai là thù ta? (6) Cách mệnh thì phải làm thế nào?” (Xem Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2002, t.2, tr.261-262). Để rồi đạt đến mục đích cao nhất
là: “đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh dậy rồi thì đứng
lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh” (Xem
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.2, tr.262).
Đường cách mệnh xác định chuẩn mực đạo đức của
những người cách mạng, những người tham gia trực tiếp vào sự nghiệp gian khổ,
hy sinh, nhưng vẻ vang của dân tộc. Ở đây, Hồ Chí Minh đã bước đầu thể hiện một
quan niệm trở thành triết lý nhân sinh: Lý luận cách mạng hàm chứa các giá trị
nhân văn cao cả; cách mạng là sự nghiệp hào hùng, oanh liệt, vẻ vang, người
cách mạng phải có nhân cách, đạo đức và phẩm hạnh mới tiếp thu được tinh thần của
lý luận, mới làm tròn nhiệm vụ cách mạng khó khăn.
Nguyễn Ái Quốc nêu ra 23 tiêu chuẩn, quy tụ
trong ba mối quan hệ cơ bản của một con người.
(1) Đối
với mình, có 14 tiêu chuẩn: Cần kiệm. Hòa mà không tư. Cả quyết sửa lỗi
mình. Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Hay nghiên cứu,
xem xét. Vị công vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm.
Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lòng tham muốn về vật chất. Bí mật.
(2)
Đối với người, có 5 chuẩn mực:
Với từng người thì khoan thứ. Với Đoàn thể thì nghiêm. Có lòng bày vẽ cho người.
Trực mà không táo bạo. Hay xem xét người.
(3)
Đối với công việc, có 4 tiêu chuẩn: Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán. Dũng cảm. Phục tùng đoàn thể.
Những phẩm chất này làm thành các giá trị về
nhân cách con người, nhân cách làm người – một mẫu người mới đang định hình và
xuất hiện trong phong trào cách mạng của dân tộc.
Tác phẩm giải quyết các vấn đề về nguyên nhân
dẫn đến cách mạng, các loại cách mạng và vai trò của nó trong lịch sử.
Về Đảng chính trị, Đường cách mệnh xem đảng cách mệnh, đảng cộng sản là nhân tốc quyết
định sự thành công của cách mệnh. Người viết: “Cách mệnh trước hết phải có cái
gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân
chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng
có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy.
Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai
cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có
trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam.
“Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều,
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê
nin” (Xem Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.2, tr.267).
Luận điểm này của Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định
một vấn đề có tính nguyên tắc, đặt nền móng lâu dài cho công tác xây dựng đảng
về tư tưởng – lý luận.
Đường
cách mệnh chỉ rõ cách mạng
là sự nghiệp của toàn dân tộc chứ không phải của một vài cá nhân. Lần đầu tiên
trong tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc đã xác định khái niệm lực lượng cách mạng một
cách đúng đắn, khoa học dựa vào tiêu chí “bị áp bức”: “ai mà bị áp bức càng nặng
thì lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết” (Xem Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.2,
tr.268). Theo tiêu chí đó, Người xếp “công nông là gốc cách mệnh” (Xem Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002, t.2, tr.266), không chỉ họ chiếm số đông trong dân chúng
mà cơ bản là họ bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất, tàn bạo nhất. Nguyễn Ái Quốc
coi “học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ…là bầu bạn cách mệnh của công nông” (Xem Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002, t.2, tr.266). Những chỉ dẫn cơ bản này là nền tảng lý luận
hình thành khối liên minh công nông và Mặt trận dân tộc thống nhất trong cách mạng
giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Đường
cách mệnh coi đoàn kết như một
nhân tố quan trọng bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Theo Người, “An Nam dân tộc
cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp là
giai cấp cách mệnh cũng dễ. Và nếu công nông Pháp cách mệnh thành công, thì dân
tộc An Nam sẽ được tự do” (Xem Hồ Chí
Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.2, tr.266). Mối
quan hệ đó chính là hai cánh của con chim cách mạng bay cao và bay xa.
2.
Tổng kết kinh nghiệm các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới và rút ra bài học
cho cách mạng Việt Nam
Đường
cách mệnh giới thiệu tính chất,
nội dung các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, Cách mạng Mỹ 1776, Cách mạng
Pháp 1789, lịch sử cách mạng Nga 1917. Từ sự phân tích tính chất, nội dung các
cuộc cách mạng Mỹ, Pháp, Nguyễn Ái Quốc đi đến kết luận mang tính so sánh với
tiến trình vận động lịch sử: Mặc dầu có ý nghĩa to lớn trong tiến trình phát
triển của nhân loại, nhưng các cuộc cách mạng này vẫn là những cuộc cách mạng
“không đến nơi”, không triệt để. Trong quan niệm của Người, chỉ có cuộc Cách mạng
Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng triệt để.
Nguyễn Ái Quốc viết: “Trong thế giới bây giờ
chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân
chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình
đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga
đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước và
dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và
tư bản trên thế giới” (Xem Hồ Chí Minh
toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.2, tr.280).
Việc phân tích các cuộc cách mạng điển hình
trên thế giới, đối chiếu với nhu cầu khách quan của cách mạng Việt Nam là độc lập
cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra bài học lớn:
Dân tộc ta phải đi theo con đường cách mạng vô sản, con đường độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội.
3.
Phương pháp tổ chức hoạt động cách mạng
Đường cách mệnh giới thiệu công lao to lớn của
Quốc tế I, Quốc tế II; phê phán đường lối phi mác xít của những người cơ hội
trong Quốc tế II. Nguyễn Ái Quốc vạch rõ cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của
phong trào cách mạng thế giới và để bảo đảm sự thắng lợi, cách mạng nước ta phải
dựa vào Quốc tế III, tức Quốc tế Cộng sản.
Học tập kinh nghiệm của thế giới, tác phẩm hướng
dẫn cách thức tổ chức, vận động quần chúng: Cách mạng Việt Nam phải tổ chức ra
các đoàn thể quần chúng như công hội, nông hội, phụ nữ, thanh niên…theo đường lối
của Cách mạng Tháng Mười Nga, của Quốc tế Cộng sản.
Một điều đặc biệt là trong tác phẩm Đường
cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã trình bày hoàn chỉnh lý luận về hợp tác xã như một
hình thức tổ chức kinh tế - xã hội, có vai trò vận động quần chúng nông dân đứng
lên làm cách mạng.
IV.
GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TÁC PHẨM
1.
Ý nghĩa lịch sử
- Tác phẩm Đường cách mệnh đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ
nghĩa Mác – Lê nin vào Việt Nam những năm 20 của thế kỷ XX, trong việc kết hợp
phong trào yêu nước với chủ nghĩa Mác – Lê nin tạo lập các tiền đề tư tưởng lý
luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào mùa xuân năm 1930.
- Góp phần khắc phục sự khủng hoảng về đường
lối cứu nước của dân tộc; khẳng định rõ xu hướng lựa chọn con đường cách mạng
Việt Nam, vừa thỏa mãn được các nhu cầu khách quan của đất nước, vừa phù hợp với
xu thế của thời đại sau Cách mạng Tháng Mười Nga.
- Trở thành cuốn sách gối đầu giường của nhiều
thế hệ cách mạng Việt Nam; tài liệu mẫu mực trong việc học tập, vận dụng chủ
nghĩa Mác – Lê nin vào giải quyết các vấn đề thực tiễn, nhất là trong những
giai đoạn lịch sử có sự thay đổi mang tính chất bước ngoặt.
- Nhiều vấn đề có liên quan đến con đương
cách mạng, xây dựng, tổ chức, đoàn kết các lực lượng cách mạng, về vai trò lãnh
đạo của Đảng, công tác xây dựng Đảng vững mạnh, nhất là các chuẩn mực đạo đức của
người cộng sản vẫn giữ nguyên tính thời sự trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện
nay.
2.
Giá trị lý luận
- Thông qua tác phẩm Đường cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc – người cộng sản Việt Nam đầu tiên
– đã trình bày những điều cốt lõi của học thuyết cách mạng Mác – Lê nin, phù hợp
với một nước thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu. Điều này khẳng định
tính phổ biến của các nguyên lý của học thuyết Mác – Lê nin trên phạm vi toàn cầu,
không chỉ ở châu Âu mà còn ở phương Đông, châu Á.
- Tác phẩm đánh dấu một
giai đoạn mới trong nhận thức lý luận của Nguyễn Ái Quốc, góp phần phát triển
sáng tạo nhiều vấn đề trong lý luận cách mạng Mác – Lê nin.
3.
Giá trị thực tiễn và tính thời sự của tác phẩm đối với công tác xây dựng Đảng
hiện nay
Tác phẩm truyền tải nhiệt huyết cách mạng của
chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh thần yêu nước, triệt để cách mạng của Người cho các
thế hệ cán bộ, đảng viên ngày nay.
Nghiên cứu thật kỹ lưỡng tác phẩm sẽ tiếp tục làm sáng tỏ phương pháp
cách mạng nói chung và phương pháp công tác tư tưởng nói riêng. Đó là, trước hết
phải làm tốt công tác giáo dục lý luận cách mạng, sau đó phải tuyên truyền, vận
động để biến thành hành động cách mạng.
Tác phẩm củng cố, vun đắp ý chí cách mạng,
kiên trì đường lối cách mạng Việt Nam.
Tiếp tục khẳng định tư cách người cách mệnh;
có lý tưởng, có đạo đức trong sáng , góp phần phòng, chống suy thoái tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, thực hiện thắng
lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng và các Nghị quyết
Trung ương, đặc biệt Nghị quyết Trung ương 4 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay”.
*******************************
Chuyên đề 2
GIỚI THIỆU
TÁC PHẨM
NÂNG CAO ĐẠO
ĐỨC CÁCH MẠNG, QUÉT SẠCH CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN
I.
TÁC PHẨM NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG, QUÉT SẠCH CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN
Nhân dân ta thường nói: đảng viên đi trước,
làng nước theo sau. Đó là một lời khen chân thành đối với đảng viên và cán bộ
ta.
