GIÁO TRÌNH
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
(Dành cho sinh viên
đại học, cao đẳng
khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh)
khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh)
----------------
Chương mở đầu:
ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN
CỨU
1. Đối tượng nghiên
cứu
a) Khái niệm "đường lối cách mạng của
Đảng Cộng sản Việc Nam"
Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập ngày 3
- 2 - 1930. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội
tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành
lợi ích của giai cấp công nhân. nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng Cộng sản
Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động. Lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ thức cơ bản.
Thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng đã đề ra
đường lối cách mạng đúng đắn và trực tiếp lãnh đạo cách mạng nước ta giành được
thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến lập nên
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; đưa dân tộc ta tiến tới kỷ nguyên độc lập, tự
do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược mà đỉnh cao là chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế, thắng lợi
của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức
và tư duy mới đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Sự
lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, vấn đề cơ bản trước hết là đề ra
đường lối cách mạng và hoạch định đường lối. Đây là công việc quan trọng hàng
đầu của một chính đảng.
Đường lối cách mang
của Đảng cộng sản Việt Nam là hệ thống quan điểm, chủ trương, chính sách về mục
tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp của cách mạng Việt Nam. Đường lối cách mạng được thể hiện
qua cương lĩnh, nghị quyết của Đảng.
Về tổng thể, đường lối cách mạng của Đảng bao
gồm đường lối đối nội và đường lối đối ngoại.
Đường lối cách mạng của Đảng là toàn diện và
phong phú. Có đường lối chính trị chung, xuyên suốt cả quá trình cách mạng như:
đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Có đường lối cho từng
thời kỳ lịch sử như: đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; đường lối
cách mạng xã hội chủ nghĩa; đường lối cách mạng trong thời kỳ khởi nghĩa giành
chính quyền (1939 - 1945); đường lối cách mạng miền Nam trong thời kỳ chống Mỹ
(1954 - 1975); đường lối đổi mới (từ Đại hội VI, năm 1986). Ngoài ra còn có
đường lối cách mạng vạch ra cho từng lĩnh vực hoạt động như: đường lối công
nghiệp hoá; đường lối phát triển kinh tế - xã hội; đường lối văn hoá văn nghệ;
đường lối xây dựng Đảng và Nhà nước; đường lối đối ngoại...
Đường lối cách mạng của Đảng chỉ có giá trị
chỉ đạo thực tiễn khi phản ánh đúng quy luật vận động khách quan. Vì vậy, trong
quá trình lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng, Đảng phải thường xuyên chủ động nghiên
cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để kịp thời điều chỉnh, phát triển đường lối.
Nếu thấy đường lối không còn phù hợp với thực tiễn thì phải sửa đổi.
Đường lối đúng là nhân tố hàng đầu quyết định
thắng lợi của cách mạng; quyết định vị trí, uy tín của Đảng đối với quốc gia
dân tộc. Vì vậy, để tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, trước hết phải xây
dựng đường lối cách mạng đúng đắn. Nghĩa là đường lối của Đảng phải được hoạch
định trên cơ sở quan điểm lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tri thức
tiên tiến của nhân loại; phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ của thực tiễn
cách mạng Việt Nam và đặc điểm, xu thế quốc tế; phải nhằm phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân. Đường lối đúng sẽ đi vào đời sống, soi sáng thực tiễn, trở
thành ngọn cờ thức tỉnh, động viên và tập hợp quần chúng nhân dân tham gia tự
giác phong trào cách mạng một cách hiệu quả nhất; ngược lại, nếu sai lầm về
đường lối thì cách mạng sẽ bị tổn thất, thậm chí bị thất bại.
b) Đối tượng nghiên cứu môn học
Môn học Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản
Việt Nam cơ bản nghiên cứu đường lối do Đảng đề ra trong quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay. Do đó, đối tượng chủ yếu của môn học là hệ thống quan điểm, chủ trương chính
sách của Đảng trong tiến trình cách mạng Việt Nam – từ cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Môn Đường
lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam có mối quan hệ mật thiết với môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin và môn Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Vì đường lối của Đảng là sự vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Do đó. nắm vững hai
môn học này sẽ trang bị cho sinh viên tri thức và phương pháp luận khoa học để
nhận thức và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng một cách sâu
sắc và toàn diện hơn.
Mặt khác, vì đường lối cách mạng không chỉ
nói lên sự vận dụng sáng tạo các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, mà còn thể hiện sự bổ sung, phát triển và làm phong phú chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn mới của Đảng ta. Do đó,
việc nghiên cứu đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam góp phần làm
sáng tỏ vai trò nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, làm rõ sự ra đời tất yếu của
Đảng Cộng sản Việt Nam - chủ thể hoạch định đường lối cách mạng Việt Nam.
Hai là, làm rõ quá trình hình thành, bổ
sung và phát triển đường lối cách mạng của Đảng. Trong đó, đặc biệt làm rõ
đường lối của Đảng trên một số lĩnh vực cơ bản của thời kỳ đổi mới.
Ba là, làm rõ kết quả thực hiện đường
lối cách mạng của Đảng trong tiến trình cách mạng Việt Nam.
Yêu cầu đặt ra đối
với việc dạy và học môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam:
Đối với người dạy: Cần nghiên cứu đầy đủ các cương
lĩnh, nghị quyết, chỉ thị của Đảng trong toàn bộ tiến trình lãnh đạo cách mạng,
bảo đảm cập nhật hệ thống đường lối
của Đảng. Mặt khác, trong giảng dạy phải làm rõ hoàn cảnh lịch sử ra đời và sự
bổ sung, phát triển các quan điểm, chủ trương của Đảng trong tiến trình cách
mạng, gắn lý luận với thực tiễn trong quá trình giảng dạy.
Đối với người học: Cần nắm vững nội dung cơ bản
đường lối của Đảng, để từ đó lý giải những vấn đề thực tiễn và vận dụng được
quan điểm của Đảng vào cuộc sống.
Đối
với cả người dạy và người học: trên cơ sở nghiên cứu một cách hệ thống, sâu
sắc đường lối cua Đảng cùng với tri thức chuyên ngành của mình, có thể đóng góp
ý kiến cho Đảng về đường lối, chính sách, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách
mạng nước ta.
II
- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
VÀ
Ý NGHĨA CỦA VIỆC HỌC TẬP MÔN HỌC
1.
Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu môn học
(Phương pháp hiểu theo nghĩa chung nhất là
con đường, cách thức và biện pháp để đạt tới mục đích. Trong trường hợp cụ thể
của môn học Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, phương pháp nghiên
cứu được hiểu là con đường. cách thức để nhận thức đúng đắn những nội dung cơ
bản của đường lối và hiệu quà tác động của nó trong thực tiễn cách mạng Việt
Nam).
a) Cơ sở phương pháp luận
Nghiên cứu môn học Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam phải dựa trên thế
giới quan, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, các quan điểm có
ý nghĩa phương pháp luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng.
b) Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu môn học Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, trên cơ sở phương
pháp luận chung đã nêu trên, đối với mỗi nội dung cụ thể cần phải vận dụng một phương
pháp nghiên cứu phù hợp. Trong đó, sử dụng Phương pháp lịch sử và phương pháp
lôgíc là cơ bản nhất. Ngoài ra. còn phải sử dụng các phương pháp khác như phân
tích, tổng hợp, so sánh... thích hợp với từng nội dung của môn học.
2.
Ý nghĩa của việc học tập môn học
Môn Đường
lối cách mạng cua Đảng Cộng sản Việt Nam trang bị cho sinh viên những hiểu
biết cơ bản về sự ra đời của Đảng, về đường lối của Đảng trong cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là đường lối của
Đảng trong thời kỳ đổi mới.
Học tập môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam có ý nghĩa rất quan
trọng đối với việc bồi dưỡng cho sinh viên niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, định
hướng phấn đấu theo mục tiêu, lý tưởng và đường lối của Đảng, nâng cao ý thức
trách nhiệm công dân trước những nhiệm vụ trọng đại của đất nước.
Qua học tập môn Đường lối cách mạng của Đảng
Cộng sản Viết Nam, sinh viên có cơ sở vận dụng kiến thức chuyên ngành để chủ
động, tích cực giải quyết những vấn đề kinh tế chính trị, xã hội... theo đường
lối, chính sách của Đảng.
Chương I
SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM
VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN
CỦA ĐẢNG
I . HOÀN CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
1.
Hoàn cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế ký XX
a) Sự chuyến biến của chủ nghĩa tư
bản và hậu quả của nó
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã
chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (chủ nghĩa đế quốc). Các
nước tư bản đế quốc, bên trong thì tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên
ngoài thì xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị tàn
bạo của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên
cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng
gay gắt, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước
thuộc địa.
Ngày 1-8-1914, Chiến tranh thế giới thứ nhất
bùng nổ. Cuộc chiến này đã gây ra những hậu quả đau thương cho nhân dân các
nước (khoảng 10 triệu người chết, 20 triệu người tàn phế do chiến tranh), đồng
thời cũng đã làm cho chủ nghĩa tư bản suy yếu và mâu thuẫn giữa các nước đế
quốc ngày càng tăng thêm. Tình hình đó đã tạo điều kiện cho phong trào đấu
tranh ở các nước nói chung, các dân tộc thuộc địa nói riêng phát triển mạnh mẽ.
b) Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin
Vào giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân phát triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết phải có hệ thống
lý luận khoa học với tư cách là vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân trong
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Trong hoàn cảnh đó, chủ nghĩa Mác ra
đời, về sau được Lênin phát triển và trở thành chủ nghĩa Mác-Lênin.
Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ rõ, muốn giành được
thắng lợi trong cuộc đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp
công nhân phải lập ra đảng cộng sản. Sự ra đời đảng cộng sản là yêu cầu khách
quan đáp ứng cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống áp bức, bóc lột. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (năm 1848) xác
định: những người cộng sản luôn luôn đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong
trào; là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở các nước; họ hiểu
rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả của phong trào vô sản. Những nhiệm vụ
chủ yếu có tính quy luật mà chính đảng của giai cấp công nhân cần thực hiện là:
tổ chức, lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân để thực hiện mục đích
giành lấy chính quyền và xây dựng xã hội mới. Đảng phải luôn đứng trên lập
trường của giai cấp công nhân, mọi chiến lược, sách lược của Đảng đều luôn xuất
phát từ lợi ích của giai cấp công nhân. Nhưng, Đảng phải đại biểu cho quyền lợi
của toàn thể nhân dân lao động. Bởi vì giai cấp công nhân chỉ có thể giải phóng
được mình nếu đồng thời giải phóng cho các tầng lớp nhân dân lao động khác
trong xã hội.
Kể từ khi chủ nghĩa Mác-Lênin được truyền bá
vào Việt Nam, phong trào yêu nước và phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ
theo khuynh hướng cách mạng vô sản, dẫn tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản
ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin
vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ nghĩa
Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
c) Tác động của Cách mạng Tháng Mười
Nga và Quốc tế Cộng sản
Năm 1917, Cách
mạng Tháng Mười Nga giành được thắng lợi. Nhà nước Xô viết dựa trên nền
tảng liên minh công - nông dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích Nga ra đời. Với
thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, chủ nghĩa Mác-Lênin từ lý luận đã trở thành
hiện thực, đồng thời mở đầu một thời đại mới "thời đại cách mạng chống đế
quốc, thời đại giải phóng dân tộc". Cuộc Cách mạng này cổ vũ mạnh mẽ phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân các nước, và là một trong những
động lực thúc đẩy sự ra đời nhiều đảng cộng sản: Đảng Cộng sản Đức Đảng Cộng
sản Hunggari (năm 1918), Đảng Cộng sản Mỹ (năm 1919), Đảng Cộng sản Anh, Đảng
Cộng sản Pháp (năm 1920), Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Mông Cổ
(năm 1921), Đảng Cộng sản Nhật Bản (năm 1922)...
Đối với các dân tộc thuộc địa, Cách mạng
Tháng Mười đã nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức.
Về ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Cách mạng Tháng
Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân dân châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỷ nay. “Cách
mạng Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mạng thành công thì phải dân chúng
(công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải
thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin".
Tháng 3 - 1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) được thành lập. Sự ra đời của Quốc
tế Cộng sản có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế. Sơ thảo lần thứ nhất
những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được công
bố tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản vào năm 1920 đã chỉ ra phương hướng đấu tranh
giải phóng các dân tộc thuộc địa, mở ra con đường giải phóng các dân tộc bị áp
bức trên lập trường cách mạng vô sản.
Đối với việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò
quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc không những đánh giá cao sự kiện ra đời Quốc tế Cộng
sản đối với phong trào cách mạng thế giới, mà còn nhấn mạnh vai trò của tổ chức
này đối với cách mạng Việt Nam "An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất
phải nhờ Đệ tam quốc tế".
2.
Hoàn cảnh trong nước
a) Xã hội Việt Nam dưới sự thống trị
của thực dân Pháp
- Chính sách cai trị
của thực dân Pháp.
Năm 1858 thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm
lược Việt Nam. Sau khi tạm thời dập tắt được các phong trào đấu tranh của nhân
dân ta, thực dân Pháp từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam.
Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách
cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong
kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam ra thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực
hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng. Đồng thời với chính sách nham hiểm này,
thực dân Pháp câu kết với giai cấp địa chủ trong việc bóc lột kinh tế và áp bức
chính trị đối với nhân dân Việt Nam.
Về kinh tế, thực dân Pháp tiến hành cướp
đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ
sở công nghiệp; xây dựng hệ thống đường giao thông, bến cảng phụ vụ cho chính
sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Chính
sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã tạo nên sự chuyển biến của nền
kinh tế Việt Nam (hình thành một số ngành kinh tế mới...) nhưng cũng dẫn
đến hậu quả là nền kinh tế Việt Nam bị lệ thuộc vào tư bản Pháp, bị kìm hãm
trong vòng lạc hậu.
Về văn hoá, thực dân Pháp thực hiện chính
sách văn hoá, giáo dục thực dân; dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu...
Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ tội ác của chế độ cai trị thực dân ở Đông Dương: “chúng
tôi - không những bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã, mà còn bị hành hạ và
đầu độc một cách thê thảm... bằng thuốc phiện, bằng rượu... chúng tôi phải sống
trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tôi không có quyền tự do học tập".
- Tình hình giai cấp
và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam.
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính
sách kinh tế văn hoá, giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân
hoá sâu sắc.
Giai cấp địa chủ: Giai cấp địa chủ câu kết với
thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa
chủ Việt Nam lúc này có sự phân hoá, một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, căm
ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức
độ khác nhau.
Giai cấp nông dân: Giai cấp nông dân là lực lượng
đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột
nặng nề. Tình cảnh khốn khổ, bần cùng của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm
tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai, làm tăng thêm ý chí cách
mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do.
Giai cấp công nhân
Việt Nam: Ra đời
từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, giai cấp công nhân
tập trung nhiều ở các thành phố và vùng mỏ như: Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Nam
Định, Vinh, Quảng Ninh.
Đa số công nhân Việt Nam, trực tiếp xuất thân từ giai cấp nông dân,
nạn nhân của chính sách chiếm đoạt ruộng đất mà thực dân Pháp thi hành ở Việt
Nam. Vì vậy, giai cấp công nhân có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp
nông dân. Giai cấp công nhân Việt Nam bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột.
Đặc điểm nổi bật của giai cấp công nhân Việt Nam là: "ra đời trước giai
cấp tư sản dân tộc Việt Nam, và vừa lớn lên nó đã sớm tiếp thụ ánh sáng cách
mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin”.
Giai cấp tư sản Việt
Nam: Bao gồm tư
sản công nghiệp, tư sản thương nghiệp.... Trong giai cấp tư sản có một bộ phận
kiêm địa chủ.
Ngay từ khi ra đời, giai cấp tư sản Việt Nam
đã bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh, chèn ép, do đó, thế lực kinh
tế và địa vị chính trị của giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ bé và yếu ớt. Vì vậy,
giai cấp tư sản Việt Nam không đủ điều kiện để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc,
dân chủ đi đến thành công.
Tầng lớp tiểu tư sản
Việt Nam: Bao gồm
học sinh, trí thức, viên chức và những người làm nghề tự do... Trong đó, giới
trí thức và học sinh là bộ phận quan trọng của tầng lớp tiểu tư sản. Đời sống
của tiểu tư sản Việt Nam bấp bênh và dễ bị phá sản trở thành những người vô
sản. Tiểu tư sản Việt Nam có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực dân, lại chịu
ảnh hưởng của những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào. Vì vậy đây là lực
lượng có tinh thần cách mạng cao”.
Tóm lại, chính sách thống trị của thực
dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt Nam trên các lĩnh vực thính trị
kinh tế, văn hoá, xã hội. Trong đó đặc biệt là sự ra đời hai giai cấp mới là
công nhân và tư sản Việt Nam. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc
này đều mang thân phận người dân mất nước, và ở những mức độ khác nhau, đều bị
thực dân Pháp áp bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn
cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến, đã
nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản, vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống
dân tộc đó là: mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm
lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã
hội thuộc địa, nửa phong kiến. Thực tiễn lịch sử Việt Nam đặt ra hai yêu
cầu: một là, phải đánh đuổi thực dân
Pháp xâm lược giành độc lập tho dân tộc, tự do cho nhân dân; hai là, xoá bỏ chế độ phong kiến, giành
quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó, chống đế quốc giải phóng dân tộc là
nhiệm vụ hàng đầu.
b) Phong trào yêu nước theo khuynh
hướng phong kiến và tư sản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn
ra mạnh mẽ. Những phong trào tiêu biểu diễn ra trong thời kỳ này là:
Phong trào Cần Vương
(1885 - 1896):
Ngày 13 - 7 - 1885, vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương. Phong trào Cần Vương
phát triển mạnh ra nhiều địa phương ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Ngày 1 - 11 -
1888, vua Hàm Nghi bị Pháp bắt, nhưng phong trào Cần Vương vẫn tiếp tục đến năm
1896.
Cuộc khởi nghĩa Yên
Thế (Bắc Giang)
diễn ra từ năm 1884. Nghĩa quân Yên Thế đã đánh thắng Pháp nhiều trận và gây
cho chúng nhiều khó khăn, thiệt hại. Cuộc chiến đấu của nghĩa quân Yên Thế kéo
dài đến năm 1913 thì bị dập tắt.
Trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914
- 1918), các cuộc khởi nghĩa vũ trang chống Pháp của nhân dân Việt Nam vẫn tiếp
diễn, nhưng đều không thành công.
Thất bại của các phong trào trên đã chứng tỏ
giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng phong kiến không đủ điều kiện để lãnh đạo
phong trào yêu nước giải quyết thành công nhiệm vụ dân tộc ở Việt Nam.