Trải qua 39 năm đấu tranh oanh liệt, làm cách
mạng tháng 8 thành công, kháng chiến lần thứ nhất thắng lợi và ngày nay vừa chiến
đấu chống Mỹ, cứu nước, vừa xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, nhân dân ta tin tưởng rằng: Đảng ta lãnh đạo rất sáng
suốt, đã đưa dân tộc ta tiến lên không ngừng từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Trong lịch sử đấu tranh của Đảng ta và trong mọi hoạt động hàng ngày, nhất
là trên mặt trận chiến đấu và sản xuất, rất nhiều cán bộ, Đảng viên ta tỏ ra
anh dũng, gương mẫu, gian khổ đi trước, hưởng thụ đi sau và đã làm nên những
thành tích rất vẻ vang.
Đảng ta đã đào tạo một thế hệ thanh niên cách
mạng , gái cũng như trai, rất hăng hái, dũng cảm trong mọi công tác.
Đó là những bông hoa tươi thắm của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhân dân ta và Đảng
ta rất tự hào có những người con xứng đáng như thế.
Song bên cạnh những đồng chí tốt ấy, còn có một
số ít cán bộ , đảng viên mà đạo đức, phẩm chất còn thấp kém.
Họ mang nặng
chủ nghĩa cá nhân, việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết.
Họ không lo “ mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”.
Do cá
nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí,
xa hoa. Họ tham danh trục lợi , thích địa vị quyền hành. Họ tự cao, tự đại, coi
thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần
chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố
gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ.
Cũng do cá
nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh
thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước,
làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân.
Tóm lại, do cá nhân chủ nghĩa mà phạm nhiều sai lầm.
Để làm cho tất cả cán bộ, đảng viên xứng đáng
là chiến sĩ cách mạng, Đảng ta phải ra sức tăng cường giáo dục toàn Đảng về lý
tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo
đức của người đảng viên. Phải thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh
trong Đảng. Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ,
đảng viên. Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc. Công tác kiểm tra của Đảng
phải chặt chẽ.
Mỗi cán bộ , đảng viên phải đặt lợi ích của
cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết. Phải kiên quyết quét sách chủ nghĩa cá nhân , nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập
thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật. Phải sâu sát thực tế, gần
gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân
dân. Phải cố gắng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt mọi
nhiệm vụ.
Đó là một cách thiết thực để kỷ niệm ngày
thành lập Đảng ta, Đảng vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân anh hùng của
chúng ta. Đó cũng là một việc làm cần thiết để giúp tất cả cán bộ, đảng viên đều
tiến bộ, góp sức nhiều hơn nữa cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước toàn thắng và
xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công.
II.
BỐI CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM
1.
Tình hình cách mạng Việt Nam
vào thời điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm
Hồ Chí Minh là lãnh tụ cách mạng quan tâm nhiều
nhất đến vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Từ khi Đảng
ta trở thành Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh càng quan tâm nhiều hơn đến vấn
đề này. Trong di sản mà Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân có nhiều tác phẩm,
bài nói, bài viết chỉ bàn về đạo đức cách mạng và mặt đối lập với đạo đức cách
mạng là chủ nghĩa cá nhân (Chủ nghĩa cá nhân (1948); Cần, kiệm, liêm, chính
(1949); Đạo đức công dân (tháng 1- 1955); Đạo đức cách mạng (tháng 6 – 1955); Đạo
đức cách mạng (1958)…). Những tác phẩm, bài nói, bài viết bàn về nâng cao đạo đức
cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân của Hồ Chí Minh được viết và cho công bố vào
những thời điểm rất có ý nghĩa. Đặc biệt, nhân dịp kỷ niệm 39 năm ngày thành lập
Đảng, ngày 3-2-1969, báo Nhân dân đăng bài “Nâng
cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” của Hồ Chí Minh.
Vào đầu năm 1969, cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang diễn ra quyết liệt. Đế quốc
Mỹ đã thất bại trong thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, buộc phải ngừng
ném bom miền Bắc và chấp nhận đàm phán bốn bên về lập lại hòa bình ở Việt Nam tại
Pa ri, nhưng chúng vẫn ngoan cố thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”
ở miền Nam. Miền Bắc, trong thời gian đó cần tranh thủ điều kiện tạm thời có
hòa bình, thực hiện hàn gắn vết thương chiến tranh, đẩy mạnh sản xuất, tăng cường
chi viện cho tiền tuyến. Trong bối cảnh ấy, cần thiết phải tăng cường sự đoàn kết
nhất trí trong Đảng, củng cố mặt trận tư tưởng, ngăn chặn xu hướng xả hơi sau
nhiều năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.
Đầu năm 1969, nhân dịp toàn Đảng, toàn dân ta
chuẩn bị kỷ niệm 39 năm ngày thành lập Đảng, lần kỷ niệm đầu tiên sau mấy năm
chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên miền Bắc, Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân là
nhiệm vụ rất quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, để Đảng ta
hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Đây là bài viết sau cùng của Hồ Chí Minh về đạo
đức cách mạng. Dù rất ngắn gọn, nhưng những luận điểm được Người đề cập trong
tác phẩm này mang tính tổng kết thực tiễn; bổ sung, phát triển tư tưởng, lý luận
về xây dựng Đảng nói chung, về đạo đức nói riêng.
2.
Sự ra đời của tác phẩm
Nhận rõ tính cấp thiết của công tác tư tưởng
chính trị ở thời điểm có ý nghĩa bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, ngày 25-1-1969, Bác cho mời đồng chí phụ trách Tuyên huấn của Đảng đến
giao nhiệm vụ chuẩn bị bài viết nhân dịp kỷ niệm 39 năm ngày thành lập Đảng.
Bác nói rõ mục đích, nội dung và nhấn mạnh yêu cầu: ngắn, gọn, tập trung vào chủ
đề “Quét
sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng” (và đó cũng là tên bài
báo).
Ngày 28-1-1969, Bác sửa lại bài viết, cho
đánh máy thành nhiều bản gửi đến các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị đề nghị tham
gia ý kiến. Dưới hình thức tham gia một bài viết trong dịp kỷ niệm ngày thành lập
Đảng, mỗi đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị có trong tay tài liệu mà ngay câu đầu
là “Quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao
đạo đức cách mạng”.
Chiều 30 tháng Giêng, Bác cùng Văn phòng đọc
lại ý kiến đóng góp của từng đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, bổ sung vào bản thảo,
cho đưa đi đánh máy. Bác dặn đánh máy xong gửi lại để Bác sửa lần cuối.
Ba giờ rưỡi chiều ngày 1 tháng 2, đồng chí phụ
trách Tuyên huấn sang gặp Bác, xin bản thảo chính thức để kịp gửi đăng báo.
Cầm bản thảo cuối cùng
do Bác tự tay đánh máy, đối chiếu với bản thảo đầu do Ban Tuyên huấn chuẩn bị ,
đồng chí cán bộ Tuyên huấn gượng cười thưa với Bác:
- Bác chữa hết cả rồi còn đâu nữa ạ!
Bác mỉm cười độ lượng:
- Bác chữa nhưng vẫn còn giữ nguyên ý chính của
bài là “Quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng”. Cái đó là
quan trọng nhất.
Đồng chí phụ trách tuyên huấn xin phép Bác
cho sửa lại đầu đề bài báo, đưa vế “Nâng cao đạo đức cách mạng” lên trước vế
“Quét sạch chủ nghĩa cá nhân” với lý do là cán bộ, đảng viên ta nói chung là tốt,
ưu điểm là cơ bản.
Bác quay sang hỏi ý kiến đồng chí Văn phòng:
- Ý kiến chú thế nào?
Đồng chí cán bộ Văn
phòng nhất trí với ý kiến đồng chí phụ trách Tuyên huấn.
Bác Hồ im lặng suy nghĩ, cuối cùng Bác nói:
- Ý kiến của các chủ, Bác thấy cũng có lý.
Nhưng Bác còn phân vân điều này, ví như gia đình các chú tiết kiệm mua sắm được
bộ bàn ghế, giường tủ mới, vậy trước khi kê vào phòng, các chú có quét dọn nhà
của sạch sẽ hay cứ để rác rưởi bẩn thỉu mà khiêng bàn, ghế, giường tủ vào?
Mọi người còn đang lúng túng chưa biết trả lời
thế nào thì Bác đã nói:
- Vì cả hai chú đã đề nghị, là đa số, Bác đồng
ý nhượng bộ, đổi lại tên đầu bài: “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân”. Nhưng ở trong bài thì dứt khoát phải để nguyên ý của Bác: “Quét
sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng”.
Lời dạy đó của Bác đến hôm nay chúng ta càng
thấy vô cùng sâu sắc. Sau hơn 40 năm, lời dạy của Người vẫn là phương hướng phấn
đấu đối với toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta hiện nay để “giữ gìn Đảng ta thật
trong sạch” (Xem Hồ Chí Minh toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.12, tr.510), để “xứng đáng là người
lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân” (Xem Hồ
Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.12, tr.510).
III.
NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA TÁC PHẨM
Với bài viết chưa đến 700 chữ, Hồ Chí Minh tập
trung nêu bật ba nội dung chủ yếu:
1. Những thành tựu cách
mạng và tấm gương đạo đức trong cán bộ, đảng viên
Bài viết mở đầu bằng hai câu mang tính khẳng
định: “Nhân dân ta thường nói: Đảng viên đi trước, làng nước theo sau. Đó là
câu khen chân thành đối với đảng viên và cán bộ ta”.