Bên cạnh các cuộc khởi nghĩa nêu trên, đầu
thế kỷ XX, phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu tiến bộ
chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư
sản diễn ra sôi nổi. Về mặt phương pháp, tầng lớp sĩ phu lãnh đạo phong
trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX có sự phân hoá thành hai xu hướng. Một bộ
phận chủ trương đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập dân tộc, khôi phục chủ
quyền quốc gia bằng biện pháp bạo động
một bộ phận khác lại coi cải cách là
giải pháp để tiến tới khôi phục độc lập.
Đại diện của xu hướng bạo động là Phan Bội Châu, với chủ trương dùng biện pháp bạo động
để đánh đuổi thực dân Pháp khôi phục nền độc lập cho dân tộc.
Đại biểu cho xu hướng cải cách là Phan Châu Trinh, với chủ trương vận động cải cách văn
hoá, xã hội; động viên lòng yêu nước trong nhân dân; đả kích bọn vua quan phong
kiến thối nát, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản; thực hiện khai dân trí, chấn
dân khí, hậu dân sinh, mở mang dân quyền; phản đối đấu tranh vũ trang và cầu
viện nước ngoài.
Ngoài ra, trong thời kỳ này ở Việt Nam còn có
nhiều phong trào đấu tranh khác như: Phong trào Đông Kinh nghĩa thục (1907);
Phong trào "tẩy chay Khách trú”(1919); Phong trào chống độc quyền xuất
nhập khẩu ở cảng Sài Gòn (1923); đấu tranh trong các hội đồng quản hạt, hội
đồng thành phố... đòi cải cách tự do dân chủ...
Từ trong phong trào đấu tranh, các tổ chức
đảng phái ra đời: Đảng Lập hiến (năm
1923); Đảng Thanh niên (tháng 3 - 1926);
Đảng Thanh niên cao vọng (năm 1926); Việt Nam
nghĩa đoàn (năm 1925). Sau nhiều lần đổi tên, tháng 7 - 1928 lấy tên là Tân Việt cách mạng Đảng, Việt Nam quốc dân Đảng (tháng 12 - 1927).
Các đảng phái chính trị tư sản và tiểu tư sản trên đây đã góp phần thúc đẩy phong
trào yêu nước chống Pháp, trong đó nổi bật là Tân Việt cách mang Đảng và Việt
Nam quốc dân Đảng.
Tân Việt cách mạng
Đảng ra đời và
hoạt động trong bối cảnh Hội Việt Nam cách mạng thanh niên phát triển mạnh, đã
tác động mạnh mẽ đến Đảng này. Trong nội bộ Đảng diễn ra cuộc đấu tranh giữa
hai khuynh hướng: tư tưởng cách mạng vô sản và tư tưởng cải lương. Cuối cùng
khuynh hướng cách mạng theo quan điểm vô sản thắng thế. Một số đảng viên của
Tân Việt chuyển sang Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Số đảng viên tiên tiến
còn lại trong Tân Việt tích cực chuẩn bị để tiến tới thành lập một chính đảng
theo chủ nghĩa Mác-Lênin.
Việt Nam quốc dân
Đảng là một đảng
chính trị theo xu hướng dân chủ tư sản. Điều lệ Đảng ghi mục tiêu hoạt động là:
trước làm dân tộc cách mạng, sau làm thế giới cách mạng, đánh đuổi giặc Pháp,
đánh đổ ngôi vua, thiết lập nền dân quyền. Sau vụ ám sát Ba Danh, trùm mộ phu
đồn điền cao su của Pháp (tháng 2 - 1929). Đảng bị khủng bố dữ dội, tổ chức đảng
bị vỡ ở nhiều nơi. Trước tình thế nguy cấp, lãnh đạo Việt Nam quốc dân Đảng đã
quyết định dốc hết lực lượng vào trận đấu tranh sống mái với kẻ thù. Cuộc khởi
nghĩa của Việt Nam quốc dân Đảng bắt đầu từ đêm ngày 9 - 2 - 1930 ở Yên Bái,
Phú Thọ. Hải Dương, Thái Bình... trong tình thế hoàn toàn bị động nên đã bị
thực dân Pháp nhanh chóng dập tắt.
Tóm lại, trước yêu cầu lịch sử của xã hội
Việt Nam, các phong trào đấu tranh chống Pháp diễn ra sôi nỗi. Mục tiêu của các
cuộc đấu tranh ở thời kỳ này đều hướng tới giành độc lập cho dân tộc, nhưng
trên các lập trường giai cấp khác nhau nhằm khôi phục thế độ phong kiến, hoặc
thiết lập chế độ quân chủ lập hiến, hoặc cao hơn là thiết lập chế độ cộng hoà
tư sản. Các phong trào đấu tranh diễn ra với các phương thức và biện pháp khác
nhau: bạo động hoặc cải cách; với quan điểm tập hợp lực lượng bên ngoài khác
nhau: dựa vào Pháp để thực hiện cải cách, hoặc dựa vào ngoại viện để đánh
Pháp... Nhưng cuối cùng các cuộc đấu tranh đều thất bại.
Một số tổ chức thính trị theo lập trường quốc
gia tư sản ra đời và đã thể hiện vai trò của mình trong cuộc đấu tranh giành
độc lập dân tộc và dân chủ. Nhưng các phong trào và tổ chức trên do những hạn
chế về giai cấp, về đường lối chính trị; hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ; chưa
tập hợp được rộng rãi lực lượng của dân tộc, nhất là chưa tập hợp được hai lực
lượng xã hội cơ bản (công nhân và nông dân), nên cuối cùng đã không thành công.
Sự thất bại của các phong trào yêu nước theo lập trường quốc gia tư sản ở Việt
Nam đầu thế kỷ XX đã phản ánh địa vị kinh tế và chính trị yếu kém của giai cấp
này trong tiến trình cách mạng dân tộc. Phản ánh sự bất lực của họ trước những
nhiệm vụ do lịch sử dân tộc Việt Nam đặt ra.
Mặc dù bị thất bại, nhưng sự phát triển mạnh
mẽ của phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có ý nghĩa rất quan
trọng. Nó là sự tiếp nối truyền thống yêu nước kiên cường bất khuất vì độc lập
tự do của dân tộc Việt Nam và chính sự phát triển của phong trào yêu nước đã
tạo cơ sở xã hội thuận lợi cho việc tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm
cách mạng Hồ Chí Minh. Phong trào yêu nước trở thành một trong ba nhân tố dẫn
đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự thất bại của các phong trào yêu nước chống
thực dân Pháp cuối thế ký XIX đầu thế kỷ XX đã chứng tỏ con đường cứu nước theo
hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản đã bế tắc. Cách mạng Việt Nam lâm
vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối, về giai cấp lãnh đạo Nhiệm vụ
lịch sử đặt ra là phải tìm một con đường cách mạng mới, với một giai cấp có đủ
tư cách đại biểu cho quyền lợi của dân tộc, của nhân dân, có đủ uy tín và năng
lực để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến thành công.
c) Phong trào yêu nước theo khuynh
hướng vô sản
- Vai trò của Nguyễn
Ái Quốc đối với sự phát triển của phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản.
Năm 1911, Nguyễn Tất Thành (Nguyễn ái Quốc)
ra đi trên đường cứu nước. Trong quá trình trên đường cứu nước, Người đã tìm
hiểu kỹ các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới. Người đánh giá cao tư tưởng
tự do, bình đẳng, bác ái và quyền con người của các cuộc cách mạng tư sản tiêu
biểu như Cách mạng Mỹ (1776), Cách mạng Pháp (1789)... nhưng cũng nhận thức rõ
những hạn chế của các cuộc cách mạng tư sản. Từ đó, Nguyễn ái Quốc khẳng định
con đường cách mạng tư sản không thể đưa lại độc lập và hạnh phúc thực sự cho
nhân dân các nước nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng.
Nguyễn ái Quốc đặc biệt quan tâm tìm hiểu
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Người rút ra kết luận: “Trong thế giới bây
giờ chỉ có Cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân
chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật".
Vào tháng 7 - 1920, Nguyễn ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn
đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân đạo. Người tìm thấy trong Luận cương của Lênin lời giải đáp về
con đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam về vấn đề thuộc địa trong mối quan
hệ với phong trào cách mạng thế giới... Nguyễn ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin.
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12 - 1920),
Nguyễn ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia
thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời
hoạt động cách mạng của Người - từ người yêu nước trở thành người cộng sản và
tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn: “Muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng
vô sản”.
Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối
với phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin,
vạch phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và muốn bị điều kiện để thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nguyễn ái Quốc tích cực truyền bá Chủ nghĩa
Mác-Lênin vào Việt Nam thông qua những bài đăng trên các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân
và xuất bản một số tác phẩm. Đặc biệt là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp
(năm 1925). Tác phẩm này đã vạch rõ âm mưu và thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc, khơi
dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, thức tỉnh tinh thần dân tộc nhằm đánh đuổi thực
dân Pháp xâm lược.
Tháng 11 - 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng
Châu (Trung Quốc). Tháng 6 - 1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên. Chương trình và Điều lệ của Hội nêu rõ mục đích là: làm cách mạng dân tộc
và cách mạng thế giới. Sau khi cách mạng thành công, Hội chủ trương thành lập
Chính phủ nhân dân, mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, tiến lên xây dựng xã hội
cộng sản chủ nghĩa; thực hiện đoàn kết với giai cấp vô sản các nước, với phong
trào cách mạng thế giới.
Từ năm 1925 đến năm 1927, Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên đã mở các lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ cách mạng Việt
Nam. Hội đã xây dựng được nhiều cơ sở ở các trung tâm kinh tế, chính trị trong
nước. Năm 1928, Hội thực hiện chủ trương "vô sản hoá", đưa hội viên
vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền đe rèn luyện lập trường, quan điểm giai cấp công
nhân; để truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và lý luận giải phóng dân tộc nhằm thúc
đẩy sự phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam.
Ngoài việc trực tiếp huấn luyện cán bộ của
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Nguyễn ái Quốc còn lựa chọn những thanh niên
Việt Nam ưu tú gửi đi học tại trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) và trường
Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc) nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
Cùng với việc đào tạo cán bộ, Nguyễn ái Quốc
đã tổ chức ra các tờ báo Thanh niên, công
nông, Lính cách mệnh, Tiền phong nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào
Việt Nam. Quan điểm cách mạng của Nguyễn ái Quốc đã thức tỉnh và giác ngộ quần
thúng, thúc đẩy phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân phát triển theo con
đường cách mạng vô sản.
Năm 1927, Bộ Tuyên truyền của Hội trên hiệp
các dân tộc bị áp bức xuất bản tác phẩm Đường cách mệnh (tập hợp các bài giảng
của Nguyễn ái Quốc ở lớp huấn luyện chính trị của Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên).
Đường cách mênh chỉ rõ tính chất và nhiệm vụ của
cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc mở đường tiến lên chủ nghĩa
xã hội. Hai cuộc cách mạng này có quan hệ mật thiết với nhau; cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người,
do đó phải đoàn kết toàn dân. Nhưng cái cốt của nó là công - nông và phải luôn
ghi nhớ rằng công nông là người chủ cách mệnh, công nông là gốc cách mệnh.
Nguyễn ái Quốc khẳng định: Muốn thắng lợi thì
cách mạng phải có một đảng lãnh đạo, Đảng có vững cách mạng mới thành công cũng
như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ
nghĩa làm cốt; chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ
nghĩa Lênin.
Về vấn đề đoàn kết quốc tế của cách mạng Việt
Nam, Nguyễn Ái Quốc xác định: "Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong
cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An
Nam cả".
Về phương pháp cách mạng, Người nhấn mạnh đến
việc phải giác ngộ và tổ chức quần chúng cách mạng. Phải làm cho quần chúng
hiểu rõ mục đích cách mạng, biết đồng tâm hiệp lực để đánh đổ giai cấp áp bức
mình, làm cách mạng phải biết cám làm, phải có "mưu chước", có như
thế mới bảo đảm thành công cho cuộc khởi nghĩa với sự nổi dậy của toàn dân...
Tác phẩm Đường
cách mệnh đã đề cập những vấn đề cơ bản của một cương lĩnh chính trị, chuẩn
bị về tư tưởng chính trị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đường cách
mênh có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với cách mạng Việt Nam.
- Sự phát triển
phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản.
Từ đầu thế kỷ XX, cùng với sự phát triển của
phong trào dân tộc trên lập trường tư sản, phong trào công nhân chống lại sự áp
bức bóc lột của tư sản thực dân cũng diễn ra từ rất sớm. Trong những năm 1919 -
1925, phong trào công nhân diễn ra dưới các hình thức đình công, bãi công, tiêu
biểu như các cuộc bãi công của công nhân Ba Son (Sài Gòn) do Tôn Đức Thắng tổ
chức (1925) và cuộc bãi công của công nhân nhà máy sợi Nam Định ngày 30 - 4 - 1925,
đòi chủ tư bản phải tăng lương, phải bỏ đánh đập, giãn đuổi thợ...
Nhìn chung, phong trào công nhân những năm
1919 - 1925 đã có bước phát triển mới so với trước Chiến tranh thế giới lần thứ
nhất. Hình thức bãi công đã trở nên phổ biến, diễn ra trên quy mô lớn hơn và
thời gian dài hơn.
Trong những năm 1926 - 1929, phong trào công
nhân đã có sự lãnh đạo của các tổ chức như Hội Việt Nam cách mạng thanh niên,
Công hội đỏ và các tổ chức cộng sản ra đời từ năm 1929. Các cuộc đấu tranh của
công nhân mang tính chất chính trị rõ rệt. Mỗi cuộc đấu tranh đã có sự liên kết
giữa các nhà máy, các ngành và các địa phương. Phong trào công nhân có sức lôi
cuốn phong trào dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
Cũng vào thời gian này, phong trào yêu nước
phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là phong trào nông dân diễn ra ở nhiều nơi trong
cả nước. Năm 1927, nông dân làng Ninh Thanh Lợi (Rạch Giá) đấu tranh chống bọn
thực dân và địa chủ chiếm đất, nông dân các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình,
Thái Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh đấu tranh chống bọn địa chủ cướp đất, đòi chia
ruộng công... Phong trào nông dân và công nhân đã hỗ trợ lẫn nhau trong cuộc
đấu tranh chống thực dân, phong kiến. "Điều đặc biệt và quan trọng nhất
trong phong trào cách mạng ở Đông Dương là sự tranh đấu của quần chúng công
nông có tính chất độc lập rất rõ rệt, chớ không phải là chịu ảnh hưởng quốc gia
chủ nghĩa như lúc trước nữa”.
- Sự ra đời các tổ
chức cộng sản ở Việt Nam
Trước sự phát triển của phong trào công nhân
và phong trào yêu nước, cuối tháng 3 - 1929, ở Hà Nội, một số hội viên tiên
tiến của tổ chức Thanh niên ở Bắc Kỳ đã lập ra Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam,
do đồng chí Trần Văn Cung làm Bí thư Chi bộ.
Tại Đại hội lần thứ nhất của Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên (tháng 5 - 1929) đã xảy ra bất đồng giữa các đoàn đại biểu
về vấn đề thành lập đảng cộng sản, mà thực chất là sự khác nhau giữa những đại
biểu muốn thành lập ngay một đảng cộng sản và giải thể tổ chức Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên, với những đại biểu cũng muốn thành lập đảng cộng sản,
nhưng "không muốn tổ chức đảng ở giữa Đại hội Thanh niên và cũng không
muốn phá Thanh niên trước khi lập được đảng". Trong bối cảnh đó các tổ
chức cộng sản ở Việt Nam ra đời.
Đông Dương Cộng sản
Đảng: Ngày 17 - 6
- 1929, tại Hà Nội, đại biểu các tổ chức cộng sản ở miền Bắc họp Đại hội quyết
định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng. Tuyên ngôn của Đảng nêu rõ: Đảng Cộng
sản Đông Dương tổ chức đại đa số và thực hành công nông liên hiệp mục đích để
đánh đổ đế quốc chủ nghĩa; đánh đổ tư bản chủ nghĩa; diệt trừ chế độ phong
kiến; giải phóng công nông; thực hiện xã hội bình đẳng, tự do, bác ái, tức là
xã hội cộng sản.
An Nam Cộng sản Đảng: Trước sự ra đời của Đông Dương
Cộng sản Đảng và để đáp ứng yêu cầu của phong trào cách mạng, mùa thu năm 1929,
các đồng chí trong Hội Việt Nam cách mạng thanh niên hoạt động ở Trung Quốc và
Nam Kỳ đã thành lập An Nam Cộng san Đảng. Về điều kiện kết nạp đảng viên, Điều
lệ của Đảng viết: phải tin theo chương trình của Quốc tế Cộng sản, hăng hái
phấn đấu trong một bộ phận đảng, phục tùng mệnh lệnh đảng và góp nguyệt phí, có
thể cho vào đảng được".
Đông Dương Cộng sản
Liên đoàn: Việc
ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đã làm cho nội bộ
Đảng Tân Việt phân hoá mạnh mẽ, những đảng viên tiên tiến của Tân Việt đã thành
lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Tuyên đạt của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn
(tháng 9 - 1929), nêu rõ: Đông Dương Cộng sản Liên đoàn lấy chủ nghĩa cộng sản
làm nền móng, lấy công, nông, binh liên hiệp làm đối tượng vận động cách mệnh
để thực hành vận động cách mệnh cộng sản trong xứ Đông Dương, làm cho xứ sở của
chúng ta hoàn toàn độc lập, xoá bỏ nạn người bóc lột áp bức người, xây dựng chế
độ Công Nông chuyên chính tiến lên cộng sản chủ nghĩa trong toàn xứ Đông
Dương".
Mặc dù đều giương cao ngọn cờ chống đế quốc,
phong kiến, xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam, nhưng ba tổ chức cộng sản
trên đây hoạt động phân tán, chia rẽ đã ảnh hưởng xấu đến phong trào cách mạng
ở Việt Nam lúc này. Vì vậy, việc khắc phục sự chia rẽ, phân tán giữa các tổ
chức cộng sản là yêu cầu khẩn thiết của cách mạng nước ta. là nhiệm vụ cấp bách
trước mắt của tất cả những người cộng sản Việt Nam.
II - HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG VÀ
CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
1.
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Đến cuối năm 1929, những người cách mạng Việt
Nam trong các tổ chức cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải
thành lập một đảng cộng sản thống nhất, chấm dứt sự chia rẽ trong phong trào
cộng sản ở Việt Nam. Điều này phản ánh quá trình tự ý thức của những người cộng
sản Việt Nam về nhu cầu phải thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng
cộng sản duy nhất.
Ngày 27 - 10 - 1929, Quốc tế Cộng sản gửi
những người Cộng sản Đông Dương tài liệu Về
việc thành lập một Đảng cộng sản ở Đông Dương, yêu cầu những người cộng sản
Đông Dương phải khắc phục ngay sự chia rẽ giữa các nhóm cộng sản và thành
lập một đảng của giai cấp vô sản. Quốc tế Cộng sản chỉ rõ phương thức để tiến
tới thành lập đảng là phải bắt đầu từ việc xây dựng các chi bộ trong các nhà
máy, xí nghiệp; chỉ rõ mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Đông Dương với phong trào
cộng sản quốc tế.
Nhận được tin về sự chia rẽ của những người
cộng sản ở Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm đến Trung Quốc. Người chủ trì
Hội nghị hợp nhất Đảng, họp từ ngày 6-1 đến ngày 7-2-1930, tại Hương Cảng,
Trung Quốc.
Thành phần Hội nghị hợp nhất gồm: 1 đại biểu
của Quốc tế Cộng sản; 2 đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng. 2 đại biểu An
Nam Cộng sản Đảng. Hội nghị thảo luận đề nghị của Nguyễn Ái Quốc gồm năm điểm
lớn, với nội dung:
“1. Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật
hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản ở Đông Dương;
2. Định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam;
3. Thảo Chính cương và Điều lệ sơ lược của
Đảng;
4. Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất
trong nước;
5. Cử một Ban Trung ương lâm thời gồm chín
người, trong đó có hai đại biểu chi bộ cộng sản Trung Quốc ở Đông Dương".
Hội nghị nhất trí với Năm điểm lớn theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc và quyết định hợp nhất
các tổ chức cộng sản lấy tên là Đảng Cộng
sản Viêt nam.
Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện:
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị quyết định phương châm, kế hoạch
thống nhất các tổ chức cộng sản trong nước, quyết định ra báo, tạp chí của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Ngày 24 - 2 - 1930, theo yêu cầu của Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn, Ban Chấp hành Trung ương Lâm thời họp và ra Nghị quyết chấp nhận Đông Dương Cộng sản
Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, đến ngày 24 - 2 - 1930,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã hoàn tất việc hợp nhất ba tổ chức cộng sản ở Việt
Nam.
2.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam
Các văn kiện được thông qua tại Hội nghị
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam như: Chánh
cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của
Đảng hợp thành Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xác định các vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam:
Phương hướng chiến
lược của cách mang Việt Nam là: “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản".
Nhiệm vụ của cách
mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng:
Về chính trị: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp
và bọn phong kiến; làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; lập chính phủ
công nông binh, tổ chức quân đội công nông.
Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái;
tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của
tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý;
tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân
cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp;
thi hành luật ngày làm 8 giờ.
Về văn hoá - xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức;
nam nữ bình quyền, v.v. phổ thông giáo dục theo công nông hoá.
Về lực lượng cách
mạng: Đảng phải
thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm
thổ địa cách mạng, đánh đổ bọn đại địa chủ và phong kiến; phải làm cho các đoàn
thể thợ thuyền và dân cày (công hội, hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh
hưởng của bọn tư bản quốc gia; phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức,
trung nôn, Thanh niên, Tân Việt. v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Đối
với phú nông, Trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách
mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm tho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra
mặt phản cách mạng (như Đảng lập hiến v.v.) thì phải đánh đổ
Về lãnh đạo cách
mạng: Giai cấp vô
sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đảng là đội tiên phong của giai
cấp vô sản phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai
cấp mình lãnh đạo được dân chúng; trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất
cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào
con đường thoả hiệp.
Về quan hệ của cách
mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới, phải thực hành liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô
sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
3.
Ý nghĩa lịch sử sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời thể
hiện bước phát triển biện chứng quá trình
vận động của cách mạng Việt Nam; sự phát triển từ Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên đến ba tổ chức cộng sản, đến Đảng Cộng sản Việt Nam trên nền tảng chủ
nghĩa Mác – Lênin và quan điểm cách mạng Nguyễn Ái Quốc.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt
Nam đã quy tụ ba tổ chức cộng sản thành một đảng cộng sản duy nhất Đảng Cộng
sản Việt Nam - theo một đường lối chính trị đúng đắn, tạo nên sự thống nhất về
tư tưởng, chính trị và hành động của phong trào cách mạng cả nước, hướng tới
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất
yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò
lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách
mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là "một bước ngoặt vô
cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp
vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng".
Về quá trình ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát: “Chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng cộng sản Đông Dương vào đầu năm
1930".
Thực tế lịch sử cho thấy, trong quá trình
chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh không chỉ vận dụng sáng tạo, mà còn bổ
sung, phát triển học thuyết Mác-Lênin về đảng cộng sản. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) chỉ rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam là sản
phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước của nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hố Chí Minh là hiện thân trọn vẹn nhất
cho sự kết hợp đó, là tiêu biểu sáng ngời cho sự kết hợp giai cấp và dân tộc,
dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội".
Ngay từ khi ra đời, Đảng đã có cương lĩnh
chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo
phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra
đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được
tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng
diễn ra đầu thế kỷ XXI mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất
nước Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng
chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới,
đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách
mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân
thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thực tiễn quá trình vận động của
cách mạng Việt Nam trong gần 90 năm qua đã chứng minh rõ tính khoa học và tính
cách mạng, tính đúng đắn và tiến bộ của Cương lĩnh chinh strị đầu tiên của
Đảng.
Chương 2:
ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH
QUYỀN (1930 - 1945)
I. CHỦ TRƯƠNG ĐẤU TRANH TỪ NĂM
1930 ĐẾN NĂM 1939
1.
Trong những năm 1930 - 1935
a) Luận cương chính trị tháng 10-1930
Tháng 4 - 1930, sau thời gian học tập ở Liên
Xô, Trần Phú được Quốc tế Cộng sản cử về nước hoạt động. Tháng 7 - 1930. Trần
Phú được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Từ ngày 14 đến ngày 30 - 10
- 1930. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương họp lần thứ nhất tại Hương Cảng
(Trung Quốc) do Trần Phú chủ trì. Hội nghị đã thông qua Nghị quyết về tình hình
và nhiệm vụ cần kíp của Đảng; thảo luận Luận cương chính trị của Đảng, Điều lệ
Đảng và điều lệ các tổ chức quần chúng. Thực hiện chỉ thị của Quốc tế Cộng sản.
Hội nghị quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông
Dương. Hội nghị cử ra Ban Chấp hành Trung ương chính thức và cử Trần Phú làm
Tổng Bí thư.
Nội dung của Luận cương.
- Đã phân tích đặc điểm, tình hình xã hội
thuộc địa nửa phong kiến và nêu lên những vấn đề cơ bản của cách mạng tư sản
dân quyền ở Đông Dương do giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Chỉ rõ mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt
giữa một bên là thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ với một bên là địa
chủ phong kiến và tư bản đế quốc.
- Vạch ra phương hướng chiến lược của cách
mạng Đông Dương là: lúc đầu cách mạng Đông Dương là một cuộc cách mạng tư sản
dân quyền", có tính chất thổ địa và phản đế, "tư sản dân quyền cách
mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng", sau khi cách mạng tư sản
dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bản mà tranh đấu
thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa".
- Khẳng định nhiệm vụ của cách mạng tư sản
dân quyền là: Đánh đổ phong kiến, thực hành cách mạng ruộng đất triệt để và
đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai nhiệm
vụ chiến lược đó có quan hệ khăng khít với nhau, vì có đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa mới phá được giai cấp địa chủ, để tiến hành cách mạng thổ địa thắng lợi,
và có phá tan được chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa.
Trong hai nhiệm vụ này, Luận cương xác định: "Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền" và
là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.
- Về
lực lượng cách mạng, giai cấp vô sản vừa là động lực chính của cách mạng tư
sản dân quyền, vừa là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Dân cày là lực lượng đông
đảo nhất và là động lực mạnh của cách mạng. Tư sản thương nghiệp thì đứng về
phe đế quốc và địa chủ chống lại cách mạng, còn tư sản công nghiệp thì đứng về
phía quốc gia cải lương và khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ theo đế quốc.
Trong giai cấp tiểu tư sản, bộ phận thủ công nghiệp thì có thái độ do dự, tiểu
tư sản thương gia thì không tán thành cách mạng, tiểu tư sản trí thức thì có xu
hướng quốc gia chủ nghĩa và chỉ có thể hăng hái tham gia chống đế quốc trong
thời kỳ đầu. Chỉ có các phần tử lao khổ ở đô thị như những người bán hàng rong,
thợ thủ công nhỏ, trí thức thất nghiệp mới đi theo cách mạng mà thôi.
- Về
phương pháp cách mạng, để đạt được mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng là
đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay công nông thì phải ra
sức chuẩn bị cho quần chúng về con đường "võ trang bạo động". Võ
trang bạo động để giành thính quyền là một nghệ thuật. “phải tuân theo khuôn
phép nhà binh".
- Về
quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, cách mạng Đông
Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, vì thế giai cấp vô sản Đông
Dương phải đoàn kết gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước hết là giai cấp
vô sản Pháp, và phải mật thiết liên lạc với phong trào cách mạng ở các nước
thuộc địa và nửa thuộc địa nhằm mở rộng và tăng cường lực lượng cho cuộc đấu
tranh cách mạng ở Đông Dương.
- Về
vai trò lãnh đao của Đảng, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là điều kiện cốt
yếu cho thắng lợi của cách mạng. Đảng phải có đường lối chính trị đứng đắn, có
kỷ luật tập trung, liên hệ mật thiết với quần chúng. Đảng là đội tiên phong của
giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng, đại biểu chung
cho quyền lợi của giai cấp vô sản ở Đông Dương, đấu tranh để đạt được mục đích
cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Ý nghĩa của Luận
cương.
Từ nội dung cơ bản nêu trên, có thể thấy.
Luận cương chính trị khẳng định lại nhiều vấn đề căn bản thuộc về chiến lược
cách mạng mà Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt đã nêu ra. Bên cạnh
mặt thống nhất cơ bản, giữa Luận cương chánh trị với Chánh cương vắn tắt và
sách lược vắn tắt có mặt khác nhau. Luận cương chính trị không nêu ra được mâu
thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp, từ đó không
đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu; đánh giá không đúng vai trò cách mạng
của tầng lớp tiểu tư sản phủ nhận mặt tích cực của tư sản dân tộc và chưa thấy
được khả năng phân hóa, lôi kéo một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ trong cách mạng
giải phóng dân tộc. Từ đó Luận cương đã không đề ra được một chiến lược liên
minh dân lộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược
và tay sai.
Nguyên nhân chủ yếu của những mặt khác nhau: Thứ nhất Luận cương chính trị chưa tìm
ra và nắm vững những đặc điểm của xã hội thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam. Thứ hai do nhận thức giáo điều, máy móc
về vấn đề dân tộc và giai cấp trong cách mạng ở thuộc địa, và lại chịu ảnh
hưởng trực tiếp khuynh hướng "tả" của Quốc tế Cộng sản và một số đảng
cộng sản trong thời gian đó. Chính vì vậy, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
tháng 10 - 1930 đã không chấp nhận những quan điểm mới, sáng tạo, độc lập tự
chủ của Nguyễn Ái Quốc được nêu trong Đường
Cách mệnh, Chánh cương vắn tắt và
Sách lược vắn tắt. Ngày 18-11-1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã chỉ
thị thành lập Hội phản đế đồng minh, nêu lên tư tưởng chiến lược cách mạng đúng
đắn của Đảng, coi việc đoàn kết toàn dân thành một lực lượng thật rộng rãi, lấy
công – nông làm hai động lực chính, là một nhân tố quyết định của cách mạng
giải phóng dân tộc. Chỉ thị phê phán những nhận thức sai lầm trong Đảng đã tách
rời vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, nhận thức không đúng về vấn đề đoàn kết
dân tộc, về vai trò của Hội phản đế đồng minh trong cách mạng ở thuộc địa.
b) Chủ trương khôi phục tổ chức đảng
và phong trào cách mạng
Vừa mới ra đời, Đảng đã phát động được một
phong trào cách mạng rộng lớn, mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ - Tĩnh. Cao trào
cách mạng 1930-1931 đã tập hợp được đông đảo quần chúng công – nông, chĩa mũi
nhọn đấu tranh vào bọn đế quốc, với hình thức quyết liệt khắp cả Bắc, Trung,
Nam, làm rung chuyển nền thống trị của chúng. Riêng ở hai tỉnh Nghệ An và Hà
Tĩnh chính quyền địch ở nhiều làng xã bị tan rã, trở thành các làng đỏ do nhân
dân làm chủ, xuất hiện chính quyền của nhân dân, mô phỏng theo các Xô viết
trong cách mạng Nga, đưa lại nhiều lượi ích thiết thực cho nhân dân. Giữa lúc
phong trào cách mạng của quần chúng đang dâng cao, đế quốc Pháp và tay sai đã
thẳng tay đàn áp, khủng bố hòng dập tắt phong trào cách mạng Việt Nam và tiêu
diệt Đảng cộng sản Đông Dương.
Hàng nghìn chiến sĩ cộng sản, hàng vạn quần
chúng yêu nước bị bắt, bị giết hoặc bị tù đày. Các cơ quan lãnh đạo của Đảng ở
Trung ương và các địa phương lần lượt bị phá vỡ. Toàn bộ Ban Chấp hành Trung
ương bị bắt. Tòa án của chính quyền thực dân Pháp mở các phiên tòa đặc biệt để
xét xử những người cách mạng.
Tuy bị địch khủng bố ác liệt, Đảng ta và quần
chúng cách mạng bị tổn thất nặng nề, song thành quả lớn nhất của phong trào
cách mạng 1930 - 1931 mà quân thù không thể xóa bỏ được là: Đã khẳng định trong
thực tế quyền lãnh đạo và năng lực lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân
thông qua Đảng tiền phong của mình; đã đem lại cho nông dân niềm tin vững chắc
vào sự lãnh đạo của Đảng. Cao trào cũng đem lại cho quần chúng đông đảo, trước
hết là công - nông lòng tự tin ở sức lực cách mạng của bản thân mình dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Nhờ tinh thần và nghị lực phi thường được rèn luyện qua thực
tiễn đấu tranh cách mạng trong những năm 1930 - 1931, Đảng ta và quần chúng
cách mạng đã vượt qua thử thách khó khăn, từng bước khôi phục tổ chức đảng và
phong trào cách mạng.
Sự khủng bố của kẻ thù không làm những chiến
sĩ cách mạng và quần chúng yêu nước từ bỏ con đường cách mạng. Trong bối cảnh
đó, một số cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân vẫn nổ ra, nhiều chi bộ đảng
ở trong nhà tù vẫn được thành lập hệ thống tổ chức đảng từng bước được phục
hồi.
Mặc dù bị thực dân Pháp khủng bố tàn bạo, một
số tổ chức đảng ở Cao Bằng, Sơn Tây, Hà Nội. Hải Phòng, Nam Định Thái Bình,
Thanh Hóa, Quảng Tư, Quảng Nam, Quảng Ngãi và nhiều nơi khác ở miền Nam vẫn
được duy trì và bám chắc quần chúng để hoạt động. Nhiều đảng viên vượt tù đã
tích cực tham gia khôi phục Đảng và lãnh đạo quần chúng đấu tranh.
Các Xứ ủy Bắc Kỳ, Nam Kỳ, Trung Kỳ bị thực
dân Pháp phá vỡ nhiều lần, đã lần lượt được lập lại trong năm 1931 và 1933.
Nhiều tỉnh ủy, huyện ủy, chi bộ lần rượt được phục hồi. Ở miền núi phía Bắc,
một số tổ chức của Đảng được thành lập.
Đầu năm 1932, trước tình hình các Uỷ viên Ban
Chấp hành Trung ương Đảng và hầu hết Uỷ viên các Xứ ủy Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ
bị địch bắt và nhiều người đã hy sinh, theo Chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Lê
Hồng Phong cùng một số đồng chí chủ chốt ở trong và ngoài nước tổ chức ra Ban
lãnh đạo Trung ương của Đảng. Tháng 6 - 1932, Ban lãnh đạo Trung ương đã công
bố Chương trình hành động của Đảng cộng sản Đông Dương.
Chương trình hành động đã đánh giá hai năm
đấu tranh của quần chúng công - nông và khẳng định: Công nông Đông Dương dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản sẽ nổi lên võ trang bạo động thực hiện những
nhiệm vụ chống đế quốc, chống phong kiến và tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã
hội. Để chuẩn bị cho cuộc võ trang bạo động sau này, Đảng phải đề ra và lãnh
đạo quần chúng đấu tranh giành những quyền lợi thiết thực hàng ngày, rồi dần
đưa quần chúng tiến lên đấu tranh cho những yêu cầu chính trị cao hơn. Những
yêu cầu chung trước mắt của đông đảo quần thúng được nêu lên trong Chương trình hành động là: thứ nhất, đòi các quyền tự do tổ thức,
xuất bản, ngôn luận, đi lại trong nước và ra nước ngoài; thứ hai, bỏ những luật hình đặc biệt đối với người bản xứ trả tự do
cho tù chính trị, bỏ ngay chính sách đàn áp, giải tán Hội đồng đề hình; thứ ba, bỏ thuế thân, thuế ngụ cư và các
thứ thuế vô lý khác; thứ tư, bỏ các
độc quyền về rượu, thuốc phiện và muối.
Chương trình hành
đông còn đề ra
những yêu cầu cụ thể riêng cho từng giai cấp và tầng lớp nhân dân; vạch rõ phải
ra sức tuyên truyền mở rộng ảnh hưởng của Đảng trong quần chứng, củng cố và
phát triển các đoàn thể cách mạng, nhất là công hội và nông hội; dẫn dắt quần
chúng đấu tranh cho những quyền lợi hàng ngày tiến lên đấu tranh chính trị,
chuẩn bị cho khởi nghĩa giành chính quyền khi có điều kiện; trong xây dựng
Đảng, phải làm cho Đảng vững mạnh, có kỷ luật nghiêm, giáo dục đảng viên về tư
tưởng, chính trị, rèn luyện đảng viên qua đấu tranh cách mạng... Cuộc đấu tranh
trên mặt trân tư tưởng cũng được Đảng quan tâm lãnh đạo, nhất là chống chủ
nghĩa duy tâm, “nghệ thuật vị nghệ thuật”, thực hiện “nghệ thuật vị nhân sinh”.
Những yêu cầu chính trị trước mắt cùng với
những biện pháp tổ chức và đấu tranh do Đảng vạch ra trong Chương trình hành
động năm 1932 phù hợp với điều kiện lịch sử lúc bấy giờ. Nhờ vậy, phong trào
cách mạng của quần chúng và hệ thống tổ chức của Đảng đã nhanh thắng được khôi
phục.