“Đảng viên đi trước, làng nước theo sau” là
cách nói dân gian thể hiện tình cảm của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên phỏng
theo luận điểm “Tiên thiên hạ ưu, hậu thiên hạ lạc”. Đó cũng là mong muốn mà Hồ
Chí Minh thường căn dặn cán bộ, đảng viên. Trong tác phẩm, bài nói, bài viết của
mình, Hồ Chí Minh nhiều lần đề cập đến luận điểm trên. Năm 1947, trong thư gửi
các bạn thanh niên, Hồ Chí Minh đòi hỏi thanh niên, nhất là cán bộ đoàn, phải
thực hiện cho được: “Các sự hy sinh khó nhọc thì mình làm trước người ta, còn sự
sung sướng thanh nhàn thì mình nhường người ta hưởng trước (Tiên thiên hạ ưu, hậu
thiên hạ lạc)” (Xem Hồ Chí Minh toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.185). Năm 1955, trong bài Đạo
đức cách mạng, Hồ Chí Minh cho rằng đại đa số chiến sĩ cách mạng là những người
có đạo đức, cả đời hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, sinh hoạt ngày thường
thì gương mẫu, gian khổ, chất phác, nghĩa là: “Lo, thì trước thiên hạ; hưởng,
thì sau thiên hạ” (Xem Hồ Chí Minh toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.7, tr.568). Tháng 3 năm 1961 trong
bài Xây dựng những con người chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh chỉ rõ, mỗi người phải
ra sức góp công, góp sức để xây dựng chủ nghĩa xã hội, chớ nên “ăn cỗ đi trước,
lội nước theo sau” mà phải “chí công, vô tư” và phải có tinh thần “lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Hồ Chí Minh khẳng định: “Đó là đạo đức của người cộng
sản” (Xem Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.10, tr.311).Tiếp đó, tháng 12 năm 1961,
nói chuyện với những cán bộ, đảng viên hoạt động lâu năm ở Nghệ An, Hồ Chí Minh
chỉ rõ, ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích nào khác. Sự khổ sở,
khó khăn thì đảng viên ta đi trước, khi sướng thì đảng viên ta hưởng sau. Chắc
các đồng chí đều hiểu câu: “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc
nhi lạc” chứ không phải là “Tiên thiên hạ chi lạc nhi lạc, hậu thiên hạ chi ưu
nhi ưu”.
Trong tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng,
quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh đã nêu lên những thắng lợi to lớn của
cách mạng Việt Nam mà một trong những nguyên nhân tạo nên thắng lợi đó chính là
sự gương mẫu, tận tụy của cán bộ, đảng viên, đi đầu lãnh đạo toàn dân thực hiện:
Một là, “làm Cách mạng Tháng Tám thành công”.
Về ý nghĩa thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám,
Bác Hồ viết: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự
hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự
hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc
địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã
nắm chính quyền toàn quốc” (Xem Hồ Chí
Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.150).
Hai là, “kháng chiến lần thứ nhất thắng lợi”,
tức là thắng lợi của cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp xâm lượn
(1945 – 1954).
Theo Hồ Chí Minh, với chiến thắng Điện Biên
Phủ năm 1954 “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng
một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời
cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa
trên thế giới” (Xem Hồ Chí Minh toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.10, tr.12).
Ba là, “Ngày nay vừa chiến đấu chống Mỹ, cứu
nước, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc”
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Hai nhiệm vụ ấy đều nhằm
một mục tiêu chung là: củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên nền
tảng độc lập và dân chủ”. Thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ ấy là cuộc đấu tranh
gay go, kịch liệt, lâu dài nhưng Hồ Chí Minh tin tưởng sâu sắc rằng đế quốc Mỹ
nhất định phải cút khỏi nước ta, nước Việt Nam nhất định sẽ thống nhất và đi
lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh khẳng định, nhân tố quyết định tạo
nên những thắng lợi to lớn đó là sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam;
là sự hy sinh, phấn đấu của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Từ giữa những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí
Minh đã đặt vấn đề: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì?”, Người trả lời: “Trước
hết phải có đảng cách mệnh” (Xem Hồ Chí
Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.2, tr.267). Trong
tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét
sạch chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng ta lãnh đạo rất sáng suốt
đã đưa dân tộc ta tiến lên không ngừng từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”.
Theo Hồ Chí Minh, những thắng lợi đó đã được tạo nên bởi nhiều cán bộ, đảng
viên đã lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Người viết: “Trong lịch sử đấu
tranh của Đảng và trong mọi hoạt động hằng ngày, nhất là trên mặt trận chiến đấu
và sản xuất, rất nhiều cán bộ, đảng viên ta tỏ ra anh dũng, gương mẫu, gian khổ
đi trước, hưởng thụ đi sau và đã làm nên những thành tích rất vẻ vang
Trong Nâng
cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh không kể
tên những cán bộ, đảng viên “gian khổ đi trước, hưởng thụ đi sau”. Tuy nhiên,
nhiều lần Hồ Chí Minh đã nói trong Đảng ta có cả trăm nghìn cán bộ, đảng viên
đã đặt lợi ích giai cấp, dân tộc lên trên hết, trước hết, đã sẵn sàng hy sinh hết
thảy, hy sinh cả tính mạng mình cho Đảng, giai cấp, dân tộc, đã đem xương máu
mình vun tưới cho cây cách mạng khai hoa, kết quả tốt đẹp như ngày nay. Những
người được Hồ Chí Minh nhắc đến nhiều lần là Trần Phú, Ngô Gia Tự, Lê Hồng
Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Văn Thụ…Năm 1960, nhân dịp kỷ
niệm 30 năm ngày thành lập Đảng, Hồ Chí Minh nêu dẫn chứng điển hình về sự phấn
đấu hy sinh của những đảng viên cấp cao: “Trong 31 đồng chí hiện nay là Ủy viên
Trung ương ta trước ngày khởi nghĩa đã được đế quốc Pháp tặng cho 222 năm tù
đày. Đó là không kể những án tử hình vắng mặt và những cuộc vượt ngục trước khi
hết hạn ở tù” (Xem Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002, t.10, tr.3).
Hồ Chí Minh nhiều lần chỉ rõ: tuổi trẻ là mùa
xuân của đất nước, thanh niên là đội hậu bị của Đảng, bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau là một vấn đề chiến lược. Mùa xuân năm 1952, Hồ Chí Minh gửi thư
chúc tết gần 100 thanh niên nam, nữ kiểu mẫu trên tất cả các lĩnh vực: bộ đội,
dân công, công nhân, nông dân, sinh viên, trí thức…, trong đó người trẻ nhất 16
tuổi, người lớn nhất 30 tuổi (Xem Hồ Chí
Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.418 - 419).
Trong tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng,
quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Người viết: “Đảng ta đã đào tạo một thế hệ
thanh niên cách mạng, gái cũng như trai, rất hăng hái, dũng cảm trong mọi công
tác”. Những thanh niên gái, trai cách mạng được Hồ Chí Minh thường nhắc đến là
Lý Tự Trọng, Nguyễn Văn Trỗi, Trần Thị Lý… Người tôn vinh “Đó là những bông hoa
tươi thắm của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhân dân ta và Đảng ta rất tự hào
có những con người xứng đáng như thế”.
2. Những tật bệnh bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân, trong
cán bộ, đảng viên
Mở đầu phần viết về thực trạng chủ nghĩa cá
nhân, Hồ Chí Minh cho rằng, “bên cạnh những đồng chí tốt ấy, còn có một số ít
cán bộ, đảng viên mà đạo đức, phẩm chất còn thấp kém”, “mang nặng chủ nghĩa cá
nhân”.
Trước đó, trong các tác phẩm, bài nói, bài viết
của mình, Hồ Chí Minh thường sử dụng hai cụm từ có nội hàm cơ bản giống nhau
là: chủ nghĩa cá nhân và cá nhân chủ nghĩa. Tùy theo điều kiện, hoàn cảnh, đối
tượng mà Người trình bày đặc trưng, bản chất và những biểu hiện chính của chủ
nghĩa cá nhân. Khi trình bày quan niệm của mình về chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí
Minh xuất phát từ thái độ, mối quan hệ giữa cá nhân với Tổ quốc, với chế độ, với
nhân dân, với công việc, với các truyền thống tốt đẹp của dân tộc và chuẩn mực
đạo đức cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân là trái với đạo đức cách
mạng, cái gì trái với đạo đức cách mạng đều là chủ nghĩa cá nhân. Trong mối
quan hệ với chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng: “Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ
địch hung ác của chủ nghĩa xã hội” (Xem Hồ
Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.9, tr.292).
Hồ Chí Minh thường căn dặn cách mạng và những người cách mạng phải chiến
thắng ba kẻ thù:
- Chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc;
- Thói quen và truyền thống lạc hậu;
- Chủ nghĩa cá nhân (Xem Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.9,
tr.287).
Hồ Chí Minh gọi chủ nghĩa cá nhân là giặc nội
xâm, kẻ địch ở bên trong.
Người so sánh: “Địch bên ngoài không đáng sợ.
Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra” (Xem Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.238 - 239). Vì vậy, tư tưởng nhất quán của Hồ
Chí Minh là kiên quyết chống mọi kẻ thù. Đồng thời đấu tranh đến cùng để chống
ngoại xâm với tinh thần “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn
phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”
(Xem Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.12, tr.407),
phải kiên quyết “quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Người nhấn mạnh: chủ nghĩa cá
nhân là một thứ vi trùng rất độc, là bệnh chính, bệnh mẹ sinh ra trăm thứ bệnh
nguy hiểm khác. Có thể nêu lên 10 loại bệnh nảy sinh từ chủ nghĩa cá nhân mà Hồ
Chí Minh đã chỉ ra trong Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân và nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết trước đó.
1.
Bệnh quan liêu: Quan liêu là
bệnh của những người và những cơ quan lãnh đạo xa rời thực tế, xa bộ đội, xa
nhân dân, mất dân chủ. Các ông quan liêu khi được phân công phụ trách ở vùng
nào, việc gì thì như một ông vua con, tha hồ hạch sách, hoạnh họe ở vùng ấy,
lĩnh vực ấy. Đối với cấp trên thì xem thường, với cấp dưới cậy quyền lấn át, với
quần chúng thì quan cách. Bệnh quan liêu để lại hậu quả nặng nề đối với Đảng,
Nhà nước và xã hội, trước hết là tham ô, lãng phí. Do đó, muốn trừ sạch nạn
tham ô, lãng phí cần phải tiêu diệt bệnh quan liêu.
2.
Bệnh tham lam: Những người mắc
phải bệnh này đều đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc.