Tháng 31935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất
của Đảng họp ở Ma Cao (Trung Quốc). Đại hội khẳng định thắng lợi của cuộc đấu
tranh khôi phục phong trào cách mạng và hệ thống tổ thức Đảng. Đại hội đề ra ba
nhiệm vụ trước mắt là: củng cố và phát triển Đảng, đẩy mạnh cuộc vận động thu
phục quần chúng mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh ủng hộ
Liên Xô, ủng hộ cách mạng Trung Quốc... Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương
Đảng gồm 13 ủy viên, do đông chí Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư. Thành công của
Đại hội đã khẳng định trên thực tế phong trào cách amngj và hệ thống tổ chức
Đảng đã được khôi phục, mở ra một giai đoạn mới của cách mạng Đông Dương.
2.
Trong những năm 1936-1939
a) Hoàn cảnh lịch sử
Tình hình thế giới.
Cuộc khủng hoảng kinh tế trong những năm 1929
- 1933 ở các nước thuộc hệ thống tư bản chủ nghĩa đã làm cho mâu thuẫn nội tại
của chủ nghĩa tư bản ngày càng gay gắt và phong trào cách mạng của quần chúng
dâng cao.
Chủ nghĩa phát xít đã xuất hiện và thắng thế
ở một số nơi như phát xít Hít le ở Đức, phát xít Phrăngcô ở Tây Ban Nha, phát
xít Mútxôlini ở Italia và phái Sĩ quan trẻ ở Nhật Bản. Chế độ độc tài phát xít
là nền chuyên chính của những thế lực phản động nhất, sôvanh nhất, tàn bạo và
dã man nhất. Chúng tiến hành chiến tranh xâm lược, bành trướng và nô dịch các nước
khác. Tập đoàn phát xít cầm quyền ở Đức, Ý và Nhật đã liên kết với nhau thành
khối mục", ráo riết chuẩn bị chiến tranh để chia lại thị trường thế giới
và thực hiện mưu đồ tiêu diệt Liên Xô - thành trì cách mạng thế giới - nhằm hy
vọng đẩy lùi phong trào cách mạng vô sản đang phát triển mạnh mẽ. Nguy cơ chủ
nghĩa phát xít và chiến tranh thế giới đe dọa nghiêm trọng nền hòa bình và an
ninh quốc tế
Trước tình hình đó, Đại hội lần thứ VII của
Quốc tế Cộng sản họp tại Mátxcơva (tháng 7 - 1935) dưới sự chủ trì của
G.Đimitơrốp. Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương do Lê Hồng Phong dẫn đầu đã
tham dự Đại hội.
Đại hội xác định kẻ thù nguy hiểm trước mắt của giai cấp vô sản và nhân dân lao động
thế giới lúc này chưa phải là chủ nghĩa đế quốc nói chung, mà là chủ nghĩa phát xít. Đại hội vạch ra
nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới lúc này
chưa phải là đấu tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản, giành chính quyền. mà là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, bảo vệ dân chủ và hòa bình.
Để thực hiện nhiệm vụ cấp bách đó, các đảng
cộng sản và nhân dân các nước trên thế giới phải thống nhất hàng ngũ của mình, lập mặt trận nhân dân rộng rãi chồng phát
xít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ hòa bình và cải thiện đời sống.
Đối với các nước thuộc địa và nửa thuộc địa,
Đại hội chỉ rõ: Do tình hình thế giới và trong nước thay đổi nên vấn để lập một trận thống nhất chống đế quốc có tầm
quan trọng đặc biệt.
Tình hình trong
nước.
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933 đã tác
động sâu sắc không những đến đời sống các giai cấp và tầng lớp nhân dân lao
động, mà còn đến cả những nhà tư sản, địa chủ hạng vừa và nhỏ. Trong khi đó,
bọn cầm quyền phản động ở Đông Dương vẫn ra sức vơ vét, bóc lột, bóp nghẹt mọi
quyền tự do, dân chủ và thi hành chính sách khủng bố, đàn áp phong trào đấu
tranh của nhân dân ta.
Tình hình trên đây làm cho các giai cấp và
tầng lớp tuy có quyền lợi khác nhau, nhưng đều căm thù thực dân, tư bản độc
quyền Pháp, và đều có nguyện vọng chung trước mắt là đấu tranh đòi được quyền
sống, quyền tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Trong lúc này, hệ thống tổ chức
của Đảng và các cơ sở cách mạng của quần chúng đã được khôi phục. Mặt khác,
Chính phủ Mặt trân j bình dân Pháp ban hành một số chính sách dân chủ có lợi
cho các thuộc địa. Đây là yếu tố rất quan trọng, quyết định bước phát triển mới
của phong trào cách mạng nước ta.
b) Chủ trương và nhận thức mới của
Đảng
Trước những biến chuyển của tình hình trong
nước và thế giới, đặc biệt dưới ánh sáng của chủ trương chuyển hướng chiến lược
của Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản, trong những năm 1936 - 1939, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp Hội nghị lần thứ hai (tháng 7 -
1936), lần thứ ba (tháng 3 - 1937), lần thứ tư (tháng 9 - 1937) và lần thứ năm
(tháng 3 - 1938)... đề ra những chủ trương mới về chính trị, tổ chức và hình
thức đấu tranh mới phù hợp với tình hình cách mạng nước ta.
Chủ trương đấu tranh
đòi quyền dân chủ, dân sinh:
Ban Chấp hành Trung ương xác định cách mạng ở
Đông Dương vẫn là cách mạng tư sản dân quyền - phản đế và điền địa - lập chính
quyền của công nông bằng hình thức Xô viết để dự bị điều kiện đi tới cách mạng
xã hội chủ nghĩa". Song, xét rằng, cuộc vận động quần chúng hiện thời cả
về chính trị và tổ chức chưa tới trình độ trực tiếp đánh đổ đế quốc Pháp, lập
chính quyền công nông, giải quyết vấn đề điền địa. Trong khi đó, yêu cầu cấp
thiết trước mắt của nhân dân ta lúc này là tự do, dân chủ, cải thiện đời sống.
Vì vậy, Đảng phải nắm lấy những yêu cầu này để phát động quần chúng đấu tranh,
tạo tiền đề đưa cách mạng tiến lên bước cao hơn sau này.
Về kẻ thù của cách
mạng: Kẻ thù
trước mắt nguy hại nhất của nhân dân Đông Dương cần tập trung đánh đổ là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của
chúng.
Về nhiệm vụ trước
mắt của cách mạng:
Chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống bọn phản động thuộc địa và tay
sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Để thực hiện những nhiệm vụ trước
mắt của cách mạng, Ban Chấp hành Trung ương quyết định thành lập Mặt trận nhân
dân phản đế, bao gồm các giai cấp, dân tộc, đảng phái, đoàn thể chính trị, xã
hội và tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, với nòng cốt là liên minh công - nông. Để
phù hợp với yêu cầu tập hợp lực lượng cách mạng trong tình hình mới, Mặt trận
nhân dân phản đế đã được đổi tên thành Mặt trận dân chủ Đông Dương.
Về đoàn kết quốc tế: Để tập trung, cô lập và chĩa mũi
nhọn đấu tranh vào bọn phản động thuộc địa và tay sai của chúng ở Đông Dương,
đòi các quyền tự do, dân chủ, dân sinh, thì không những phải đoàn kết chặt chẽ
với giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản Pháp, “ủng hộ Mặt trận nhân dân
Pháp", mà còn phải đề ra khẩu hiệu “ủng hộ Chính phủ Mặt trận nhân dân
Pháp" để cùng nhau chống lại kẻ thù chung là bọn phát xít ở Pháp và bọn
phản động thuộc địa ở Đông Dương.
Về hình thức tổ chức
và biên pháp đấu tranh: Phải chuyển hình thức tổ chức bí mật không hợp pháp sang các hình
thức tổ chức và đấu tranh công khai và nửa công khai. hợp pháp và nửa hợp pháp,
nhằm làm cho Đảng mở rộng sự quan hệ với quần thúng, giáo dục, tổ chức và lãnh
đạo quần chúng đấu tranh bằng các hình thức và khẩu hiệu thích hợp. Trong khi
tranh thủ mở rộng các hình thức tổ chức đấu tranh công khai hợp pháp thì tránh
sa vào chủ nghĩa công khai, mà phải giữ vững nguyên tắc lửng cố và tăng cường
tổ thức và hoạt động bí mật của Đảng, giữ vững mối quan hệ giữa bí mật và công
khai, hợp pháp với không hợp pháp và phải bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức đảng
bí mật đối với những tổ thức và hoạt động công khai hợp pháp.
Nhận thức mới của
Đảng về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ.
Trong khi đề ra chủ trương mới để lãnh đạo
nhân dân ta đấu tranh nhằm thực hiện các quyền dân chủ, dân sinh, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã đặt vấn đề nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân
tộc và dân chủ, phản đế và điền địa trong cách mạng ở Đông Dương. Trong văn
kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới
công bố tháng 10 - 1936, Đảng đã nêu một quan điểm mới: "Cuộc dân tộc giải
phóng không nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là không
thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn
giải quyết vấn đề điền địa thì cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ
không xác đáng". Vì rằng, tùy hoàn cảnh hiện thực bắt buộc, nếu nhiệm vụ
chống đế quốc là cần kíp cho lúc hiện thời, còn vấn đề giải quyết điền địa tuy
quan trọng nhưng chưa phải trực tiếp bắt buộc, thì có thể trước tập trung đánh
đổ đế quốc rồi sau mới giải quyết vấn đề điền địa.
Nhưng cũng có khi vấn đề điền địa và phản đế
phải liên tiếp giải quyết, vấn đề này giúp cho vấn đề kia làm xong mục đích của
cuộc vận động. Nghĩa là, cuộc phản đế phát triển tới trình độ võ trang tranh
đấu kịch hệt, đồng thời, vì muốn tăng thêm lực lượng tranh đấu chống đế quốc,
cần phải phát triển cuộc cách mạng điền địa. “Nói tóm lại, nếu phát triển cuộc
tranh đấu chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề
nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy
hiểm nhất, để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng”.
Đây là nhận thức mới của Ban Chấp hành Trung
ương, nó phù hợp với tinh thần trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và
bước đầu khắc phục những hạn thế của Luận cương chính trị tháng 10 - 1930.
Tháng 3 - 1939, Đảng ra bản Tuyên ngôn của Đảng cộng sản Đông Dương đối
với thời cuộc, nêu rõ họa phát xít đang đến gần, Chính phủ Pháp hiện đã
nghiêng về phía hữu, ra sức bóp nghẹt tự do dân chủ, tăng cường bóc lột nhân
dân và ráo riết chuẩn bị chiến tranh. Tuyên ngôn kêu gọi các tầng lớp nhân dân
phải thống nhất hành động hơn nữa trong việc đòi các quyền tự do dân chủ, chống
nguy cơ chiến tranh đế quốc.
Tháng 7 - 1939, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ cho
xuất bản tác phẩm Tự chỉ trích. Tác
phẩm đã phân tích những vấn đề cơ bản về xây dựng Đảng, tổng kết kinh nghiệm
cuộc vận động dân chủ của Đảng, nhất là về đường lối xây dựng Mặt trận dân chủ
Đông Dương - một vấn đề chính trị trung tâm của Đảng lúc đó. Tác phẩm Tự chỉ
trích chẳng những có tác dựng lớn trong cuộc đấu tranh để khắc phục những lệch
lạc, sai lầm trong phong trào vận động dân chủ, tăng cường đoàn kết nhất trí
trong nội bộ Đảng, mà còn là một văn kiện lý luận quan trọng về xây dựng Đảng,
về công tác vận động thành lập mặt trận thống nhất rộng rãi trong đấu tranh
cách mạng ở Việt Nam.
Tóm lại, trong những năm 1936 - 1939, chủ
trương mới của Đảng đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược
và mục tiêu cụ thể trước mắt của cách mạng. Các mối quan hệ giữa liên minh công
- nông và mặt trận đoàn kết dân tộc rộng rãi, giữa vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp, giữa phong trào cách mạng Đông Dương và phong trào cách mạng ở Pháp
và trên thế giới; đề ra các hình thức tổ chức và đấu tranh linh hoạt, thích hợp
nhằm hướng dẫn quần chúng đấu tranh giành quyền lợi hàng ngày, chuẩn bị cho
những cuộc đấu tranh cao hơn vì độc lập và tự do.
Các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương
trong thời kỳ này đánh dấu bước trưởng thành của Đảng về chính trị và tư tưởng,
thể hiện bản lĩnh và tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng, mở ra một cao
trào mới trong cả nước.
Cao trào dân chủ 1936-1939 thực sự là một
cuộc vận động cách mạng sâu rộng, hiếm có ở một xứ thuộc địa, đã tuyên truyền
đường lối, chủ trương cách mạng của Đảng cho quảng đại quần chúng, mở rộng lực
lượng và trận địa cách amngj, sáng tạo nên những hình thức tổ chức, hình thức
đấu tranh mới linh hoạt, gắn kết phong trào cách mạng Đông Dương với cuộc đấu
tranh chng chống chủ nghĩa phát xít của nhân dân thế giới.
II. CHỦ TRƯƠNG ĐẤU TRANH TỪ NĂM
1939 ĐẾN NĂM 1945
1.
Hoàn cảnh lịch sử và sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng
a) Tình hình thế giới và trong nước
Chiến
tranh thế giới lần từ hai bùng nổ:
Ngày 1-9-1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan,
hai ngày sau Anh và Pháp tuyên chiến với Đức, Chiến tranh thế giới lần thứ hai
bùng nổ. Phát xít Đức lần lượt chiếm các nước châu âu. Đế quốc Pháp lao vào
vòng chiến. Chính phủ Pháp đã thi hành biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở
trong nước và phong trào cách mạng ở thuộc địa. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ.
Đảng Cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.
Tháng 6 - 1940, Đức tấn công Pháp. Chính phủ
Pháp đầu hàng Đức. Ngày 22 - 6 - 1941, quân phát xít Đức tấn công Liên Xô. Từ
khi phát xít Đức xâm lược Liên Xô, tính chất chiến tranh đế quốc chuyển thành
chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên Xô làm trụ cột với các lực lượng
phát xít do Đức cầm đầu.
Tình hình trong
nước:
Chiến tranh thế giới lần thứ hai đã ảnh hưởng
mạnh mẽ và trực tiếp đến Đông Dương và Việt Nam. Ngày 28 - 9 - 1939, Toàn quyền
Đông Dương ra nghị định cấm tuyên truyền cộng sản, cấm lưu hành, tàng trữ tài
liệu cộng sản, đặt Đảng Cộng sản Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật, giải tán
các hội hữu ái, nghiệp đoàn và tịch thu tài sản của các tổ chức đó đóng cửa các
tờ báo và nhà xuất bản, cấm hội họp và tụ tập đông người.
Trong thực tế, ở Việt Nam và Đông Dương, thực
dân Pháp đã thi hành chính sách thời chiến rất trắng trợn. Chúng phát xít hóa
bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân, tập trung
lực lượng đánh vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Hàng nghìn cuộc khám xét bất ngờ
đã diễn ra khắp nơi. Một số quyền tự do, dân chủ đã giành được trong thời kỳ
1936 - 1939 bị thủ tiêu. Chúng ban bố lệnh tổng động viên, thực hiện chính sách
“kinh tế chỉ huy" nhằm tăng cường vơ vét sức người, sức của để phục vụ
chiến tranh của đế quốc. Hơn bảy vạn thanh niên bị bắt sang Pháp để làm bia đỡ
đạn.
Lợi dụng lúc Pháp thua Đức, ngày 22 - 9 - 1940
phát xít Nhật đã tiến vào Lạng Sơn và đổ bộ vào Hải Phòng. Ngày 23 - 9 - 1940,
tại Hà Nội. Pháp ký hiệp định đầu hàng Nhật. Từ đó, nhân dân ta chịu cảnh một
cổ bị hai tròng áp bức, bóc lột của Pháp - Nhật. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với
đế quốc, phát xít Pháp - Nhật trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
b) Nội dung chủ trương chuyển hướng
chỉ đạo chiến lược
Kể từ khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai
bùng nổ. Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ sáu (tháng 11 - 1939),
Hội nghị lần thứ bảy (tháng 11 - 1940) và Hội nghị lần thứ tám (tháng 5 - 1941).
Trên cơ sở nhận định khả năng diễn biến của Chiến tranh thế giới lần thứ hai và
căn cứ vào tình hình cụ thể ở trong nước. Ban Chấp hành Trung ương đã quyết
định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược như sau:
Một là, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc
lên hàng đầu.
Ban Chấp hành Trung ương nêu rõ mâu
thuẫn chủ yếu ở nước ta đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa
dân tộc ta với bọn đế quốc, phát xít Pháp - Nhật. Bởi “Trong lúc này nếu không
giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho
toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp
ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại
được".
Để tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng lúc này, Ban Chấp hành Trung ương quyết định tạm gác lại khẩu hiệu “đánh
đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiệu “tịch thu ruộng đất
của bọn đế quốc và Việt gian cho dân cày nghèo", “chia lại ruộng đất công
cho công bằng và giảm tô, giảm tức"...
Hai là, quyết định thành lập Mặt trận
Việt Minh để đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng nhằm mục tiêu giải phóng dân
tộc.
Để tập hợp lực lượng cách mạng đông đảo trong
cả nước, Ban Chấp hành Trung ương quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc
lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh thay cho Mặt trận thống nhất dân tộc phản
đế Đông Dương; đổi tên các Hội phản đế thành Hội cứu quốc (Công nhân cứu quốc,
Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Phụ lão cứu quốc,
Thiếu niên cứu quốc...) để vận động, thu hút mọi người dân yêu nước không phân
biệt thành phần, lứa tuổi, đoàn kết bên nhau đặng cứu Tổ quốc cứu giống nòi.
Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi
nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn
hiện tại.
Để đưa cuộc khởi nghĩa vũ trang đến thắng
lợi, cần phải ra sức phát triển lực lượng cách mạng, bao gồm lực lượng chính
trị và lực lượng vũ trang, xúc tiến xây dựng căn cứ địa cách mạng. Ban Chấp
hành Trùng ương chi rõ việc “chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng
ta và dân ta trong giai đoạn hiện tại". Trung ương quyết định duy trì lực
lượng vũ trang Bắc Sơn và chủ trương thành lập những đội du kính hoạt động phân
tán, dùng hình thức vũ trang vừa chiến đấu chống địch, bảo vệ nhân dân, vừa
phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn, Vũ
Nhai làm trung tâm.
Ban Chấp hành Trung ương xác định phương châm
và hình thái khởi nghĩa ở nước ta: "Phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng
sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù... với lực
lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa
phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa
to lớn".
Ban Chấp hành Trung ương còn đặc
biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng nhằm nâng cao năng lực tổ chức và lãnh
đạo của Đảng, đồng thời chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ, cán bộ lãnh đạo, cán
bộ công vận, nông vận, binh vận, quân sự và đẩy mạnh công tác vận động quần
chúng.
c) Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ
đạo chiến lược
Với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh
sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu số một của cách
mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương đúng đắn để thực hiện mục
tiêu ấy.
Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân
tộc. đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tập hợp rộng rãi mọi người
Việt Nam yêu nước trong Mặt trận Việt Minh, xây dựng lực lượng chính trị của
quần chúng ở cả nông thôn và thành thị, xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực
lượng vũ trang, là ngọn cờ dẫn đường
cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật,
giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân.
Sau Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung
ương (tháng 5 - 1941), Nguyễn Ái Quốc gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đoàn kết
thống nhất đánh đuổi Pháp - Nhật. Người nhấn mạnh: "Trong lúc này quyền lợi dân tôc giải phóng cao hơn hết
thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng
cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng".
Thực hiện Nghị quyết của Đảng và lời kêu gọi
của Nguyễn Ái Quốc, các cấp bộ đảng và Mặt trận Việt Minh đã tích cực xây dựng
các tổ chức cứu quốc của quần chúng, đẩy nhanh việc phát triển lực lượng chính
trị và phong trào đấu tranh của quần chúng. Ngày 25 - 10 - 1941, Mặt trận Việt
Minh tuyên bố ra đời. Mặt trận Việt Minh đã công bố 10 chính sách vừa ích nước
vừa lợi dân, nên được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng. Từ đầu nguồn cách mạng Pác
Bó, Việt Minh đã lan tỏa khắp nông thôn, thành thị, có hệ thống từ trung ương
đến cơ sở. Một số tổ chức chính trị yêu nước ra đời và đã tham gia làm thành
viên của Mặt trận Việt Minh như: Đảng Dân chủ Việt Nam (tháng 6 - 1944). Lực
lượng chính trị quần chúng ngày càng đông đảo và được rèn luyện trong đấu tranh
chống Pháp - Nhật theo khẩu hiệu của Mặt trận Việt Minh.
Trên cơ sở lực lượng chính trị của quần
chúng, Đảng đã chỉ đạo việc vũ trang cho quần chúng cách mạng từng bước tổ
chức, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Từ các đội du kích bí mật, các đội
Cứu quốc quân, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã thành lập Viết Nam giải phóng quân. Đảng chỉ đạo
việc lập các chiến khu và căn cứ địa cách mạng, tiêu biểu là căn cứ Bắc Sơn -
Vũ Nhai và căn cứ Cao Bằng. Công việc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang diễn ra sôi
nổi ở các khu căn cứ và khắp các địa phương trong cả nước, đã cổ vũ và thúc đẩy
mạnh mẽ phong trào cách mạng quần chúng vùng lên đấu tranh giành chính quyền.
2.
Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
a) Phát động Cao trào kháng Nhật,
cứu nước và đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần
Phát động Cao trào
kháng Nhật cả nước.
Vào cuối năm 1944, đầu năm 1945, Chiến tranh
thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Hồng quân Liên Xô quét sạch
phát xít Đức ra khỏi lãnh thổ của mình và tiến như vũ bão về phía Béc lin. Phát
xít Nhật lâm vào tình trạng nguy khốn. Mâu thuẫn Nhật - Pháp ngày càng gay gắt.
Đêm 9 - 3 - 1945. Nhật đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương. Quân Pháp đã
nhanh chóng đầu hàng quân Nhật.
Ngay đêm 9 - 3 - 1945, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng họp Hội nghị mở rộng ở làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh). Ngày 12 - 3
- 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta". Với những nội dung cơ bản là:
Nhận định tình hình: Cuộc đảo chính của Nhật lật đổ
Pháp để độc chiếm Đông Dương đã tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc,
nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi. Tuy vậy, hiện đang có những
cơ hội tốt làm cho những điều kiện tổng khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi.
Xác định kẻ thù: Sau cuộc đảo chính, phát xít Nhật
là kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể trước mắt duy nhất của nhân dân Đông Dương, vì
vậy phải thay khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp" bằng khẩu hiệu
"đánh đuổi phát xít Nhật".
Chủ trương: Phát động một cao trào kháng
Nhật, cứu nước mạnh mẽ, làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Mọi hình thức
tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh lúc này phải thay đổi cho thích hợp
với thời kỳ tiền khởi nghĩa như tuyên truyền xung phong, biểu tình tuần hành,
bãi công chính trị, biểu tình phá kho thóc của Nhật để giải quyết nạn đói, đẩy
mạnh xây dựng các đội tự vệ cứu quốc, v.v…
Phương châm đấu
tranh lúc này là
phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa.
Dự kiến những điều kiện thuận lợi để thực
hiện tổng khởi nghĩa như khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật, quân
Nhật kéo ra mặt trận ngăn cản quân Đồng minh để phía sau sơ hở. Cũng có thể là cách
mạng Nhật bùng nổ và chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật được thành lập,
hoặc Nhật bị mất nước như Pháp năm 1940 và quân đội viễn chinh Nhật mất tinh
thần.
Đẩy mạnh khởi nghĩa
từng phần, giành chính quyền bộ phận:
Từ giữa tháng 3 - 1945 trở đi, Cao trào kháng
Nhật cứu nước đã diễn ra rất sôi nổi, mạnh mẽ và phong phú về nội dung và hình
thức.
Phong trào đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa
từng phần đã diễn ra trong nhiều nơi ở vùng thượng du và trung du Bắc Kỳ. Việt
Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp với lực lượng chính
trị của quần chúng giải phóng hàng loạt xã, châu, huyện thuộc các tỉnh Cao
Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang.
Ở Bắc Giang, quần chúng nổi dậy thành lập ủy
ban dân tộc giải phóng ở nhiều làng. Đội du kích Bắc Giang được thành lập. Ở
Quảng Ngài, cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Ba Tơ, Đội du kích Ba Tơ được thành lập.
Trong lúc Cao trào kháng Nhật cứu nước đang
dâng lên mạnh mẽ, ngày 15 - 4 - 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập
Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ tại Hiệp Hòa (Bắc Giang). Hội nghị nhận định:
Tình thế đã đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng và cần
kíp trong lúc này. Chúng ta phải tích cực phát triển chiến tranh du kích, gây
dựng căn cứ địa kháng Nhật để chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ.
Hội nghị đã quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang sẵn có thành Việt Nam giải phóng quân, quyết định xây
dựng bảy chiến khu trong cả nước và chủ trương phát triển hơn nữa lực lượng vũ
trang và nửa vũ trang,..v.v
Trong hai tháng 5 và 6 - 1945, các cuộc khơi
nghĩa từng phần liên tục nổ ra và nhiều chiến khu được thành lập ở cả ba miền.
Ở Khu giải phóng và một số địa phương, chính quyền nhân dân đã hình thành, tồn
tại song song với chính quyền tay sai của phát xít Nhật.
Ngày 4 - 6 - 1945, khu giải phóng chính thức
được thành lập gồm hầu hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang,
Thái Nguyên, Hà Giang và một số vùng lân cận thuộc tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Yên
Bái, Vĩnh Yên.
Giữa lúc phong trào quần chúng trong cả nước
đang phát triển mạnh mẽ ở cả nông thôn và thành thị, nạn đói đã diễn ra nghiêm
trọng ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ do Nhật, Pháp đã vơ vét hàng triệu tấn
lúa gạo của nhân dân. Hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Xuất phát từ lợi
ích sống còn trước mắt của quần chúng, Đảng kịp thời đề ra khấu hiệu "Phá
kho thóc, giải quyết nạn đói". Chủ trương đó đã đáp ứng đúng nguyện vọng
cấp bách của nhân dân ta, vì vậy trong một thời gian ngắn, Đảng đã động viên
được hàng triệu quần chúng tiến lên trận tuyến cách mạng.
b) Chủ trương phát động Tổng khởi
nghĩa
Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào
giai đoạn kết thúc Ngày 2 - 5 - 1945, Hồng quân Liên Xô chiếm Béc lin, tiêu
diệt phát xít Đức tận hang ổ của chúng. Ngày 9 - 5 - 1945, phát xít Đức đầu
hàng không điều kiện, ở châu á, phát xít Nhật đang đi gần đến chỗ thất bại hoàn
toàn.
Trước sự phát triển hết sức nhanh chóng của
tình hình, Trung ương quyết định họp Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào
(Tuyên Quang) từ ngày 13 đến ngày 15 - 8 - 1945. Hội nghị nhận định: Cơ hội rất
tốt cho ta giành chính quyền độc lập đã tới và quyết định phát động toàn dân Tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ
tay phát xít Nhật và tay sai, trước khi quân đồng minh vào Đông Dương.
Hội nghị chỉ rõ khẩu hiệu đấu tranh lúc này là:
“phản đối xâm lược"; "Hoàn toàn độc lập"; "Chính quyền nhân
dân". Những nguyên tắc để chỉ đạo khởi nghĩa là tập trung, thống nhất và
kịp thời, phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng không kể thành phố hay nông
thôn; quân sự và chính trị phải phối hợp; phải làm tan rã tinh thần quân địch,
v.v..
Hội nghị còn quyết định những vấn đề quan
trọng về chính sách đối nội và đối ngoại trong tình hình mới. Về đối nội, sẽ
lấy 10 chính sách lớn của Việt Minh làm chính sách cơ bản của chính quyền cách
mạng. Về đối ngoại, thực hiện nguyên tắc bình đẳng, hợp tác, thêm bạn bớt thù,
triệt để lợi dựng mâu thuẫn giữa Pháp - Anh và Mỹ - Tưởng, hết sức tránh trường
hợp một mình phải đối phó nhiều kẻ thù trong cùng một lúc; phải tranh thủ sự
ủng hộ của Liên Xô, của nhân dân các nước trên thế giới, nhất là nhân dân Pháp
và nhân dân Tnmg Quốc. Hội nghị quyết định cử Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc do
Trường Chinh phụ trách và kiện toàn Ban Chấp hành Trung ương.
Ngay đêm 13 - 8 - 1945, Uỷ ban khởi nghĩa
toàn quốc ra lệnh Tổng khởi nghĩa.
Ngày 16 - 8 - 1945, cũng tại Tân Trào, Đại
hội quốc dân họp. Đại hội nhiệt liệt tán thành thủ trương tổng khởi nghĩa của
Đảng và mười chính sách của Việt Minh, quyết định thành lập Uỷ ban giải phóng
dân tộc Việt Nam.
Ngay sau Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi
thư kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước: "Giờ quyết định cho vận mệnh dân
tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho
ta".
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân
dân ta đã nhất tề vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Từ ngày 14 - 8 - 1945,
các đơn vị giải phóng quân đã liên tiếp hạ nhiều đồn Nhật thuộc các tỉnh Cao
Bằng, Bắc Kim. Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái và hỗ trợ quần chúng tiến lên
giành thính quyền. Ngày 18 - 8 - 1945, nhân dân các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương,
Phúc Yên, Thái Bình, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Nam và Khánh Hòa giành chính
quyền ở tỉnh lỵ.
Ngày 19 - 8 - 1945. dưới sự lãnh đạo của
Thành ủy Hà Nội, hàng chục vạn quần chúng sau khi dự mít tinh, đã rầm rộ xuống
đường biểu tình, tuần hành và mau chóng tỏa đi các hướng chiếm Phủ Khâm sai,
Tòa Thị chính, Trại lính bảo an, Sở Cảnh sát và các công sở của chính quyền bù
nhìn. Trước khí thế áp đảo của quần chúng khởi nghĩa, hơn một vạn quân Nhật ở
Hà Nội tê liệt, không dám chống cự. Chính quyền về tay nhân dân.
Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội ngày
19 - 8 có ý nghĩa quyết định đối với cả nước, làm cho chính quyền tay sai Nhật
ở các nơi bị tê liệt, cổ vũ mạnh mẽ nhân dân các tỉnh, thành phố khác nổi dậy
khởi nghĩa giành thính quyền.
Ngày 23 - 8 - 1945, khởi nghĩa giành thắng
lợi ở Huế. ngày 25 - 8 - 1945, khởi nghĩa giành thắng lợi ở Sài Gòn. Chỉ trong
vòng 15 ngày (từ ngày 14 đến ngày 28 - 8 - 1945) cuộc Tổng khởi nghĩa đã thành
công trên cả nước, chính quyền về tay nhân dân.
Ngày 2 - 9 - 1945, tại cuộc mít tinh lớn ở
Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, thay mặt Chính phủ lâm thời. Chủ tịch Hồ Chí Minh
trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào, với
toàn thể thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.
c) Kết quả, ý nghĩa, nguyên nhân
thắng lợi và bài học kinh nghiệm của cuộc Cách mạng Tháng Tám
Kết quả và ý nghĩa:
- Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã đập
tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp trong gần một thế kỷ, lật nhào chế độ
quân chủ hàng mấy nghìn năm và ách thống trị của phát xít Nhật, lập nên nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á.
Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ
xã hội.
- Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đánh dấu
bước phát triển nhảy vọt của lịch sử dân tộc Việt Nam, đưa dân tộc ta bước vào
một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập tự do.
- Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Đảng
và nhân dân ta đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
cung cấp thêm nhiều kinh nghiệm quý báu cho phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc và giành quyền dân chủ.
- Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã cổ vũ mạnh
mẽ nhân dân các nước thuộc địa và nửa thuộc địa đấu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc, thực dân giành độc lập tự do. Đánh giá ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám,
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân
Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi
khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng
của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn
quốc”.
Nguyên nhân thắng lợi:
- Cách mạng Tháng Tám nổ ra trong bối cảnh
quốc tế rất thuận lợi: Kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta là phát xít Nhật đã bị
Liên Xô và các lực lượng dân chủ thế giới đánh bại. Bọn Nhật ở Đông Dương và
tay sai tan rã. Đảng ta đã chớp thời cơ đó phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi
nghĩa giành thắng lợi nhanh chóng.
- Cách mạng Tháng Tám là kết quả tổng hợp của
15 năm đấu tranh gian khổ của toàn dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã được rèn
luyện qua ba cao trào cách mạng rộng lớn: Cao trào 1930 - 1931, Cao trào 1936 -
1939 và Cao trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945. Quần chúng cách mạng được Đảng
tổ chức, lãnh đạo và rèn luyện bằng thực tiễn đấu tranh đã trở thành lực lượng
chính trị hùng hậu, có lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt.
- Cách mạng Tháng Tám thành công là do Đảng
ta đã chuẩn bị được lực lượng vĩ đại của toàn dân đoàn kết trong Mặt trận Việt
Minh, dựa trên cơ sở liên minh công nông, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Đảng ta là người tổ chức và lãnh đạo cuộc
Cách mạng Tháng Tám. Đảng có đường lối cách mạng đứng đắn, dày dạn kinh nghiệm
đấu tranh, đoàn kết thống nhất, nắm đúng thời cơ, chỉ đạo kiên quyết, khôn
khéo, biết tạo nên sức mạnh tổng hợp để áp đảo kẻ thù và quyết tâm lãnh đạo
quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố chủ
yếu nhất, quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945.
Bài học kinh nghiệm:
Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân
tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta đã
xác định nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong kiến không thể tách rời
nhau. Trải qua ba cao trào cách mạng, Đảng ta nhận thức sâu sắc hơn về mối quan
hệ giữa hai nhiệm vụ đó và xác định: Tuy hai nhiệm vụ không tách rời nhau nhưng
nhiệm vụ thống đế quốc là chủ yếu nhất, nhiệm vụ chống phong kiến phải phục
tùng nhiệm vụ chống đế quốc và phải thực hiện từng bước với những khẩu hiệu cụ
thể như giảm tô, giảm tức, chia ruộng đất công, chia ruộng đất của bọn phản
động cho nông dân nghèo, tiến tới cải cách ruộng đất. Khi Chiến tranh thế giới
lần thứ hai nổ ra, Đảng chủ trương chĩa mũi nhọn của cách mạng vào đế quốc,
phát xít Nhật - Pháp và bè lũ tay sai nhằm tập trung giải quyết yêu cầu chủ
yếu, cấp bách của cách mạng là giải phóng dân tộc. Thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám là thắng lợi của sự kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và
chống phong kiến.
Hai là, toàn dân nổi dậy trên nền tảng
khối liên minh công - nông.
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi là nhờ cuộc đấu
tranh yêu nước anh hùng của hơn 20 triệu người Việt Nam. Nhưng cuộc nổi dậy của
toàn dân chỉ có thể thực hiện được khi có đạo quân chủ lực là giai cấp công
nhân và giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đạo quân chủ lực này được
xây dựng, củng cố qua ba cao trào cách mạng và lớn mạnh vượt bậc trong Tổng
khởi nghĩa. Dựa trên đạo quân chủ lực làm nền tảng, Đảng xây dựng được khối đại
đoàn kết dân tộc. động viên toàn dân Tổng khởi nghĩa thắng lợi.
Ba là, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng
ngũ kẻ thù.
Đảng ta đã lợi dụng được mâu thuẫn giữa chủ
nghĩa đế quốc và chủ nghĩa phát xít, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và một bộ
phận thế lực địa thủ phong kiến, mâu thuẫn trong hàng ngũ nguy quyền tay sai
của Pháp và của Nhật, cô lập cao độ kẻ thù chính là bọn đế quốc, phát xít và
bọn tay sai phản động; tranh thủ hoặc trung lập những phần tử lừng chừng. Nhờ
vậy, Cách mạng Tháng Tám đã giành được thắng lợi nhanh gọn, ít đổ máu.
Bốn là, kiên quyết dùng bạo lực cách
mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng một cách thích hợp để đập tan bộ máy nhà
nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân. Trong Cách mạng Tháng Tám, bạo
lực của cách mạng là sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị với lực lượng
vũ trang; kết hợp nổi dậy của quần chúng với tiến công của lực lượng vũ trang
cách mạng ở cả nông thôn và thành thị. Trong đó vai trò quyết định là các cuộc
tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Cách mạng Tháng Tám là kết quả của sự
kết hợp tất cả các hình thức đấu tranh kinh tế và chính trị, hợp pháp và không
hợp pháp của quần chúng, từ thấp đến cao, từ một số địa phương lan rộng khắp cả
nước, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tống khởi nghĩa, đập tan bộ máy nhà nước
của giai cấp thống trị, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân.
Năm là, nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa,
nghệ thuật chọn đúng thời cơ.
Đảng ta coi khởi nghĩa là một nghệ thuật, vừa
vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin và kinh nghiệm của cách mạng thế
giới, vừa tổng kết những kinh nghiệm các cuộc khởi nghĩa ở nước ta. Trong nhiều
văn kiện của Đảng từ năm 1939 đến nửa đầu năm 1945, Đảng chỉ ra những điều
kiện, thời cơ cho tổng khởi nghĩa thắng lợi.