Họ không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”, chà đạp lên lợi
ích của cách mạng, của nhân dân. Do đó, họ “tự tư, tự lợi”, dùng của công làm
việc tư, dựa vào thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích riêng của mình, tham ô,
hủ hóa, sinh hoạt xa hoa, tiêu xài bừa bãi.
3.
Bệnh lười biếng: Tự cho mình
cái gì cũng giỏi, việc gì cũng biết. Làm biếng học hỏi. làm biếng suy nghĩ. Ngại
khó khăn, gian khổ. Việc dễ thì tranh lấy cho mình. Việc khó thì đùn cho người
khác. Gặp việc nguy hiểm thì tìm cách trốn tránh.
4.
Bệnh kiêu ngạo: Tự cao, tự đại, hay lên mặt. Ưa người ta khen ngợi,
tâng bốc mình. Ưa sai khiến người khác. Hễ làm được việc gì hơi thành công thì
khoe khoang, vênh váo, cho ai cũng không bằng mình. Không thèm học hỏi quần
chúng, không muốn người khác phê bình mình. Việc gì cũng muốn làm thầy người
khác.
5.
Bệnh hiếu danh: Tham danh,
trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cho mình là anh hùng, là vĩ đại. Vì tham
vọng đó mà việc không đáng cũng làm. Đến khi bị công kích, bị phê bình thì tinh
thần lung lay. Những người đó chỉ biết lên mà không biết xuống. Chỉ chịu được
sướng mà không chịu được khổ. Chỉ ham làm chủ tịch này, ủy viên nọ, chớ không
ham công tác thiết thực.
6.
Bệnh “hữu danh, vô thực”:
Làm việc không thiết thực, không từ chỗ gốc, chỗ chính, không từ dưới làm lên.
Làm cho có chuyện, làm lấy rồi. Làm được ít suýt ra nhiều, để làm một bản báo
cáo cho oai, nhưng xét kỹ thì lại rỗng tuếch.
7.
Bệnh cận thị: Không trông
xa, thấy rộng. Những vấn đề to tát thì không nghĩ đến mà chỉ chăm chú những
chuyện vụn vặt. Những người như vậy chỉ trông thấy sự lợi, hại nhỏ nhen mà
không thấy sự lợi hại to lớn.
8.
Bệnh tị nạnh: Cái gì cũng muốn
“bình đẳng”, sinh ra hiểu lầm hai chữ “bình đẳng”. Không hiểu rằng người khỏe
gánh nặng, người yếu gánh nhẹ. Người làm việc nặng thì phải ăn nhiều, người làm
việc dễ thì ăn ít. Thế mới là bình đẳng.
9.
Bệnh xu nịnh, a dua: Những
người trước mặt thì ai cũng tốt, sau lưng thì ai cũng xấu. Thấy xôi nói xôi ngọt,
thấy thịt nói thịt bùi. Theo gió bẻ buồm, không có khí khái.
10.
Bệnh kéo bè, kéo cánh: Ai hợp
với mình thì dù người xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy
cho nhau, ủng hộ lẫn nhau. Ai không hợp với mình thì người tốt cũng cho là xấu,
việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách gièm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó
xuống. Từ đó đi đến bè phái, chia rẽ, mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, kỷ luật,
kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước.
Sự phân tích sâu sắc, chính xác của Hồ Chí
Minh về những biểu hiện chính của chủ nghĩa cá nhân dưới dạng bệnh cho thấy hệ
thống này đối lập với đạo đức cách mạng, có hại cho cách mạng. Trong Nâng cao đạo
đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Người viết: “Tóm lại, do cá nhân chủ
nghĩa mà phạm nhiều sai lầm”.
Hiện nay, những tật bệnh bắt nguồn từ chủ
nghĩa cá nhân vẫn đang tồn tại trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, làm giảm
sút niềm tin của nhân dân. Ôn lại những lời dạy của Hồ Chí Minh là cơ sở để cán
bộ, đảng viên tự phê bình, phê bình dưới sự giám sát, góp ý của nhân dân.
3.
Giải pháp nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân
Hồ Chí Minh khẳng định, đối lập với đạo đức
cách mạng là chủ nghĩa cá nhân, do đó, nâng cao đạo đức cách mạng không thể
tách rời với chống chủ nghĩa cá nhân, luôn luôn gắn xây với chống. Xây là để
nâng cao đạo đức cách mạng, chống là hướng tới mục tiêu quét sạch chủ nghĩa cá
nhân. Hồ Chí Minh chủ trương: “Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân,
nâng cao đạo đức cách mạng” và nâng cao đạo đức cách mạng để tăng sức mạnh chống
chủ nghĩa cá nhân. Những giải pháp chủ yếu để nâng cao đạo đức cách mạng, quét
sạch chủ nghĩa cá nhân được Hồ Chí Minh đề cập sáng rõ trong bài viết.
a)
Giải pháp từ phía Đảng
Cán bộ, đảng viên là những người của tổ chức.
Do đó, Hồ Chí Minh đòi hỏi, để nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá
nhân trong cán bộ, đảng viên, Đảng viên:
Thứ
nhất, tăng cường giáo dục
trong toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng,
về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên.
Thực chất đây là giải pháp nhằm thiết lập nền
tảng tư tưởng, lý luận, kim chỉ nam cho hành động, tạo dựng cái nền, cái gốc của
toàn Đảng và với mỗi cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh nhấn mạnh, để làm tròn sứ mệnh
của mình, mỗi đảng viên phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác – Lê nin, củng cố lập
trường giai cấp vô sản, cố gắng nắm vững những quy luật của cách mạng Việt Nam,
phải luôn luôn nâng cao đạo đức cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa
cá nhân; bồi dưỡng chủ nghĩa tập thể của giai cấp vô sản, cần kiệm xây dựng nước
nhà; một lòng, một dạ phấn đấu vì lợi ích tối cao của cách mạng và Tổ quốc.
Thứ
hai, thực hành tự phê bình
và phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng.
Theo Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình là
quy luật phát triển của Đảng, là vũ khí sắc bén trong công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng. Đó là phương thuốc hay nhất, giúp cho toàn Đảng và mỗi đảng viên sửa
chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm, tiến bộ không ngừng, ngày một mạnh thêm. Hồ
Chí Minh đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa
chữa như rửa mặt mỗi ngày. Được như thế thì trong Đảng sẽ không có bệnh và Đảng
sẽ khỏe mạnh vô cùng.
Nghiêm túc trong tự phê bình và phê bình, theo Hồ Chí Minh còn có nghĩa
là:
- Tự phê bình và phê bình phải có tình đồng
chí thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, thấu lý, đạt tình.
- Tự phê bình và phê bình phải ráo riết, triệt
để , không nể nang, không thêm, không bớt, không dùng những lời mỉa mai, cay độc,
châm chọc, phải vạch rõ những ưu điểm lẫn khuyết điểm, phê bình căn cứ vào việc
làm chứ không suy diễn, quy kết.
Hồ Chí Minh căn dặn, khi tự phê bình và phê
bình cấn phải đề phòng:
- Những cán bộ, đảng viên đầu cơ, lợi dụng
phê bình để “đập cho tơi bời”, để đạt mục đích tự tư, tự lợi.
- Những cán bộ, đảng viên “dĩ hòa, vi quý”.
Đó là những người miễn sao cho xong chuyện, không tự phê bình cũng chẳng phê
bình ai.
- Những cán bộ cực đoan, máy móc, thái độ “đối
với những người có khuyết điểm và sai lầm… như đối với hổ mang, thuồng luồng” (Xem Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.264).
Thứ
ba, chế dộ sinh hoạt và kỷ
luật đảng phải nghiêm minh. Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản là tổ chức cao nhất,
chặt chẽ nhất, là đội tiền phong của giai cấp công nhân và cả dân tộc. Do đó,
chế độ sinh hoạt đảng từ chi bộ đến cấp cao phải nghiêm túc. Hồ Chí Minh rất
coi trọng chi bộ đảng. Người cho rằng: “Chi bộ tốt, thì mọi việc đều tốt” (Xem Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2002, t.10, tr.532). Với người cộng sản, sự nghiêm minh,
chặt chẽ không tách rời tinh thần tự nguyện, tự giác. Hồ Chí Minh viết: “Về kỷ
luật, Đảng lao động Việt Nam
phải có kỷ luật sắt, đồng thời là kỷ luật tự giác” (Xem Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002,
t.6, tr.174). Người chỉ rõ, muốn nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân thì “Công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ”.
b)
Giải pháp từ phía cán bộ, đảng viên
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng không phải
từ trên trời sa xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng mà phát triển và
củng cố, cũng như ngọc cài mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Vì vậy,
đòi hỏi mỗi người cán bộ, đảng viên phải bền bỉ trau dồi, hun đúc nâng cao đạo
đức cách mạng. Trong Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Hồ
Chí Minh chỉ rõ:
Thứ
nhất, “mỗi cán bộ, đảng viên
phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết”.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, số đông cán bộ,
đảng viên là những người có chức, có quyền, gắn liền với chức, quyền là danh và
lợi. Do đó, đây là mối quan tâm, là vấn đề được Hồ Chí Minh trở đi, trở lại nhiều
lần. Người căn dặn, Đảng là đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân, của
toàn thể nhân dân lao động chứ không mưu cầu cho lợi ích của một nhóm người
nào, một cá nhân nào. “Đảng viên là người thay mặt Đảng đại biểu cho lợi ích của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Vì vậy, lợi ích của người đảng viên phải
ở trong chứ không thể ở ngoài lợi ích của Đảng ,của giai cấp. Đảng và giai cấp
thắng lợi và thành cộng tức là đảng viên thắng lợi và thành công. Nếu rời khỏi
Đảng và rời khỏi giai cấp, thì cá nhân dù tài giỏi mấy, cũng nhất định không
làm nên việc gì”. Hồ Chí Minh khẳng định: “Đạo đức cách mạng là vô luận trong
hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. Nếu
khi lợi ích của Đảng và lợi ích của cá nhân mẫu thuẫn với nhau, thì lợi ích cá
nhân phải tuyệt đối phục tùng lợi ích của Đảng” (Xem Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.9,
tr.289).