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi chứng tỏ Đảng
đã chọn đúng thời cơ. Đó là lúc bọn cầm quyền phát xít ở Đông Dương hoang mang
đến cực độ sau khi Nhật đầu hàng; nhân dân ta không thể sống nghèo khổ như
trước được nữa. Đảng đã chuẩn bị sẵn sàng các mặt về chủ trương, lực lượng và
tập dợt qua Cao trào chống Nhật, cứu nước. Đó là những điều kiện chủ quan cho
tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước giành thắng lợi.
Sáu là, xây dựng một Đảng Mác-Lênin đủ
sức lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Đảng ta ngay từ đau đã xác định đúng đường lối,
chiến lược và sách lược cách mạng, đồng thời không ngừng bổ sung, phát triển
đường lối chiến lược và sách lược trong từng thời kỳ cách mạng. Điều đó, đòi
hỏi Đảng phải biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể
của nước ta, kịp thời tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng.
Đảng ta rất coi trọng việc quán triệt đường
lối, chủ trương trong đảng viên và quần chúng cách mạng, không ngừng đấu tranh
khắc phục những khuynh hướng lệch lạc. Đảng chăm lo công tác tổ chức, cán bộ,
giáo dục rèn luyện cán bộ, đảng viên về ý chí bất khuất, phẩm chất chính trị và
đạo đức cách mạng. Đảng biết phát huy triệt để vai trò của Mặt trận Việt Minh
với hàng triệu hội viên và thông qua Mặt trân để lãnh đạo nhân dân đấu tranh.
Chương 3:
ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC
DÂN PHÁP
VÀ ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1945 - 1975)
I- ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG,
BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 - 1954)
1.
Chủ trương xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng (1945 - 1946)
a) Hoàn cảnh nước ta sau Cách mạng
Tháng Tám
Sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của
nhân dân ta đứng trước bối cảnh vừa có những thuận lợi cơ bản, vừa gặp phải
nhiều khó khăn to lớn, hiểm nghèo.
Thuận lơi cơ bản là trên thế giới, hệ thống xã hội
chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu được hình thành. Phong trào cách mạng giải phóng
dân tộc có điều kiện phát triển, trở thành một dòng thác cách mạng. Phong trào
dân chủ và hoà bình cũng đang vươn lên mạnh mẽ. Ở trong nước, chính quyền dân
chủ nhân dân được thành lập, có hệ thống từ trung ương đến cơ sở. Nhân dân lao
động đã làm chủ vận mệnh của đất nước. Lực lượng vũ trang nhân dân được tăng
cường. Toàn dân tin tưởng và ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Khó khăn nghiêm
trọng là hậu quả
do che độ cũ để lại như nạn đói, nạn dốt rất nặng nề, ngân quỹ quốc gia trống
rỗng. Kinh nghiệm quản lý đất nước của cán bộ các cấp non yếu. Nền độc lập của
nước ta chưa được quốc gia nào trên thế giới công nhận và đặt quan hệ ngoại
giao. Với danh nghĩa Đồng Minh đến tước khí giới của phát xít Nhật, quân đội
các nước đế quốc ồ ạt kéo vào chiếm đóng Việt Nam và khuyến khích bọn Việt gian
chống phá chính quyền cách mạng nhằm xóa bỏ nền độc lập và chia cắt nước ta.
Nghiêm trọng nhất là quân Anh - Pháp đã đồng lõa với nhau nổ súng đánh chiếm
Sài Gòn, hòng tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam. “Giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại
xâm" là những hiểm họa đối với chế độ mới, vận mệnh dân tộc như "ngàn
cân treo sợi tóc" Tố quốc lâm nguy.
b) Chủ trương kháng chiến kiến quốc
của Đảng
Trước tình hình mới, Trung ương Đảng và Chủ
tịnh Hồ Chí Minh đã sáng suốt phân tích tình thế, dự đoán chiều hướng phát
triển của các trào lưu cách mạng trên thế giới và sức mạnh mới của dân tộc để
vạch ra chủ trương và giải pháp đấu tranh nhằm giữ vững chính quyền, bảo vệ nền
độc lập tự do vừa giành được. Ngày 25 - 11 - 1945. Ban Chấp hành Trung ương
Đảng ra Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc,
vạch con đường đi lên cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Chủ trương
kháng chiến kiến quốc của Đảng là:
Về chỉ đạo chiến
lược, Đảng xác
định mục tiêu phải nêu cao của cách mạng Việt Nam lúc này vẫn là dân tộc giải
phóng, khẩu hiệu lúc này là "Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết"
nhưng không phải là giành độc lập mà là giữ vững độc lập
Về xác định kẻ thù, Đảng phân tích âm mưu của các
nước đế quốc đối với Đông Dương và chỉ rõ "kẻ thù chính của ta lúc này là
thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng". Vì
vậy, phải “lập Mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược”, mở
rộng Mặt trận Việt Minh nhằm thu hút mọi tầng lớp nhân dân; thống nhất Mặt trận
Việt - Miên - Lào, v.v..
Về phương hướng
nhiệm vụ, Đảng
nêu lên bốn nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách cần khẩn trương thực hiện là:
"củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải
thiện đời sống cho nhân dân". Đảng chủ trương kiên trì nguyên tắc thêm bạn
bớt thù, thực hiện khẩu hiệu "Hoa - Việt thân thiện" đối với quân đội
Tưởng Giới Thạch và "Độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế"
đối với Pháp.
Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc có ý nghĩa hết sức quan trọng. Chỉ thị đã xác
định đúng kẻ thù chính của dân tộc Việt Nam là thực dân Pháp xâm lược. Đã chỉ
ra kịp thời những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược cách mạng, nhất là
nêu rõ hai nhiệm vụ chiến lược mới của cách mạng Việt Nam sau Cách mạng Tháng
Tám là xây dựng đất nước đi đôi với bảo vệ đất nước. Đề ra những nhiệm vụ, biện
pháp cụ thể về đối nội, đối ngoại để khắc phục nạn đói, nạn dốt, chống thù
trong giặc ngoài, bảo vệ chính quyền cách mạng. Những nội dung của chủ trương
kháng chiến kiến quốc được Đảng tập trung chỉ đạo thực hiện trên thực tế với
tinh thần kiên quyết, khẩn trương, linh hoạt, sáng tạo, trước hết là trong giai
đoạn từ tháng 9 - 1945 đến cuối năm 1946.
c) Kết quả, ý nghĩa và bài học kinh
nghiệm
Cuộc đấu tranh thực hiện chủ trương kháng
chiến kiến quốc của Đảng giai đoạn 1945 - 1946 đã diễn ra rất gay go, quyết
liệt trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự, ngoại giao
và đã giành được những kết quả hết sức to lớn.
Về chính trị - xã
hội: Đã xây dựng
được nền móng cho một chế độ xã hội mới - chế độ dân chủ nhân dân với đầy đủ
các yếu tố cấu thành cần thiết. Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp được thành
lập thông qua phổ thông bầu cử. Hiến pháp dân chủ nhân dân được Quốc hội thông
qua và ban hành. Bộ máy chính quyền từ Trung ương đến làng, xã và các cơ quan
tư pháp, tòa án. các công cụ chuyên chính như Vệ quốc đoàn. Công an nhân dân
được thiết lập và tăng cường. Các đoàn thể nhân dân như Mặt trận Việt Minh, Hội
Liên hiệp quốc dân Việt Nam, Tổng Công đoàn Việt Nam. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt
Nam được xây dựng và mở rộng. Đảng Dân chủ Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam được
thành lập.
Về kinh tế văn hóa: Đã phát động phong trào tăng gia
sản xuất, cứu đói, xóa bỏ các thứ thuế vô lý của chế độ cũ, ra sắc lệnh giảm tô
25%, xây dựng ngân quỹ quốc gia. Các lĩnh vực sản xuất được hồi phục. Cuối năm
1945, nạn đói cơ bản được đẩy lùi năm 1946 đời sống nhân dân được ổn định và có
cải thiện. Tháng 11 - 1946, giấy bạc "Cụ Hồ" được phát hành. Đã mở
lại các trường lớp và tổ chức khai giảng năm học mới. Cuộc vận động toàn dân
xây dựng nền văn hoá mới đã bước đầu xoá bỏ được nhiều tệ nạn xã hội và tập tục
lạc hậu. Phong trào diệt dốt, bình dân học vụ được thực hiện sôi nổi. Cuối năm
1946 cả nước đã có thêm 2,5 triệu người biết đọc biết viết.
Về bảo vệ chính
quyền cách mạng:
Ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn và mở rộng phạm vi chiếm
đóng ra các tỉnh Nam Bộ, Đảng đã kịp thời lãnh đạo nhân dân Nam Bộ đứng lên
kháng chiến và phát động phong trào Nam tiến chi viện Nam Bộ, ngăn không cho
quân Pháp đánh ra Trung Bộ. Ở miền Bắc, bằng chủ trương lợi dụng mâu thuẫn
trong nội bộ kẻ thù, Đảng và Chính phủ ta đã thực hiện sách lược nhân nhượng
với quân đội Tưởng và tay sai của chúng để giữ vững chính quyền, tập trung lực
lượng chống Pháp ở miền Nam. Khi Pháp-Tưởng ký Hiệp ước Trùng Khánh (28 - 2 - 1946), thỏa thuận mua bán quyền lợi
với nhau, cho Pháp kéo quân ra miền Bắc, Đảng lại mau lẹ chỉ đạo chọn giải pháp
hoà hoãn, dàn xếp với Pháp để buộc quân Tưởng phải rút về nước. Hiệp định Sơ bộ 1946, cuộc đàm phán ở Đà
Lạt, ở Phôngtennơbờlô (Phongtennebleau. Pháp), Tạm ước 14 - 9 - 1946 đã tạo điều kiện cho quân dân ta có thêm thời
gian để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.
Ý nghĩa của những thành quả đấu tranh nói
trên là đã bảo vệ được nền độc lập của đất nước, giữ vững chính quyền cách
mạng; xây dựng được những nền móng đầu tiên và cơ bản cho một chế độ mới, chế
độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; chuẩn bị được những điều kiện cần thiết, trực
tiếp cho cuộc kháng chiến toàn quốc sau đó.
Nguyên nhân thắng
lơi: Có được
những thắng lợi quan trọng đó là do Đảng đã đánh giá đúng tình hình nước ta sau
Cách mạng Tháng Tám, kịp thời đề ra chủ trương kháng chiến, kiến quốc đứng đắn;
xây dựng và phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; lợi dụng
được mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch, v.v..
Bài học kinh nghiệm trong hoạch định và chỉ đạo thực
hiện chủ trương kháng chiến kiến quốc giai đoạn 1945 - 1946 là: Phát huy sức
mạnh đại đoàn kết dân tộc, dựa vào dân để xây dựng và bảo vệ chính quyền cách
mạng. Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù
chính, coi sự nhân nhượng có nguyên tắc với kẻ địch cũng là một biện pháp đấu
tranh cách mạng cần thiết trong hoàn cảnh cụ thể. Tận dụng khả năng hoà hoãn để
xây dựng lực lượng, củng cố chính quyền nhân dân, đồng thời đề cao cảnh giác,
sẵn sàng ứng phó với khả năng chiến tranh lan ra cả nước khi kẻ địch bội ước.
2.
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và xây dựng chế độ dân chủ
nhân dân (1946 - 1954)
a) Hoàn cảnh lịch sử
Tháng 11 - 1946, quân Pháp mở cuộc tấn công
chiếm đóng cả thành phố Hải Phòng và thị xã Lạng Sơn, đổ bộ lên Đà Năng và gây
nhiều cuộc khiêu khích, tàn sát đồng bào ta ở Hà Nội, Trung ương Đảng đã chỉ
đạo tìm cách liên lạc với phía Pháp để giải quyết vấn đề bằng biện pháp đàm
phán thương lượng.
Trước việc Pháp gửi tối hậu thư đòi ta tước
vũ khí của tự vệ Hà Nội, để cho chúng kiểm soát an ninh trật tự ở Thủ đô, ngày
19 - 12 - 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp Hội nghị mở rộng tại làng
Vạn Phúc (Hà Đông) dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh để hoạch định chủ
trương đối phó. Hội nghị đã cử phái viên đi gặp phía Pháp để đàm phán. song
không có kết quả. Hội nghị cho rằng, hành động của Pháp chứng tỏ chứng cố ý
muốn cướp nước ta một lần nữa. Khả năng hòa hoãn không còn. Hòa hoãn nữa sẽ dẫn
đến họa mất nước. Trong thời điểm lịch sử phải quyết đoán ngay. Hội nghị đã
quyết định hạ quyết tâm phát động cuộc kháng chiến trong cả nước và chủ động
tiến công trước khi thực dân Pháp thực hiện màn kịch đảo chính quân sự ở Hà
Nội. Mệnh lệnh kháng chiến được phát đi. Vào lúc 20 giờ ngày 19 - 12 - 1946,
tất cả các chiến trường trong cả nước đã đồng loạt nổ súng. Rạng sáng ngày 20 -
12 - 1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến của Hồ Chí Minh được phát lớn trên Đài Tiếng nói Việt Nam.
Thuận lơi của nhân dân ta khi bước vào cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược là ta chiến đấu để bảo vệ nền độc lập
tự do của dân tộc và đánh địch trên đất nước mình nên có chính nghĩa, có
"thiên thời, địa lợi, nhân hòa". Ta cũng đã có sự chuẩn bị cần thiết
về mọi mặt, nên về lâu dài, ta sẽ có khả năng đánh thắng quân xâm lược. Trong
khi đó, thực dân Pháp cũng có nhiều khó khăn về chính trị, kinh tế, quân sự ở
trong nước và tại Đông Dương không dễ gì có thể khắc phục được ngay.
Khó khăn của ta là tương quan lực lượng
quân sự yếu hơn địch. Ta bị bao vây bốn phía, chưa được nước nào công nhận giúp
đỡ. Còn quân Pháp lại có vũ khí tối tân, đã chiếm đóng được hai nước Campuchia,
Lào và một số nơi ở Nam Bộ Việt Nam, có quân đội đứng chân trong các thành thị
lớn ở miền Bắc.
Những đặc điểm của sự khởi đầu và các thuận
lợi, khó khăn đó là cơ sở để Đảng xác định đường lối cho cuộc kháng chiến.
b) Quá trình hình thành và nội dung
đường lối kháng chiến
Đường lối kháng
chiến của Đảng
được hình thành, bổ sung, hoàn chỉnh qua thực tiễn.
Ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công.
Trong Chỉ thị về kháng thiến, kiến quốc.
Đảng đã nhận định kẻ thù chính, nguy hiểm nhất của dân tộc ta là thực dân Pháp
xâm lược phải tập trung mũi nhọn đấu tranh vào chúng. Trong quá trình thỉ đạo
cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh đã chỉ đạo kết hợp
đấu tranh chính trị, quân sự với ngoại giao để làm thất bại âm mưu của Pháp
định tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam.
Ngày 19 - 10 - 1946. Thường vụ Trung ương
Đảng mở Hội nghị Quân sự toàn quốc lần thứ nhất, do Tổng Bí thư Trường Chinh
chủ trì. Xuất phát từ nhận định "không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và
mình cũng nhất định phải đánh Pháp", Hội nghị đề ra những chủ trương, biện
pháp cụ thể cả về tư tưởng và tổ chức để quân dân cả nước sẵn sàng bước vào
cuộc chiến đấu mới. Trong Chỉ thị Công việc
khấn cấp bây giờ (5 - 11 - 1946), Hồ Chí Minh đã nêu lên những việc có tầm
chiến lược, toàn cục khi bước vào cuộc kháng chiến và khẳng định lòng tin vào
thắng lợi cuối cùng.
Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được
hoàn chỉnh và thể hiện tập trung trong ba văn kiện lớn được soạn thảo và công
bố sát trước và sau ngày cuộc kháng thiến toàn quốc bùng nổ. Đó là văn kiện
Toàn dân kháng chiến của Trung ương Đảng (12 - 12 - 1946), Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh (19 - 12 - 1946) và tác phẩm Kháng chiến nhất định
thắng lợi của Trường Chinh.
Nội dung đường lối.
Mục đích kháng chiến: Kế tục và phát triển sự nghiệp
Cách mạng Tháng Tám, "Đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống
nhất và độc lập"
Tính chất kháng
chiến: "Cuộc
kháng chiến của dân tộc ta là một cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân,
chiến tranh chính nghĩa. Nó có tính chất toàn dân, toàn diện và lâu dài".
"Là một cuộc chiến tranh tiến bộ vì
tự do, độc lâp, dân chủ và hoà bình". Đó là cuộc kháng chiến có tính
chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới.
Phương châm tiến
hành kháng chiến:
Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện,
lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
Kháng chiến toàn dân: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà không
chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là người VN
thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp", thực hiện mỗi người dân là một
chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài.
Kháng chiến toàn
diện: Đánh địch
về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao. Trong đó:
Về chính trị: Thực hiện đoàn kết toàn dân,
tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên,
Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hoà bình.
Về
quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tiêu
diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận
động chiến, đánh chính quy, là "Triệt để dùng du kích, vận động chiến. Bảo
toàn thực lực, kháng chiến lâu dài... Vừa đánh vừa võ trang thêm; vừa đánh vừa
đào tạo thêm cán bộ".
Về kinh tế: Tiêu thổ kháng chiến, xây dựng
kinh tế tự cung tự túc, tập trung phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp,
thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng.
Về văn hóa: Xoá bỏ văn hoá thực dân, phong
kiến, xây dựng nền văn hoá dân chủ mới theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học,
đại chúng.
Về ngoai giao. Thực hiện thêm bạn bớt thù,
biểu dương thực lực Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân
Pháp", sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận Việt Nam độc lập.
Kháng chiến lâu dài (trường kỳ): Là để chống âm mưu
đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp, để có thời gian phát huy yếu tố "thiên
thời, địa lợi, nhân hòa" của ta, chuyển hóa tương quan lực lượng từ chỗ ta
yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch.
Dựa vào sức mình là
chính "Phải
tự cấp, tự túc về mọi mặt", vì ta bị bao vây bốn phía, chưa được nước nào
giúp đỡ nên phải tự lực cánh sinh. Khi nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp
đỡ của các nước, song lúc đó cũng không được ỷ lại
Triển vọng kháng
chiến: Mặc dù lâu
dài, gian khổ, khó khăn, song nhất định thắng lợi.
Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội
dung cơ bản như trên là đúng đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm của
tổ tiên, đúng với các nguyên lý về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin,
vừa phù hợp với thực tế đất nước lúc bấy giờ. Đường lối kháng chiến của Đảng
được công bố sớm đã có tác dụng đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng đi vào ổn định
và phát triển đúng hướng, từng bước đi tới thắng lợi vẻ vang.
Thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng, từ
năm 1947 đến năm 1950, Đảng đã tập trung chỉ đạo cuộc chiến đấu giam chân địch
trong các đô thị, củng cố các vùng tự do lớn, đánh bại cuộc hành quân lớn của
địch lên Việt Bắc; lãnh đạo đẩy mạnh xây dựng hậu phương, tìm cách chống phá
thủ đoạn "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người
Việt" của thực dân Pháp. Thắng lợi của chiến dịch Biên giới cuối năm 1950
đã giáng một đòn nặng nề vào ý chí xâm lược của địch, quân ta giành được quyền
chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ.