Thứ
hai, “Phải đi sâu, đi sát thực
tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của
nhân dân”.
Mối quan hệ Đảng – Dân luôn là một nhân tố
quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Dân chúng
đồng lòng, việc gì làm cũng được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng
không nên” (Xem Hồ Chí Minh toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.293). Người nhận xét, trong
đấu tranh giành chính quyền và trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, mối
quan hệ Đảng – Dân gắn bó rất chặt chẽ; từ khi hòa bình lập lại, đi vào xây dựng
đất nước thì cán bộ, đảng viên quan liêu, xa rời quần chúng có xu hướng tăng
lên. Tháng 12 năm 1958, Hồ Chí Minh viết: “hiện nay, chủ nghĩa cá nhân đang ám ảnh
một số đồng chí. Họ tự cho mình làm gì cũng giỏi, họ xa rời quần chúng, không
muốn học hỏi quần chúng mà chỉ muốn làm thầy quần chúng”. Hồ Chí Minh phê phán
những cán bộ, đảng viên xa rời thực tế, bắt quần chúng làm theo ý muốn, tư tưởng
chủ quan của mình. Người gọi đó là những cán bộ, đảng viên làm việc theo cách “
“khoét chân cho vừa giày”. Chân là quần chúng. Giầy là cách tổ chức và làm việc
của ta. Ai cũng đóng giày theo chân. Không ai đóng chân theo giày”. Người kết
luận: “Đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng,
hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng” (Xem Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.9,
tr.290).
IV.
GIÁ TRỊ CỦA TÁC PHẨM
Mặc dù bài viết ra đời cách đây hơn 40 năm,
nhưng những tư tưởng, quan điểm được Hồ Chí Minh nêu trong Nâng cao đạo đức
cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân vẫn giữ nguyên giá trị, luôn luôn được đặt
trong chương trình nghị sự của Đảng, Nhà nước qua các thời kỳ cách mạng và được
quan tâm sâu sắc trong sự nghiệp đổi mới. Nghiên cứu, vận dụng tư tưởng, đạo đức
Hồ Chí Minh qua tác phẩm của Người, chúng ta cần nhận thức sâu sắc một số vấn đề
sau đây:
Trước hết, Đảng ta phải thể hiện khả năng trí
tuệ của mình, đề ra được đường lối đúng đắn, đưa cách mạng nước ta vượt qua khó
khăn, thách thức, tiếp tục tiến lên. Đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo đã thể hiện sự đúng đắn bằng những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
qua 25 năm đổi mới. Những thành tựu đó
cũng đã chứng minh các quan điểm do Hồ Chí Minh nêu lên từ năm 1960 “Đảng ta là
đạo đức, là văn minh”. Trong giai đoạn phát triển mới, đất nước ta có nhiều cơ
hội mới, đồng thời cũng có nhiều khó khăn, thách thức. Đổi mới là sự nghiệp mới
mẻ, chưa có tiền lệ. Cần phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo xuất phát
từ thực tiễn Việt Nam để tiếp tục cụ thể hóa hơn nữa đường lối đổi mới, phát
huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Đảng phải “lãnh đạo rất sáng suốt
đã đưa dân tộc ta tiến lên không ngừng từ thắng lợi này đến thắng lợi khác” như
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ trong tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân.
Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng định cán bộ là gốc
của mọi công việc, đạo đức là gốc của người cán bộ, muôn việc thành công hay thất
bại là do cán bộ tốt hay kém. Trong nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chỉ
nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh đánh giá, trong thực tế sản xuất và chiến đấu xây dựng
chủ nghĩa xã hội, chống Mỹ, cứu nước, “rất nhiều cán bộ, đảng viên ta tỏ ra anh
dũng gương mẫu, gian khổ đi trước hưởng thụ đi sau”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI (tháng 12 năm 2011) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay” tiếp tục khẳng định: “Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội đại
biểu toàn quốc của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các
khóa đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trên
cơ sở đó, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt nhiều kết quả tích cực; năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng không ngừng được nâng cao; phương thức
lãnh đạo của Đảng từng bước được đổi mới; vai trò lãnh đạo của Đảng được giữ vững,
niềm tin của nhân dân với Đảng được củng cố; đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý
các cấp đã có bước trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt. Đa số cán bộ, đảng
viên có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, có ý
thức phục vụ nhân dân, được nhân dân tin tưởng. Thành tựu 25 năm đổi mới là
thành quả của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự đóng góp to lớn của
đội ngũ cán bộ, đảng viên”(Đảng Cộng sản
Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb.
Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2012, tr.21).
Trong giai đoạn cách mạng mới, đẩy nhanh sự
phát triển của đất nước, rất cần sự năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám
chịu trách nhiệm, biết cách tổ chức quần chúng thực hiện đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Cán bộ nào, phong trào đó. Rõ ràng, trong giai đoạn hiện nay, việc quan tâm xây
dựng, bồi dưỡng, giáo dục đội ngũ cán bộ có đầy đủ phẩm chất đạo đức, có năng lực
sáng tạo, vừa hồng, vừa chuyên theo tư tưởng Hồ Chí Minh là rất quan trọng.
Tuy nhiên, Nghị quyết Trung ương 4 cũng đã chỉ
rõ: “Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế,
yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều kỳ chậm được
khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa
chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế
độ. Nổi lên một số vấn đề cấp bách sau đây:
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,
trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ
cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện
khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực
dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cụ bộ, tham nhũng, lãng
phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…” (Đảng Cộng
sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI,
Sđd, tr.21-22).
Thực trạng này đã được Hồ Chí Minh cảnh báo từ
rất sớm, mà nguyên nhân, như Bác đã chỉ rõ, là do một bộ phận cán bộ, đảng viên
“đang mang một ba lô chủ nghĩa cá nhân”. Vì vậy, học tập và làm theo những lời
dạy của Hồ Chí Minh, nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân
càng trở nên quan trọng và cần thiết.
Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hệ thống
chính trị, trước hết là trong cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ, đảng viên
có chức, có quyền, công chức nhà nước phải bắt đầu từ phòng, chống chủ nghĩa cá
nhân. Đây là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt để nâng cao đạo đức cách mạng,
quét sạch chủ nghĩa cá nhân theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Những giải pháp từ phía các cơ quan đảng đến
cán bộ, đảng viên được Hồ Chí Minh nêu ra trong tác phẩm Nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân cách đây hơn 40 năm vẫn còn nguyên giá trị,
vì đó là những giải pháp rất cơ bản và rất thiết thực, phải làm thường xuyên.
Thực hiện những giải pháp này cần nhấn mạnh một luận điểm của Hồ Chí Minh, đó
là, để biến chủ trương, chính sách thành hiện thực không chỉ cần giải pháp đúng
là cần hơn là quyết tâm và dũng khí thực hiện giải pháp ấy. Các chuyên gia
nghiên cứu chống tham nhũng trên thế giới đều khẳng định, chống tham nhũng trước
hết không phải bắt đầu bằng “đạo luật sắt”mà phải bắt đầu bằng quyết tâm chính
trị của người lãnh đạo; không chỉ bằng ‘bàn tay sắt”, mà trước hết phải bằng
“bàn tay sạch”. Trong tổ chức lực lượng và tiến trình thực hiện cần tuân theo lời
dạy của Hồ Chí Minh: “ Có chỉ tiêu kế hoạch rồi chưa đủ mà phải có biện pháp cụ
thể, vững chắc, phải có tinh thần cố gắng rất cao để thực hiện bằng được kế hoạch
đã đề ra. Chỉ tiêu kế hoạch một phần, biện pháp phải hai phần, cố gắng phải ba
phần” (Xem Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.10, tr.261).
****************************
Chuyên đề 3
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ
MINH
I.
DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
CÁC
BẢN IN NGUYÊN VĂN BẢN THẢO DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
VIỆT NAM
DÂN CHỦ CÔNG HOÀ
Độc lập - Tự
do - Hạnh phúc
-------------------------
(Tuyệt đối bí mật )Nhân
dịp mừng 75 tuổi
Người làm thơ rất nổi tiếng,
ở Trung Quốc đời nhà Đường là cụ Đỗ Phủ có câu thơ rằng “nhân sinh thất thập cổ
lai hy”. Nghĩa là: Người thọ 70, xưa nay hiếm.
Nǎm nay, tôi đã 75 tuổi.
Tinh thần vẫn sáng suốt, thân thể vẫn mạnh khỏe. Tuy vậy, tôi cũng đã là lớp
người “xưa nay hiếm”.
Ai đoán biết tôi sẽ sống và
phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng mấy năm mấy tháng nữa?
Vì vậy, tôi để lại mấy lời
này, chỉ nói tóm tắt vài việc thôi. Phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ
Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước và đồng chí trong
Đảng khỏi cảm thấy đột ngột.
Trước hết nói về Đảng - Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng
một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày
thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hǎng
hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân
ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí
của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và
nghiêm chỉnh tự phê bình và
phê bình là cách tốt nhất để
củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí
thương yêu lẫn nhau.
Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ
phải thực sự thấm nhuần đạo
đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân.
Đoàn viên thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hằng hái xung phong,
không ngại khó khǎn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chǎm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người
thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết.
Nhân dân lao động ta ở miền
xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến
và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều nǎm chiến tranh.
Tuy vậy, nhân dân ta rất anh
hùng, dũng cảm, hǎng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi
theo Đảng, rất trung thành với Đảng.
Đảng cần phải có kế
hoạch thật tốt để
phát triển kinh tế và vǎn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể kéo dài mấy năm nữa. Đồng
bào ta có thể phải hy sinh nhiều của nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết
tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.
Còn non, còn nước, còn người,
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!
Dù khó khǎn gian khổ đến
mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải
cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất
định sẽ sum họp một nhà. Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh
dũng đánh thắng hai đế quốc to - là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào
phong trào giải phóng dân tộc.
Về phong trào cộng sản thế giới - là một người suốt đời phục vụ
cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hoà hiện nay giữa
các đảng anh em!
Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra
sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các
đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có
lý có tình.
Tôi tin chắc rằng các đảng
anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại.