Về đường lối xây
dựng chế độ dân chủ nhân dân:
Đến đầu năm 1951, tình hình thế giới và cách
mạng Đông Dương có nhiều chuyển biến mới. Nước ta đã được các nước xã hội chủ
nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại giao. Cuộc kháng chiến của nhân dân ba
nước Đông Dương đã giành được những thắng lợi quan trọng. Song lợi dụng tình
thế khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã can thiệp trực tiếp vào cuộc
chiến tranh Đông Dương. Điều kiện lịch sử đó đặt ra yêu cầu bổ sung và hoàn
chỉnh đường lối cách mạng, đưa cuộc chiến tranh đến thắng lợi.
Đáp ứng yêu cầu đó, tháng 2 - 1951, Đảng Cộng
sản Đông Dương đã họp Đại hội đại biểu lần thứ hai tại tỉnh Tuyên Quang. Đại
hội đã nhất trí tán thành Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương do Chủ
tịch Hồ Chí Minh trình bày và ra Nghị quyết chia tách Đảng Cộng sản Đông Dương
thành ba đảng cách mạng để lãnh đạo cuộc kháng chiến của ba dân tộc đi tới
thắng lợi. Ở Việt Nam, Đảng ra hoạt động công khai lấy tên là Đảng Lao động
Việt Nam.
Báo cáo hoàn
thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân tiến tới chủ nghĩa xã hội
do Tổng Bí thư Trường Chính trình bày tại Đại hội của Đảng Lao động Việt Nam đã
kế thừa và phát triển đường lối cách mạng trong các cương lĩnh chính trị trước
đây của Đảng thành đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đường lối đó
được phản ánh trong Chính cương của Đảng
Lao động Việt Nam. Nội dung cơ bản là:
Tính chất xã hội. "Xã hội Việt Nam hiện nay
gồm có ba tính chất: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến. Ba
tính chất đó đang đấu tranh lẫn nhau. Nhưng mâu thuẫn chủ yếu lúc này là mâu
thuẫn giữa tính chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa. Mâu thuẫn đó đang
được giải quyết trong quá trình kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống thực dân
Pháp và bọn can thiệp”.
Đối tượng cách mang: Cách mạng Việt Nam có hai đối
tượng: Đối tượng chính hiện nay là chủ nghĩa đế quốc xâm lược cụ thể lúc này là
đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ. Đối tượng phụ hiện nay là phong kiến, cụ thể
lúc này là phong kiến phản động.
Nhiệm vụ cách mạng: ”Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của
cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống
nhất thật sự cho dân tộc, xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến,
làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho
chủ nghĩa xã hội. Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Song nhiệm vụ chính trước
mắt là hoàn thành giải phóng dân tộc. Cho nên lúc này phải tập trung lực lượng
vào việc kháng chiến để quyết thắng quân xâm lược".
Động lực của cách
mạng gồm
"công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức và tư
sản dân tộc; ngoài ra là những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những
giai cấp, tầng lớp và phần tử đó họp thành nhân dân. Nền tảng của nhân dân là
công, nông và lao động trí thức".
Đặc điểm cách mạng: giải quyết những nhiệm vụ cơ bản
nói trên do nhân dân lao động làm động lực, công nông và lao động trí thức làm
nền tảng và giai cấp công nhân lãnh đạo, cách mạng Việt Nam hiện nay là một
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Cách mạng đó không phải là cách mạng dân chủ
tư sản lối cũ cũng không phải là cách mạng xã hội chủ nghĩa mà là một thứ cách
mạng dân chủ tư sản lối mới tiến triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa".
Triển vọng của cách
mạng: "Cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam nhất định sẽ đưa Việt Nam tiến tới chủ
nghĩa xã hội"
Con đương đi lên chủ
nghĩa xã hội: “Đó
là một con đường đấu tranh lâu dài, đại thể trải qua ba giai đoạn: Giai đoạn
thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc; giai đoạn thứ hai,
nhiệm vụ chủ yếu là xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực
hiện triệt để người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ hoàn chỉnh chế độ dân chủ
nhân dân; giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã
hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội. Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau,
mà mật thiết liên hệ, xen kẽ với nhau".
Giai cấp lãnh đạo và
mục tiêu của Đảng:
"Người lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân". Đảng Lao động Việt
Nam là Đảng của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động Việt Nam. Mục đích
của Đảng là phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, để thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và tất cả các dân tộc đa số, thiểu số ở Việt Nam".
Chính sách của Đảng: Có 15 chính sách lớn nhằm phát
triển chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh
kháng chiến đến thắng lợi.
Quan hệ quốc tế Việt Nam đứng về phe hòa bình và
dân chủ, phải tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân
thế giới, của Trung Quốc, Liên Xô; thực hiện đoàn kết Việt - Trung - Xô và đoàn
kết Việt - Miên - Lào.
Đường lối, chính sách của Đại hội đã được bổ
sung, phát triển qua các hội nghị Trung ương tiếp theo.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ nhất (tháng 3
- 1951), Đảng đã phân tích tình hình quốc tế và trong nước, nhấn mạnh thủ
trương phải tăng cường hơn nữa công tác chỉ đạo chiến tranh, củng cố và gia
cường quân đội chủ lực, củng cố bộ đội địa phương và dân quân du kích";
“gia cường việc lãnh đạo kinh tế tài chính", "thực hiện việc khuyến
khích, giúp đỡ tư sản dân tộc kinh doanh và gọi vốn của tư nhân để phát triển
công thương nghiệp", "Tích cực tham gia phong trào bảo vệ hòa bình
thế giới", củng cố Đảng về tư tưởng chính trị và tổ chức".
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ hai
(họp từ ngày 27 - 9 đến ngày 5 - 10 - 1951), đã nêu lên chủ trương đẩy mạnh
cuộc kháng chiến trên cơ sở thực hiện tốt ba nhiệm vụ lớn là "ra sức tiêu diệt sinh lực của địch, tiến
tới giành ưu thế quân sự; ra sức phá âm mưu thâm độc của địch: lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người
Việt đánh người Việt”, đẩy mạnh kháng chiến ở vùng tạm bị chiếm; “củng cố
và phát triển sức kháng chiến của toàn quốc, toàn dân, củng cố và phát triển
đoàn kết".
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ tư (tháng 1 -
1953), vấn đề cách mạng ruộng đất được Đảng tập trung nghiên cứu. kiểm điểm và
đề ra chủ trương thực hiện triệt để giảm tô, chuẩn bị tiến tới cải cách ruộng
đất. Hội nghị cho rằng: muốn kháng chiến hoàn toàn thắng lợi, dân chủ nhân dân
thật thà thực hiện, thì phải thiết thực nâng cao quyền lợi kinh tế và chính trị
của nông dân, phải chia ruộng đất cho nông dân.
Đến Hội nghị Trung ương lần thứ năm (tháng 11
- 1953), Đảng quyết định phát động quần chúng triệt để giảm tô và tiến hành cải
cách ruộng đất trong kháng chiến. Cải cách ruộng đất để đảm bảo cho kháng chiến
thắng lợi. “Cải Cách ruộng đất là chính sách chung của cả nước, nhưng phải làm
từng bước tùy điều kiện mà nơi thì làm trước nơi thì làm sau”. Hội nghị cũng
khẳng định: “Cải cách ruộng đất là một cuộc cách mạng nông dân, một cuộc giai
cấp đấu tranh ở nông thôn, rất rộng lớn, gay go và phức tạp. Cho nên chuẩn bị
phải thật đầy đủ, kế hoạch phải thật rõ ràng, lãnh đạo phải thật chặt chẽ”....
Đường lối hoàn thành giải phóng dân tộc, phát
triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội của Đảng được thực
hiện trên thực tế trong giai đoạn 1951 - 1954.
3.
Kết quả, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm
a) Kết quả và ý nghĩa lịch sử
Kết quả của việc
thực hiện đường lối.
Về chính trị: Đảng ra hoạt động công khai đã
có điều kiện kiện toàn tổ chức, tăng cường sự lãnh đạo đối với cuộc kháng
chiến. Bộ máy chính quyền được củng cố từ Trung ương đến cơ sở. Mặt trận Liên
hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) được thành lập. Khối đại đoàn kết toàn dân
phát triển lên một bước mới. Chính sách ruộng đất được triển khai, từng bước
thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng.
Về quân sự: Đến cuối năm 1952, lực lượng chủ
lực đã có sáu đại đoàn bộ binh, một đại đoàn công binh - pháo binh. Thắng lợi
của các chiến dịch Trung Du, Đường 18, Hà - Nam - Ninh, Hòa Bình, Tây Bắc,
Thượng Lào, v.v. đã tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng
đất đai và dân cư, mở rộng vùng giải phóng của Việt Nam và cho cách mạng Lào,
v.v.. Chiến thắng Điên Biên Phủ ngày 7 - 5 - 1954 được ghi vào lịch sử dân tộc
ta như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ XX và đi vào
lịch sử thế giới như một chiến công điển hình, báo hiệu sự thắng lợi của nhân
dân các dân tộc bị áp bức, sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân.
Về ngoại giao: Với phương châm kết hợp đấu
tranh chính trị, quân sự và ngoại giao, khi biết tin Pháp có ý định đàm phán,
thương lượng với ta, ngày 27 - 12 - 1953, Ban Bí thư ra thông tư nêu rõ:
"lập trường của nhân dân Việt Nam là kiên
quyết kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng. Song nhân dân và Chính phủ ta
cũng tán thành thương lượng nhằm mục đích giải quyết hoà bình vấn đề Việt
Nam". Ngày 8 - 5 - 1954, Hội nghị quốc tế về chấm dứt chiến tranh Đông
Dương chính thức khai mạc ở Giơnevơ (thụy Sỹ). Ngày 21 - 7 - 1954, các văn bản
của Hiệp nghị Giơnevơ về chấm dứt
chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương được ký kết, cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược của quân dân ta kết thúc thắng lợi.
- Ý
nghĩa lịch sử
Đối
với nước ta, việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng
chiến, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm
lược của thực dân Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao, buộc chúng phải
công nhận độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương; đã làm
thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến
tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương; giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều
kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội làm căn cứ địa, hậu thuẫn cho cuộc
đấu tranh ở miền Nam; tăng thêm niềm tự hào dân tộc cho nhân dân ta và nâng cao
uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Đối
với quốc tế thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân
tộc trên thế giới; mở rộng địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và
cách mạng thế giới; cùng với nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách thống trị
của chủ nghĩa thực dân ở ba nước Đông Dương, mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực
dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực dân Pháp.
Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh nói: "Lần đầu tiên trong lịch
sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là
một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của
các lực lượng hoà bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới.
b) Nguyên nhân thắng lợi và bài học
kinh nghiệm.
Nguyên
nhân thắng lợi:
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
và can thiệp Mỹ là kết quả tổng hợp của nhiều nguyên nhân, trong đó nổi bật là:
- Có sự lãnh đạo vững vàng của Đảng, với đường lối
kháng chiến đúng đắn đã huy động được sức mạnh toàn dân đánh giặc; có sự đoàn
kết chiến đấu của toàn dân tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi -
Mặt trận Liên Việt được xây dựng trên nền tảng khối liên minh công nông và trí
thức vững chắc.
- Có lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân do Đảng ta
trực tiếp lãnh đạo ngày càng vững mạnh, chiến đấu dũng cảm, mưu lược, tài trí,
là lực lượng quyết định tiêu diệt địch trên chiến trường, đè bẹp ý chí xâm lược
của địch, giải phóng đất đai của Tổ quốc.
- Có chính quyền dân chủ nhân dân, của dân, do dân
và vì dân được giữ vững, củng cố và lớn mạnh, làm công cụ sắc bén tổ chức toàn
dân kháng chiến và xây dựng chế độ mới.
- Có sự liên minh đoàn kết chiến đấu keo sơn giữa
ba dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia cùng chống một kẻ thù chung; đồng thời có
sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của Trung Quốc, Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa,
các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Pháp.
Bài
học kinh nghiệm về hoạch định và chỉ đạo thực hiện đường lối:
Thứ
nhất, đề ra đường lối đúng đắn và quán triệt sâu rộng đường lối đó cho toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân thực hiện, đó là đường lối chiến tranh nhân dân,
kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài dựa vào sức mình là chính.
Thứ
hai, kết hợp chặt chẽ, đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ chống
phong kiến và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã
hội, trong đó nhiệm vụ tập trung hàng đầu là chống đế quốc, giải phóng dân tộc,
bảo vệ chính quyền cách mạng.
Thứ
ba, thực hiện phương châm vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới, xây dựng
hậu phương ngày càng vững mạnh để có tiềm lực mọi mặt đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của cuộc kháng chiến.
Thứ
tư, quán triệt tư tưởng chiến lược kháng chiến gian khổ và lâu dài, đồng thời
tích cực, chủ động đề ra và thực hiện phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ
thuật quân sự sáng tạo, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao, đưa
kháng chiến đến thắng lợi.
Thứ
năm, tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu và hiệu lực
lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh.
II.
ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC, THỐNG NHẤT TỔ QUỐC (1954 - 1975)
1.
Đường lối trong giai đoạn 1954 - 1964
a) Bối cảnh lịch sử của cách mạng
Việt Nam sau tháng 7/1954
Sau Hội nghị Giơnevơ, cách mạng Việt Nam vừa
có những thuận lợi mới vừa đứng trước nhiều khó khăn, phức tạp.
Thuận lợi, hệ thống xã hội thủ nghĩa tiếp
tục lớn mạnh cả về kinh tế, quân sự, khoa học - kỹ thuật, nhất là của Liên Xô;
phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển ở châu á, châu Phi và khu vực
Mỹ La tinh; phong trào hòa bình, dân chủ lên cao ở các nước tư bản; miền Bắc
được hoàn toàn giải phóng, làm căn cứ địa chung cho cả nước; thế và lực của
cách mạng đã lớn mạnh hơn sau chín năm kháng chiến; có ý chí độc lập thống nhất
Tổ quốc của nhân dân từ Bắc chí Nam.
Khó khăn: Đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế,
quân sự hùng mạnh âm mưu làm bá chủ thế giới với các chiến lược toàn cầu phản
cách mạng; thế giới bước vào thời kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang giữa
hai phe xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa; xuất hiện sự bất đồng trong hệ
thống xã hội chủ nghĩa, nhất là giữa Liên Xô và Trung Quốc; đất nước ta bị chia
làm hai miền, kinh tế miền Bắc nghèo nàn, lạc hậu, miền Nam trở thành thuộc địa
kiểu mới của Mỹ và đế quốc Mỹ trở thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta.
Một Đảng lãnh đạo hai cuộc cách mạng khác
nhau, ở hai miền đất nước có chế độ chính trị khác nhau là đặc điểm lớn nhất
của cách mạng Việt Nam sau tháng 7 - 1954. Đặc điểm bao trùm và các thuận lợi,
khó khăn nêu trên là cơ sở để Đảng ta phân tích, hoạch định đường lối chiến
lược chung cho cách mạng cả nước trong giai đoạn mới.
b) Quá trình hình thành, nội dung và
ý nghĩa của đường lối
Quá trình hình thành
và nội dung đường lối:
Yêu cầu bức thiết đặt ra cho Đảng ta sau
tháng 7 – 1954 là phải vạch ra được đường lối đúng đắn, vừa phù hợp với tình
hình mỗi miền, tình hình cả nước, vừa phù hợp với xu thế chung của thời đại.
Tháng 7-1954, Hội nghị Trung ương lần thứ sáu
của Đảng đã phân tích tình hình cách mạng nước ta, xác định đế quốc Mỹ là kẻ
thù chính của nhân dân Việt Nam.
Tháng 9-1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới nhiệm vụ mới và
chính sách mới của Đảng. Nghị quyết đã chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của
tình hình trong lúc cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn mới là: từ chiến
tranh chuyển sang hòa bình; nước nhà tạm chia làm hai miền; từ nông thôn chuyển
vào thành thị; từ phân tán chuyển đến tập trung.
Tại Hội nghị lần thứ bảy (tháng 3 - 1955) và
lần thứ tám (tháng 8 - 1955) Trung ương Đảng nhận định: Muốn chống đế quốc Mỹ
và tay sai, củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân
chủ, điều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy
mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.
Tháng 8-1956, tại Nam Bộ, đồng chí Lể Duẩn đã
dự thảo Đường lối cách mạng miền Nam, xác
định con đường phát triển của cách mạng miền Nam là bạo lực cách mạng, “Ngoài
con đường cách mạng không có một con đường nào khác”.
Tháng 12 - 1957, tại Hội nghị Trung ương lần
thứ 13, đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng được xác định:
"Mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng của toàn Đảng, toàn dân ta hiện nay là:
Củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục đấu tranh
để thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp
hòa bình".
Tháng 1 - 1959, Hội nghị Trung ương lần thứ
15 họp bàn về cách mạng miền Nam. Sau nhiều lần họp và thảo luận, Ban Chấp hành
Tnmg ương đã ra nghị quyết về cách mạng miền Nam. Trung ương Đảng nhận định:
"Hiện nay, cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo bao gồm hai nhiệm vụ
chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ chiến lược đó tuy tính chất khác nhau, nhưng
quan hệ hữu cơ với nhau... nhằm phương hướng chung là giữ vững hòa bình, thực
hiện thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước Việt Nam tiến
lên chủ nghĩa xã hội". Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam
là “giải phóng miền Nam khỏi ách thống
trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng,
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam", "con đường phát
triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành thính quyền
về tay nhân dân". Đó là con đường "lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng thính trị của quần chúng
là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế
quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân". Tuy
vậy, cần thấy rằng cách mạng ở miền Nam vẫn có khả năng hòa bình phát triển,
tức là khả năng dần dần cải biến tình thế, dần dần thay đổi cục diện chính trị
ở miền Nam có lợi cho cách mạng. Khả năng
đó hiện nay rất ít, song Đảng ta không gạt bỏ khả năng đó, mà cần ra sức tranh
thủ khả năng đó".
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 có ý nghĩa
lịch sử to lớn chẳng những đã mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, mà còn
thể hiện rõ bản lĩnh độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng
khó khăn của cách mạng.
Quá trình đề ra và chỉ đạo thực hiện các nghị
quyết, chủ trương nói trên chính là quá
trình hình thành đường lối chiến lược chung cho cách mạng cả nước, được
hoàn chỉnh tại Đại hội lần thứ III của Đảng.