*
* *
Về việc riêng - Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên
tổ chức đám đình, lãng phí ngày giờ và tiền bạc của nhân dân.
Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, nói chữ là “hỏa
táng”. Tôi mong rằng cách “hỏa táng” dần dần sẽ được phổ biến. Vì như thế đối
với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất. Bao giờ ta có nhiều
điện, thì “điện táng” càng tốt hơn.
Tro xương thì tìm một quả đồi mà chôn. Gần
Tam Đảo và Ba Vì như hình có nhiều đồi tốt. Trên mộ, nên xây 1 cái nhà giản
đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ để những người đến thăm viếng có chỗ nghỉ
ngơi.
Nên có kế hoạch trồng
cây trên đồi. Ai đến thăm
thì trồng một cây làm kỷ niệm. Trồng cây nào phải tốt câu ấy. Lâu ngày, cây
nhiều thành rừng, sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp.
Nếu tôi qua đời trước ngày nước ta được thống nhất,
thì nên gửi một ít tro xương cho đồng
bào miền Nam.
Cuối cùng, tôi để lại muôn
vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu
thanh niên và nhi đồng.
Tôi cũng gửi lời chào thân
ái đến các đồng chí, các bầu bạn, và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế.
Điều mong muốn cuối cùng của
tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam
hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào
sự nghiệp cách mạng thế giới.
Hà nội, ngày 15 tháng 5 nǎm 1965
Hồ Chí Minh
Chứng kiến
Bí thư thứ nhất
Ban Chấp hành Trung ương
Đảng
Lê Duẩn
***************
Toàn văn Di chúc Bác sửa chữa năm 1968
VIỆT NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập, Tự do, Hạnh phúc
(Tuyệt đối bí mật)
Năm nay, tôi vừa 78 tuổi,
vào lớp những người “trung thọ”. Tinh thần vẫn sáng suốt tuy sức khỏe có kém so
với vài năm trước đây. Người ta đến khi tuổi tác càng cao thì sức khỏe càng
thấp. Đó là điều bình thường.
Nhưng không ai đoán biết
được tôi sẽ sống và phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng mấy tháng, mấy năm nữa?
Vì vậy tôi viết sẵn và để
lại mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách
mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước và đồng chí trong Đảng khỏi cảm thấy
đột ngột.
Về việc riêng
Suốt đời tôi hết lòng hết
sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt
thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không
được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa.
Sau khi tôi đã qua đời, chớ
nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân
dân.
Tôi yêu cầu thi hài tôi được
đốt đi, tức là “hỏa táng”. Tôi mong rằng cách “hỏa táng” sau này sẽ được phổ
biến. Vì như thế đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất
ruộng. Khi ta có nhiều điện, thì “điện táng” càng tốt hơn.
Tro thì chia làm 3 phần, bỏ vào 3 cái
hộp sành. Một hộp cho miền Bắc. Một hộp cho miền Trung. Một hộp cho miền Nam.
Đồng bào mỗi miền nên chọn l
quả đồi mà chôn hộp tro đó. Trên mả, không nên có bia đá tượng đồng, mà nên xây
1 ngôi nhà giản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ, để những người đến thăm viếng
có chỗ nghỉ ngơi.
Nên có kế hoạch trồng cây trên và chung quanh đồi. Ai
đến thăm thì trồng một vài cây làm kỷ niệm. Lâu ngày, cây nhiều thành rừng sẽ
tốt cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp. Việc
săn sóc nên giao phó cho các cụ phụ lão.
Tháng 5-1968, khi xem lại
thư này tôi thấy cần phải viết thêm mấy điểm không đi sâu vào chi tiết.
Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta
đã hoàn toàn thắng lợi, công việc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải ra
sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong
cuộc chiến tranh xâm lược dã man. Đó là một công việc cực kỳ to lớn, phức tạp
và khó khăn. Chúng ta phải có kế hoạch sẵn sàng, rõ ràng, chu đáo, để tránh
khỏi bị động, thiếu sót và sai lầm. Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn
viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm
toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó
khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi.
Đầu tiên là công việc đối với con người.
Đối với những người đã dũng
cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích,
thanh niên xung phong..,), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm
cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những những lớp dạy nghề
thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”.
Đối với các liệt sĩ, mỗi địa
phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh
anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân
ta.
Đối với cha mẹ, vợ con (của
thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền
địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác nông nghiệp) phải
giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét.
Những chiến sĩ trẻ tuổi
trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong đều đã được rèn
luyện trong chiến đấu và đều tỏ ra dũng cảm. Đảng và Chính phủ cần chọn một số
ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành
những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững
chắc. Đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thăng lợi chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
Trong sự nghiệp chống Mỹ,
cứu nước, phụ nữ đảm đang ta đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản
xuất. Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc
và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc
lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng
đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ.
Đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, như trộm
cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu, v.v.. thì Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa
phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương
thiện.
Trong bao năm kháng chiến
chống Pháp, tiếp đến chống đế quốc Mỹ, đồng bào ta, nhất là đồng bào nông dân
đã luôn luôn hết sức trung thành với Đảng và Chính phủ ta, ra sức góp của góp
người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn gian khổ. Nay ta đã hoàn toàn thắng lợi,
tôi có ý đề nghị miễn thuế nông nghiệp 1 năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để
cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất.
Ở đây nói về kế hoạch xây
dựng lại thành phố và làng mạc đẹp đẽ, đàng hoàng hơn trước chiến tranh. Khôi
phục và mở rộng các ngành kinh tế. Phát triển công tác vệ sinh, y tế. Sửa đổi
chế độ giáo dục cho hợp với hoàn cảnh mới của nhân dân, như phát triển các
trường nửa ngày học tập, nửa ngày lao động. Củng cố quốc phòng. Chuẩn bị mọi
việc để thống nhất Tổ quốc...
Công việc trên đây là rất to
lớn, nặng nề, và phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu
chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để
giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn
dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân.
Toàn văn bản Di
chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh sửa chữa năm 1969
10-5-1969
Cuộc chống Mỹ, cứu nước của
nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định
thắng lợi hoàn toàn.
Đó là một điều chắc chắn.
Tôi có ý định đến ngày đó,
tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc, để chúc mừng đồng bào, cán bộ, và chiến sĩ anh
hùng, thăm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng yêu quý của
chúng ta.
Kế theo đó, tôi sẽ thay mặt
nhân dân ta thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, và các
nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu
nước của nhân dân ta.
Ông Đỗ Phủ là người làm thơ
rất nổi tiếng ở Trung Quốc, đời nhà Đường, có câu rằng “nhân sinh thất thập cổ
lai hy” nghĩa là “người thọ 70, xưa nay hiếm”.
Năm nay, tôi vừa 79 tuổi, đã
là hạng người “xưa nay hiếm” nhưng tinh thần, đầu óc vẫn rất sáng suốt, tuy sức
khỏe có kém so với vài năm trước đây. Khi người ta đã ngoại 70 xuân, thì tuổi
tác càng cao, sức khỏe càng thấp. Điều đó cũng không có gì lạ.
Nhưng ai mà đoán biết tôi
còn phục vụ cách mạng, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân được bao lâu nữa?
Vì vậy tôi để sẵn mấy lời
này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh
khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi
cảm thấy đột ngột.
*******************
Di chúc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh
(công bố năm 1969)
VIỆT NAM
DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------------------------
Cuộc chống Mỹ, cứu nước của
nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định
thắng lợi hoàn toàn.
Đó là một điều chắc chắn.
Tôi có ý định đến ngày đó,
tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc, để chúc mừng đồng bào, cán bộ và chiến sĩ anh
hùng, thǎm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng yêu quý của
chúng ta.
Kế theo đó, tôi sẽ thay mặt
nhân dân ta đi thǎm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, và
các nước bầu bạn khắp nǎm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu
nước của nhân dân ta.
*
* *
Ông Đỗ Phủ là người làm thơ
rất nổi tiếng ở Trung Quốc đời nhà Đường, có câu rằng "Nhân sinh thất thập
cổ lai hy", nghĩa là "Người thọ 70, xưa nay hiếm".
Nǎm nay, tôi vừa 79 tuổi, đã
là lớp người "xưa nay hiếm" nhưng tinh thần, đầu óc vẫn rất sáng
suốt, tuy sức khoẻ có kém so với vài nǎm trước đây. Khi người ta đã ngoài 70
xuân, thì tuổi tác càng cao, sức khoẻ càng thấp. Điều đó cũng không có gì lạ.
Nhưng ai mà đoán biết tôi
còn phục vụ cách mạng, phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân được bao lâu nữa?
Vì vậy, tôi để sẵn mấy lời
này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh
khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi
cảm thấy đột ngột.
TRƯỚC
HẾT NÓI VỀ ĐẢNG - Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai
cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng
ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hǎng hái đấu tranh tiến từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác.
ĐOÀN KẾT là một truyền thống cực kỳ quý báu
của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn
sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và
nghiêm chỉnh tự phê bình và
phê bình là cách tốt nhất để
củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí
thương yêu lẫn nhau.
Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ
phải thực sự thấm nhuần đạo
đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân.
ĐOÀN
VIÊN THANH NIÊN ta nói chung là tốt, mọi việc đều
hằng hái xung phong, không ngại khó khǎn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chǎm
lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những
người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa
"chuyên".
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết.
NHÂN DÂN
LAO ĐỘNG ta
ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong
kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều nǎm chiến tranh.
Tuy vậy, nhân dân ta rất anh
hùng, dũng cảm, hǎng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi
theo Đảng, rất trung thành với Đảng.
Đảng cần phải có kế
hoạch thật tốt để phát triển
kinh tế và vǎn hóa, nhằm không ngừng nâng
cao đời sống của nhân dân.
CUỘC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh
nhiều của, nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng
lợi hoàn toàn.
Còn non, còn nước, còn người,
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!
Dù khó khǎn gian khổ đến
mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải
cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất
định sẽ sum họp một nhà. Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh
dũng đánh thắng hai đế quốc to - là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào
phong trào giải phóng dân tộc.
VỀ PHONG
TRÀO CỘNG SẢN THẾ GIỚI - là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự
hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì
tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hoà hiện nay giữa các đảng anh em!
Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra
sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các
đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có
lý, có tình.
Tôi tin chắc rằng các đảng
anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại.
*
* *
VỀ VIỆC
RIÊNG -
Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân
dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ
tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa.
Sau khi tôi đã qua đời, chớ
nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân
dân.
*
* *
Cuối cùng, tôi để lại muôn
vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu
thanh niên và nhi đồng.
Tôi cũng gửi lời chào thân
ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế.
Điều mong muốn cuối cùng của
tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam
hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào
sự nghiệp cách mạng thế giới.
Hà nội, ngày 10 tháng 5 nǎm 1969
Hồ Chí Minh
II.
HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM
Ngày 15-5-1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bản
Di chúc đầu tiên. Bản Di chúc này do Người tự đánh máy, gồm 3 trang, có chữ ký
của Người và chữ ký chứng kiến của đồng chí Lê Duẩn, khi đó là Bí thư thứ nhất
Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đây là bản Di chúc hoàn chỉnh của Chủ tịch Hồ
Chí Minh.
Năm 1966, 1967 không có bản viết riêng, chỉ
có hai bản bổ sung vào Di chúc năm 1965 do chính Hồ Chí Minh viết thêm ở phần nội
dung Người viết về Đảng. Ở khổ văn thứ nhất của nội dung này, Người viết: “Nhờ
đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân”. Đến
đây, Người thêm các chữ “phục vụ Tổ quốc”. Ở khổ văn thứ ba trong nội dung viết
về Đảng, Người viết: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và
nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển
sự đoàn kết thống nhất của Đảng”. Đến đây, Người viết thêm câu: “Phải có tình đồng
chí thương yêu lẫn nhau” vào cuối khổ văn.
Năm 1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bổ sung một
đoạn gồm 6 trang viết tay. Năm 1969, vào ngày 10 -5, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết
lại toàn bộ phần mở đầu Di chúc gồm 1 trang viết tay.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố năm
1969, có đề ngày 10 – 5 gồm 4 trang in khổ 14,5 x 22cm. Bản Di chú này chủ yếu
dựa vào bản Người viết năm 1965, trong đó có đoạn mở đầu là bản viết năm 1969,
đoạn về việc riêng là phần đầu bản viết năm 1968.
Các bản thảo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
được Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI công
bố năm 1989, vào dịp chuẩn bị kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của Người.
1.
Về chủ quan
Đến năm 1965, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã tự cảm nhận được sức khỏe của Người giảm sút so với những năm
trước đó. Người cho rằng, ở tuổi 75, Người thuộc lớp người “xưa nay hiếm”. Tuy
cảm thấy “Tinh thần vẫn sáng suốt, thân thể vẫn khỏe mạnh”, nhưng Người dự báo
“Ai dám biết tôi sẽ sống và phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng được mấy năm mấy
tháng nữa”. Rõ ràng, Hồ Chí Minh đã dự cảm được thời khắc quan trọng của thời
gian còn lại.Từ dự cảm đó, Người viết: “Vì
vậy, tôi để lại mấy lời này, chỉ nói tóm
tắt vài việc thôi. Phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê-nin và các vị cách
mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước và đồng chí trong Đảng khỏi cảm thấy đột
ngột”.
Đến năm 1969, Chủ tịch
Hồ Chí Minh tự cảm thấy “sức khỏe có kém so với vài năm trước đây”. Chủ tịch Hồ
Chí Minh bình tĩnh, chủ dộng nhận biết quy luật của tự nhiên khi Người viết:
“Năm nay, tôi vừa 79 tuổi, đã là hạng người “xưa nay hiếm”…Khi người ta đã ngoại
70 xuân, thì tuổi tác càng cao, sức khỏe càng thấp. Điều đó cũng không có gì lạ”.
Vì vậy, Người đã chủ
động viết Di chúc, để lại tình thương yêu và những lời căn dặn tâm huyết cho
nhân dân ta, cho Đảng và bạn bè gần xa. Tuy sức khỏe giảm sút, nhưng ở Chủ tịch
Hồ Chí Minh vẫn nồng cháy một tình yêu lớn và tinh thần trách nhiệm cao với đồng
chí, đồng bào, toàn dân tộc, với cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.
2. Về khách quan
Tháng 5-1965, Chủ tịch
Hồ Chí Minh bắt đầu viết Di chúc. Đúng thời điểm này, chiến lược “Chiến tranh đặc
biệt” của đế quốc Mỹ ở miền Nam
nước ta bị thất bại hoàn toàn. Ngoan cố và liều lĩnh , đế quốc Mỹ đã ào ạt đưa
quân Mỹ đổ bộ vào miền Nam, thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ” hòng tiêu
diệt bộ đội chủ lực của Quân giải phóng miền Nam, đồng thời mở rộng cuộc chiến
tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ đánh phá hủy diệt miền Bắc.
Chủ tịch Hồ Chi
Minh, Đảng và nhân dân ta không bất ngờ trước việc đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh
ở Việt Nam.
Ngay tháng 3-1964, căn cứ điều 67 của Hiến pháp và trước âm mưu của đế quốc Mỹ
đang đẩy mạnh và mở rộng chiến tranh xâm lược nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
triệu tập và chủ trì Hội nghị chính trị đặc biệt tại Hà Nội. Người khẳng định:
Nếu đế quốc Mỹ liều lĩnh đụng đến miền Bắc thì nhất định chúng sẽ bị thất bại
thảm hại. Người kêu gọi đồng bào miền Bắc ra sức thi đua “mỗi người làm việc bằng
hai để đền đáp cho đồng bào miền Nam ruột thịt” (Xem
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.11, tr.367). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt toàn dân thể
hiện ý chí của toàn dân tộc ta sẵn sàng chiến đấu chống đế quốc Mỹ mở rộng chiến
tranh để bảo vệ miền Bắc và chi viện tích cực cho cách mạng miền Nam. Đến tháng
3-1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III họp Hội nghị lần thứ 11 đã hạ
quyết tâm: quyết chiến và quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
Cuộc chiến tranh cục bộ mà quân Mỹ là nòng cốt
diễn ra ở miền Nam qua hai mùa khô 1965 – 1966, 1966 – 1967 và chiến tranh phá
hoại miền Bắc bằng không quân, hải quân Mỹ đã đứng trước nguy cơ phá sản hoàn
toàn. Trong thế thắng đó, Đảng ta chủ trương bồi một đòn chiến lược vào ý đồ
xâm lược của đế quốc Mỹ.
Thực hiện chủ trương chiến lược này, Tết Mậu
Thân năm 1968, ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên khắp chiến trường miền
Nam.
Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công đã làm thất bại hoàn toàn chiến lược “chiến
tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc,
chấp nhận đàm phán với ta tại Pari. Tuy nhiên, do bản chất xâm lược và hiếu chiến,
ngoan cố, chúng bắt đầu áp dụng chiến lược “Việt Nam
hóa chiến tranh” ở miền Nam.
Trên thế giới, phong trào giải phóng dân tộc,
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân
chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới và nhất là phong trào phản đối chiến
tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam, ủng hộ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của Việt
Nam phát triển rất mạnh mẽ.
Cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta đến thời điểm đó, mặc
dù còn nhiều khó khăn, gian khổ, nhưng khả năng thắng lợi “đánh cho Mỹ cút,
đánh cho ngụy nhào” đã thể hiện rõ. Trong bài thơ mừng Xuân 1969, Bác đã viết:
“Vì độc lập, vì tự do,
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào
Tiến lên! Chiến sĩ đồng bào,
Bắc – Nam sum họp, Xuân nào vui hơn!”
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được viết
trong thời điểm bản lề của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; cách mạng dù
còn khó khăn, song đang trên đà thắng lợi, đòi hỏi sự đoàn kết chặt chẽ, chiến
đấu bền bỉ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân với niềm tin vững chắc vào thắng
lợi cuối cùng.
III.
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
1.
Hồ Chí Minh nói về cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược
Năm 1965, Hồ Chí Minh dự đoán: “Cuộc kháng
chiến chống Mỹ có thể sẽ kéo dài mấy năm nữa”.
Năm 1969, mở đầu Di chúc, Người viết: “Cuộc
chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn
nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”.
Nhận định về thời gian “Cuộc kháng chiến chống
Mỹ có thể sẽ kéo dài”, dự liệu “Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều
người”, nhưng Người khẳng định một quyết tâm lớn của Người và của cả dân tộc
là: “Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn”. Từ
quyết tâm đó, Người tin tưởng chắc rằng “Dù khó khăn, gian khổ đến mấy, nhân
dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước
ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một
nhà. Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế
quốc to – là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân
tộc”.
Trong Di chúc, Hồ Chí Minh đã khẳng định một
quan điểm, giành độc lập tự do của Tổ quốc là để xây dựng một nước Việt Nam hòa
bình, thống nhất, độc lập và giàu mạnh. Người truyền niềm tin đó cho nhân dân
qua câu thơ:
Còn non, còn nước, còn người
Thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng hơn mười ngày
nay!
2.
Lời dặn của Hồ Chí Minh về Đảng
Nói về Đảng là lời dặn đầu tiên của Hồ Chí
Minh.
Người khẳng định: Vấn đề đoàn kết có tầm quan
trọng hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng. Đoàn kết là nguyên nhân thắng lợi
của cách mạng Việt Nam dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam là do sự
đoàn kết trong Đảng đem lại. Người viết: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ” mà “Đảng ta đã
đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác”.
Người khẳng định, đoàn kết là một truyền thống
cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Người tâm huyết căn dặn: “Các đồng chí từ
Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ
gìn con ngươi của mắt mình”.
Để thực hiện đoàn kết, thống nhất trong Đảng,
Hồ Chí Minh yêu cầu phải thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng,
làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh. Người căn dặn: “Trong Đảng thực
hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình”.
Theo Người, đó là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống
nhất của Đảng.
Bằng chính tấm gương sáng ngời của đời mình,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định tình cảm giai cấp và đồng chí trong Đảng,
coi đó là một nhân tố quan trọng để đoàn kết trong Đảng. Người yêu cầu, trong Đảng
“phải có tình đồng chí yêu thương lẫn nhau”.
Trong Di chúc, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh nhân
tố đạo đức khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền. Theo Người, Đảng cầm quyền là bước
chuyển trọng đại trong sinh hoạt Đảng. Đảng cầm quyền có sứ mạng lãnh đạo giai
cấp và dân tộc xây dựng thành cộng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Để
hoàn thành sứ mạng đó, Đảng ta phải “là đạo đức, là văn minh”.
3.
Về đoàn viên thanh niên
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành cho thế hệ trẻ
Việt Nam
tình yêu thương, sự quan tâm và niềm tin sâu sắc. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh,
đoàn viên, thanh niên là đội hậu bị của Đảng, là người chủ tương lai của đất nước.
Trải qua thực tiễn cách mạng, Người nhận xét: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái
xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ”. Người nhấn mạnh, thế hệ trẻ mới
là người xây dựng thành công xã hội mới ở Việt Nam. Để họ hoàn thành vai trò lịch
sử của mình, Người yêu cầu “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng
cho họ, đào tạo họ thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”,
vừa “chuyên””.
4.
Với nhân dân lao động
Chủ tịch Hồ Chí Minh có một tình cảm đặc biệt
và niềm tin mãnh liệt vào nhân dân. Người nêu rõ: “Nhân dân lao động ta ở miền
xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến
và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh. Tuy vậy, nhân
dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta
luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra trách nhiệm to lớn
của Đảng với nhân dân là “Đảng ta cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển
kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.
5.
Về phong trào cộng sản thế giới
Trước sự bất hòa đang tồn tại trong phong
trào cộng sản quốc tế, Hồ Chí Minh rất day dứt. Với trách nhiệm của người cộng
sản chân chính. Người tự sự: “Là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng
tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu,
thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay của các đảng anh em”. Đó
chính là một hình thức gián tiếp, Người gửi tới những người cộng sản chân chính
trên thế giới quan điểm và trách nhiệm của mình vì sự đoàn kết quốc tế của những
người cộng sản.
Với chủ nghĩa quốc tế trong sáng và phương
pháp tư tưởng tuyệt vời, Hồ Chí Minh không bày tỏ “lời khuyên” hay sự nhận xét
đúng sai với người này, người khác, mà Người xác định trách nhiệm của Đảng ta đối
với sự bất hòa ấy. Trong Di chúc, Người viết: “Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức
hoạt động, góp phần đắc lực trong việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng
anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê nin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý,
có tình”. Người bày tỏ niềm tin “các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ
phải đoàn kết lại”.
6.
Công việc sau chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược
Là một nhà chiến lược thiên tài, nắm vững quy
luật và cục diện của cuộc khán chiến, Hồ Chí Minh tin tưởng chắc chắn rằng cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nhất định sẽ thắng lợi. Trong thời điểm viết Di
chúc, dù khẳng định cuộc kháng chiến “còn kéo dài”, Hồ Chí Minh đã nhìn xa đến
các nhiệm vụ sau khi kháng chiến thắng lợi. Người căn dặn các công việc phải
làm sau chiến tranh để đạt mục tiêu phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân ta là:
Ngay sau khi kháng chiến thắng lợi, công việc
đầu tiên mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải ra sức làm là hàn gắn vết
thương chiến tranh nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra. Theo Người, đó là một
công việc cực kỳ to lớn, phức tạp và khó khăn. Người đề nghị Đảng ta phải có “kế
hoạch sẵn sàng, rõ ràng, chu đáo, để tránh khỏi bị động, thiếu sót và sai lầm”.
Để hoàn thành nhiệm vụ to lớn đó, theo Hồ Chí
Minh “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng
viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho
mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân”. Người khẳng định “Làm được như vậy,
thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”.
Với niềm tin vào nhân dân, vào con người, Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đầu tiên là công việc đối với con người”. Người căn dặn
Đảng và Nhà nước phải quan tâm tới mọi đối tượng trong xã hội, không quên bất cứ
ai. Sự quan tâm của Người thể hiện tình thương yêu bao la của Người với mọi tầng
lớp nhân dân. Hồ Chí Minh dặn lại:
Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một
phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung
phong…), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách cho họ có nơi ăn chốn ở
yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có
thể dần dần “tự lực cánh sinh”.
Đối với các liệt sĩ, Chủ tịch Hồ Chí Minh dặn
dò: mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia tưởng niện
ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước
cho nhân dân ta.
Đối với cha mẹ, vợ con của thương binh, liệt
sĩ mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương phải giúp đỡ
họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét.
Với những người trẻ tuổi tham gia bộ đội,
thanh niên xung phong là những người đã được rèn luyện trong chiến đấu, có lòng
dũng cảm và tương lai của họ còn dài, Hồ Chí Minh căn dặn Đảng và Chính phủ cần
chọn một số ưu tú nhất, cử họ đi học thêm các ngành, các nghề, đào tạo họ thành
những người có chuyên môn giỏi, có tư tưởng tốt và lập trường lập trường vững
chắc. Người cho rằng, họ sẽ là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng
lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn Đảng ta phải tiếp
tục thực hiện sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Người đánh giá cao công lao của phụ
nữ trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Đất nước hòa bình, cần thực hiện hai điều
để tiếp tục giải phóng phụ nữ:
- Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết
thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ phụ nữ, để ngày càng thêm nhiều phụ nữ
phụ trách mọi công việc, kể cả việc lãnh đạo.
- Đồng thời, bản thân phụ nữ phải cố gắng
vươn lên.
Theo Người, thực hiện được hai điều này là “một
cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”.
Với nông dân, lực lượng cách mạng đông đảo nhất,
Hồ Chí Minh khẳng định: Nông dân nước ta luôn luôn hết sức trung thành với Đảng
và Chính phủ ta. Trong cách mạng cũng như trong kháng chiến, nông dân ta ra sức
góp của, góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn, gian khổ. Người đề nghị
Chính phủ, khi sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước toàn thắng hãy “miễm thuế nông nghiệp
1 năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng,
thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”.
Với những người trộm cắp, gái điếm, cờ bạc,
buôn lậu… Hồ Chí Minh coi đó là nạn nhân của chế độ xã hội cũ. Bởi vậy, Nhà nước
phải vừa giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp đỡ họ trở nên những
người lao động lương thiện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đó là những nhiệm vụ
phải thực hiện sau chiến tranh; là những công việc rất to lớn, nặng nề, phức tạp,
nhưng cũng rất vẻ vang. Theo Người, công việc này là cuộc chiến đấu khổng lồ chống
lại những cái cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Người nhắn
nhủ, để giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu này phải động viên toàn dân, tổ chức
và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân.
7.
Về việc riêng
Cuối Di chúc, Hồ Chí Minh mới đề cập đến “việc
riêng”, những nghi thức sau khi Người về với “thế giới người hiền”, qua đó thể
hiện rõ những phẩm chất đạo đức vô cùng cao quý.
Người đề nghị, “chớ nên tổ chức điếu phúng
linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”.
Người đề nghị hỏa táng thi hài bởi như thế vừa
“tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất” và căn dặn “Tro xương thì tìm một quả đồi
mà chôn”, “Ai đến thăm thì trồng một cây làm kỷ niệm”. “Lâu ngày, cây nhiều
thành rừng, sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp”.
Người có tâm nguyện “gửi một ít tro xương cho
đồng bào miền Nam”.
Năm 1968, Người bổ sung thêm: “Tro thì chia làm 3 phần, bỏ vào 3 cái hộp sành.
Một hộp cho miền Bắc, một hộp cho miền Trung, một hộp cho miền Nam. Đồng
bào mỗi miền nên chọn một quả đồi mà chôn hộp tro đó”.
8.
Về lời vĩnh biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh cuối Di chúc
Những dòng cuối Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nói lời vĩnh biệt, thể hiện tình yêu thương bao la và khát vọng của mình.
Trước hết, Người “để lại muôn vàn tình thân
yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và
nhi đồng”.
Tiếp đó, Người “gửi lời chào thân ái đến các
đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế”.
Cuối cùng, Người thể hiện mong muốn tột cùng,
mục đích sống và mục tiêu phấn đấu suốt cuộc đời mình, đó là: “Toàn Đảng, toàn
dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
IV.
GIÁ TRỊ CỦA TÁC PHẨM
1.
Giá trị tư tưởng
Giá trị tư tưởng của tác phẩm chính là sự tổng
kết toàn bộ tinh thần, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm nền tảng kim chỉ nam cho sự
phát triển cách mạng Việt Nam
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chúc thư
của một lãnh tụ thiên tài, một nhà cách mạng lỗi lạc có tầm nhìn xa, trông rộng,
một chiến sĩ cộng sản suốt đời yêu thương, trân trọng con người phấn đấu hy
sinh vì tự do, hạnh phúc của con người. Những tư tưởng lớn, những phẩm chất đạo
đức trong sáng tuyệt vời và chủ nghĩa
nhân văn cộng sản tỏa sáng từ Di chúc lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi
là nguồn sức mạnh tinh thần dẫn dắt toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trên con
đường xây dựng Tổ quốc Việt Nam theo mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
2.
Giá trị thực tiễn
Tác phẩm định hướng cho toàn Đảng, toàn dân
ta đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn và xây
dựng, phát triển đất nước trong tương lai.
Khẳng định tầm quan trọng của nhân tố đạo đức
đối với Đảng cầm quyền, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Đảng ta
là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật
trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân”.
Đối với công tác quán triệt, triển khai Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”,
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nguồn sức mạnh, nguồn động viên tinh thần
to lớn đối với mỗi cán bộ, đảng viên tự giác tham gia tự phê bình và phê bình,
nêu cao ý thức trách nhiệm, tính tiền phong, gương mẫu của mình trước Đảng, trước
nhân dân.
****************
Hai câu này trích trong
cuốn Làm gì? của Lênin.