Đại hội lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô
Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960. Đại hội đã hoàn chỉnh đường lối chiến lược
chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Cụ thể là:
Nhiệm vụ chung:
"Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy
mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc
lập và dân thủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ
hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới".
Nhiệm vụ chiến lược: “Cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến lược: Một
là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và
bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong
cả nước”. "Nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và nhiệm vụ cách mạng ở miền Nam
thuộc hai chiến lược khác nhau. Mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể của
mỗi miền trong hoàn cảnh nước nhà tạm bị chia cắt. Hai nhiệm vụ đó lại nhằm
giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và bọn
tay sai của chúng, thực hiện mục tiêu chung trước mắt là hòa bình thống nhất Tổ
quốc".
Mối quan hệ của cách
mang hai miền: Do
cùng thực hiện một mục tiêu chung nên “hai nhiệm vụ thiến lược ấy có quan hệ
mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau”.
Vai trò, nhiệm vụ
của cách mạng mỗi miền đối với cách mạng cả nước: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có
nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa của cả nước, hậu thuẫn cho cách
mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội về sau, nên giữ vai
trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối
với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi
ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất
nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Con đường thống nhất
đất nước: Trong
khi tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, Đảng kiên trì con đường hòa
bình thống nhất theo tinh thần Hiệp nghị Giơnevơ, sẵn sàng thực hiện hiệp
thương tổng tuyển cử hòa bình thống nhất Việt Nam, vì đó là con đường tránh
được sự hao tổn xương máu cho dân tộc ta và phù hợp với xu hướng chung của thế
giới. Nhưng chúng ta phải luôn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đối phó với
mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng liều lĩnh gây ra chiến
tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết đứng dậy
đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ quốc".
Triển vọng của cách
mạng Việt Nam:
Cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà là một quá trình đấu tranh
cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay
sai của chúng ở miền Nam. Thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về nhân dân ta.
Nam Bắc nhất định sum họp một nhà, cả nước sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng
do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và Lê Duẩn làm Bí thư thứ nhất.
- Ý nghĩa của đường
lối:
Đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt
chẽ hai chiến lược cách mạng do Đại hội lần thứ III của Đảng đề ra có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn hết sức to lớn.
+ Đường lối đó thể hiện tư tưởng chiến lược
của Đảng: Gương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vừa phù hợp
với miền Bắc vừa phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp với cả nước Việt Nam và phù
hợp với tình hình quốc tế, nên đã huy động và kết hợp được sức mạnh của hậu
phương và tiền tuyến, sức mạnh cả nước và sức mạnh của ba dòng thác cách mạng
trên thế giới, tranh thủ được sự đồng tình giúp đỡ của cả Liên Xô và Trung
Quốc. Do đó đã tạo ra được sức mạnh tổng hợp để dân tộc ta đủ sức đánh thắng đế
quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
+ Đặt trong bối cảnh Việt Nam và quốc tế lúc
bấy giờ, đường lối chung của cách mạng Việt Nam đã thể hiện tinh thần độc lập
tư chủ và sáng tạo của Đảng ta trong việc giải quyết những vấn đề không có tiền
lệ lịch sử, vừa đúng với thực tiễn Việt Nam, vừa phù hợp với lợi ích của nhân
loại và xu thế của thời đại.
+ Đường lối chiến lược chung cho cả nước và
đường lối cách mạng ở mỗi miền là cơ sở để Đảng chỉ đạo quân dân ta phấn đấu
giành được những thành tựu to lớn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và
đấu tranh thắng lợi chống các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và tay sai
ở miền Nam.
Đường lối của Đại hội III được Đảng bổ sung,
phát triển qua quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng ở mỗi miền trong những năm
1960-1965. Trong đó, đối với miền Bắc, các Hội nghị Trung ương lần thứ tư
(tháng 4-1961) đã bàn về công tác xây dựng Đảng, Hội nghị Trung ương lần thứ
năm (tháng 7-1961) bàn về phát triển nông nghiệp, Hội nghị Trung ương lần thứ
bảy (6-1962) bàn về phát triển công nghiệp, Hội nghị Trung ương lần thứ 10
(tháng 12-1964) bàn về lưu thông, phân phối… Đối với cách mạng miền Nam, các
hội nghị của Bộ Chính trị đầu năm 1961, 1962 đã chủ trương giữ vững và phát
triển thé tiến công cách mạng, giữ vững và đẩy mạnh đấu tranh chính trị, đồng
thời phát triển đấu tranh vũ trang lên một bước mới, ngang tầm với đấu tranh
chính trị. Thực hiện kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị song
song, đẩy mạnh đánh địch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận.
Vận dụng phương châm đấu tranh phù hợp với đặc điểm từng vùng chiến lược: rừng
núi, đồng bằng, thành thị.
2.
Đường lối trong giai đoạn 1965 - 1975
a) Bối cảnh lịch sử
Từ đầu năm 1965, để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của
chế độ Sài Gòn và sự phá sản của chiến lược “chiến tranh đặc biệt", đế
quốc Mỹ đã ào ạt đưa quân Mỹ và quân các nước chư hầu vào miền Nam, tiến hành
cuộc chiến tranh cục bộ" với quy mô lớn; đồng thời dùng không quân, hải
quân hùng hổ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc. Trước tình
hình đó, Đảng ta đã quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
trên phạm vi toàn quốc.
Thuận lợi: Khi bước vào cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, cách mạng thế giới đang ở thế tiến công. Ở miền Bắc, kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất đã đạt và vượt các mục tiêu về kinh tế, văn hóa. Sự
chi viện sức người, sức của của miền Bắc cho cách mạng miền Nam được đẩy mạnh
cả theo đường bộ và đường biển.
Ở miền Nam, vượt qua những khó khăn trong
những năm 1961 - 1962, từ năm 1963, cuộc đấu tranh của quân dân ta đã có bước
phát triển mới. Ba công cụ của "Chiến tranh đặc biệt" (ngụy quân,
ngụy quyền, ấp chiến lược và đô thị) đều bị quân dân ta tấn công liên tục. Đến
đầu năm 1965, chiến lược “chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ được triển
khai đến mức cao nhất đã cơ bản bị phá sản.
Khó khăn: Sự bất đồng giữa Liên Xô và
Trung Quốc càng trở nên gay gắt và không có lợi cho cách mạng Việt Nam. Việc đế
quốc Mỹ mở cuộc "Chiến tranh cục bộ", ồ ạt đưa quân đội viễn chinh Mỹ
và các nước chư hầu vào trực tiếp xâm lược miền Nam đã làm cho tương quan lực
lượng trở nên bất lợi cho ta.
Tình hình đó đặt ra yêu cầu mới cho Đảng ta
trong việc xác định quyết tâm và đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
nhằm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
b) Quá trình hình thành, nội dung và
ý nghĩa của đường lối
- Quá trình hình
thành và nội dung đường lối:
Khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược “Chiến
tranh đặc biệt" ở miền Nam, các hội nghị của Bộ Chính trị đầu năm 1961 và
đầu năm 1962 đã nêu chủ trương giữ vững và phát triển thế tiến công mà ta đã
giành được sau cuộc "đồng khởi”, năm 1960, đưa cách mạng miền Nam từ khởi
nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách mạng trên quy mô toàn miền.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ chín (tháng
11 - 1963), ngoài việc xác định đúng đắn quan điểm quốc tế, hướng hoạt động đối
ngoại vào việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để đánh Mỹ và
thắng Mỹ, còn quyết định nhiều vấn đề quan trọng về cách mạng miền Nam. Hội
nghị tiếp tục khẳng định đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang đi đôi cả hai
đều có vai trò quyết định cơ bản, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu mới của đấu tranh
vũ trang. Đối với miền Bắc, Hội nghị tiếp tục xác định trách nhiệm là căn cứ
địa, hậu phương đối với cách mạng miền Nam, đồng thời nâng cao cảnh giác, triển
khai mọi mặt sẵn sàng đối phó với âm mưu đánh phá của địch.
Trước hành động gây “Chiến tranh cục bộ"
ở miền Nam, tiến hành chiến tranh phá hoại ra miền Bắc của đế quốc Mỹ, Hội nghị
Trung ương lần thứ 11 (tháng 3 - 1965) và lần thứ 12 (tháng 12 - 1965) đã tập
trung đánh giá tình hình và đề ra đường
lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên cả nước.
Về nhận định tình
hình và chủ trương chiến lược. Trung ương Đảng cho rằng cuộc "Chiến tranh cục bộ" mà Mỹ
đang tiến hành ở miền Nam vẫn là một cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới,
buộc phải thực thi trong thế thua, thế thất bại và bị động, cho nên nó chứa
đựng đầy mâu thuẫn về chiến lược Từ sự phân tích và nhận định đó, Trung ương
Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trong toàn quốc,
coi chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc từ Nam chí Bắc.
Quyết tâm và mục
tiêu chiến lược:
Nêu cao khẩu hiệu Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược", "kiên quyết
đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào,
để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.
Phương châm chỉ đạo
chiến lược: Tiếp
tục và đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh cục bộ của Mỹ ở
miền Nam. Đồng thời phát động chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại
của Mỹ ở miền Bắc; thực hiện kháng chiến lâu dài, dựa vào sức mình là chính,
càng đánh càng mạnh và cố gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng của cả hai
miền để mở những cuộc tiến công lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết
định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.
Tư tưởng chỉ đao và
phương châm đấu tranh ở miền Nam: Giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên quyết tiến công và liên
tục tiến công. "Tiếp tục kiên trì phương châm đấu tranh quân sự kết hợp
với đấu tranh chính trị, triệt để vận dựng ba mũi giáp công" đánh địch
trên cả ba vùng chiến lược. Trong giai đoạn hiện nay, đấu tranh quân sự có tác
dụng quyết định trực tiếp và giữ một vị trí ngày càng quan trọng.
Tư tưởng chỉ đạo đối
với miền Bắc.
Chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về
kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh. Tiến hành cuộc chiến
tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc
miền Bắc xã hội chủ nghĩa, động viên sức người sức của ở mức cao nhất để chi
viện cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam đồng thời tích cực chuẩn bị đề
phòng để đánh bại địch trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng "Chiến
tranh cục bộ" ra cả nước.
Nhiệm vụ và mối quan
hệ giữa cuộc chiến đấu ở hai miền: Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ của nhân dân cả nước, miền Nam là
tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả
nước, vì miền Bắc xã hội chủ nghĩa là hậu phương vững chắc trong cuộc chiến
tranh thống Mỹ. Phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền
Bắc và ra sức tăng cường lực lượng miền Bắc về mọi mặt nhằm đảm bảo chi viện
đắc lực cho miền Nam càng đánh càng mạnh. Hai nhiệm vụ trên đây không tách rời
nhau, mà mật thiết gắn bó nhau. Khẩu hiệu chung của nhân dân cả nước lúc này là
“Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược".
- Ý nghĩa của đường
lối:
Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của
Đảng được đề ra tại các Hội nghị Trung ương lần thứ 11 và 12 có ý nghĩa hết sức
quan trọng:
+ Thể hiện quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ,
tinh thần cách mạng tiến công, tinh thần độc lập tự chủ, sự kiên trì mục tiêu
giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, phản ánh đúng đắn ý chí, nguyện vọng
chung của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta.
+ Thể hiện tư tưởng nắm vững, giương cao ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục tiến hành đồng thời và kết hợp
chặt chẽ hai chiến lược cách mạng trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh ở mức
độ khác nhau, phù hợp với thực tế đất nước và bối cảnh quốc tế.
+ Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn
dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính được phát triển trong hoàn
cảnh mới, tạo nên sức mạnh mới để dân tộc ta đủ sức đánh thắng giặc Mỹ xâm
lược.
Đường lối chống Mỹ, cứu nước trên phạm vi cả
nước của Hội nghị Trung ương làn thứ 11 và 12 đã được Đảng bổ sung, phát triển
qua thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến. Hội nghị Trung ương lần thứ
13 (1967) đã chủ trương mở mặt trận ngoại giao, kết hợp đấu tranh quân sự,
chính trị với ngoại giao, đưa tới cuộc đàm phán Hội nghị Pari sau này. Hội nghị
Trung ương lần thứ 14 (1968) đã quyét định, mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
mùa xuân năm 1968 để kéo để quốc Mỹ xuống thang chiến tranh. Hội nghị Trung
ương lần thứ 21 (1973) xác định con đường phát triển của cách mạng miền Nam sạu
khi có Hiệp định Pari cơ bản vẫn là con đường cách mạng tiến công. Đặc biệt,
tại các Hội nghị Bộ Chính trị cuối năm 1974 (đợt 1) và đầu năm 1975 (đợt 2)
Đảng đã hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam theo một kế hoạch chiến lược
kéo dài hai năm 1975-1976, đồng thời nêu dự kiến nếu thời cơ thuận lợi sẽ giải
phóng miền Nam trong năm 1975 và trên thực tế đã mở cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam trước mùa mưa năm 1975.
3.
Kết quả, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm
a) Kết quả và ý nghĩa lịch sử
Kết quả:
Ở miền Bắc, thực hiện đường lối, chủ trương
của Đảng sau 21 năm nỗ lực phấn đấu, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt
được những thành tựu đáng tự hào. Một chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ
nghĩa bước đầu được hình thành. Dù chiến tranh ác liệt, bị tổn thất nặng nề về
vật chất, thiệt hại lớn về người, song không có nạn đói, dịch bệnh và sự rối
loạn xã hội. Văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục không những được duy trì mà còn có
sự phát triển mạnh. Sản xuất nông nghiệp phát triển, công nghiệp địa phương
được tăng cường.
Quân dân miền Bắc đã đánh thắng cuộc chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, điển hình là chiến thắng lịch sử của trận
"Điện Biên Phủ trên không" trên bầu trời Hà Nội cuối năm 1972.
Miền Bắc không chỉ chia lửa với các chiến
trường mà còn hoàn thành xuất sắc vai trò căn cứ địa của cách mạng cả nước và
nhiệm vụ hậu phương lớn đối với chiến trường miền Nam.
Ở miền Nam, với sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng
đắn của Đảng, quân dân ta đã vượt lên mọi gian khổ hy sinh, bền bỉ và anh dũng
chiến đấu, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc
Mỹ. Trong giai đoạn 1954 - 1960 đã đánh bại “Chiến tranh đơn phương” của Mỹ -
Ngụy, đưa cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công; giai đoạn 1961
- 1965 đã giữ vững và phát triển thế tiến công, đánh bại chiến lược "Chiến
tranh đặc biệt" của Mỹ; giai đoạn 1965 - 1968 đã đánh bại chiến lược
"Chiến tranh cục bộ" của Mỹ và chư hầu, buộc Mỹ phải xuống thang
chiến tranh, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Pari; giai đoạn 1969 -
1975 đã đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ và tay sai mà
đỉnh cao là Đại thắng Mùa Xuân 1975 với Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đập tan
toàn bộ chính quyền địch, buộc chúng phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, giải
phóng hoàn toàn miền Nam.
- Ý nghĩa lịch sử:
Ý nghĩa lịch sứ đối
với nước ta là đã
kết thúc thắng lợi 21 năm chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược (tính từ năm
1954), 30 năm chiến tranh cách mạng (tính từ năm 1945), 117 năm chống đế quốc
thực dân phương Tây (tính từ năm 1858), quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi,
giải phóng miền Nam, đưa lại độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thồ cho đất
nước; hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi cả nước, mở ra kỷ
nguyên mới cho dân tộc ta, kỷ nguyên cả nước hòa bình, thống nhất, cùng chung
một nhiệm vụ chiến lược, đi lên chủ nghĩa xã hội; tăng thêm sức mạnh vật chất, tinh
thần, thế và lực cho cách mạng và dân tộc Việt Nam. Để lại niềm tự hào sâu sắc
và những kinh nghiệm quý cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước giai đoạn sau; góp
phần quan trọng vào việc nâng cao uy tín của Đảng và dân tộc Việt Nam trên
trường quốc tế.
- Ý nghĩa đối với
cách mạng thế giới
là đã đập tan cuộc phản kích lớn nhất của chủ nghĩa đế quốc vào chủ nghĩa xã
hội và cách mạng thế giới kể từ sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai, bảo
vệ vững chắc tiền đồn phía Đông Nam Á của chủ nghĩa xã hội; làm phá sản các
chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, gây tổn thất to lớn và tác động
sâu sắc đến nội tình nước Mỹ trước mắt và lâu dài; góp phần làm suy yếu chủ
nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của chúng ở khu vực Đông Nam á
mở ra sự sụp đổ không thể tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân mới, cổ vũ mạnh mẽ
phong trào đấu tranh vì mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ tự do và hòa bình
phát triển của nhân dân thế giới.
Đánh giá thắng lợi lịch sử của sự nghiệp chống
Mỹ, cứu nước. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của
Đảng (tháng 12 - 1976) khẳng định: "Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi
của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi
vào lịch sử dân tộc như một trong những trang chói lọi nhất một biểu tượng sáng
ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và
đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có
tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc".
b) Nguyên nhân thắng lợi và bài học
kinh nghiệm
Nguyên nhân thắng lợi.
Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là
kết quả tổng hợp của nhiều nguyên nhân, trong đó quan trọng nhất là:
- Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt
Nam, người đại biểu trung thành cho những lợi ích sống còn của cả dân tộc Việt
Nam, một Đảng có đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập tự chủ, sáng
tạo.
- Cuộc chiến đấu đầy gian khổ hy sinh của
nhân dân và quân đội cả nước, đặc biệt là của cán bộ, chiến sĩ và hàng chục
triệu đồng bào yêu nước ở miền Nam ngày đêm đối mặt với quân thù, xứng đáng với
danh hiệu “Thành đồng Tổ quốc".
- Công cuộc xây dựng và bảo vệ hậu phương
miền Bắc xã hội chủ nghĩa của đồng bào và chiến sĩ thiên Bắc, một hậu phương
vừa chiến đấu vừa xây dựng, hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ của hậu phương lớn,
hết lòng hết sức chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm
lược.
- Tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba
nước Việt Nam, Lào, Campuchia và sự ủng hộ, sự giúp đỡ to lớn của các nước xã
hội chủ nghĩa anh em; sự ủng hộ nhiệt tình của chính phủ và nhân dân tiến bộ
trên toàn thế giới kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ.
Bài học kinh nghiệm:
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước đã để lại cho Đảng ta nhiều bài học kinh nghiệm về lãnh đạo và chỉ đạo
cách mạng.
Một là, đề ra và thực hiện đường lối
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm huy động sức mạnh
toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ. Đường lối đó thể hiện ý chí và nguyện vọng
thiết tha của nhân dân miền Bắc, nhân dân miền Nam, của cả dân tộc Việt Nam,
phù hợp với các trào lưu của cách mạng thế giới, nên đã động viên đến mức cao
nhất lực lượng của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh của tiền tuyến lớn với hậu
phương lớn, kết hợp sức mạnh của nhân dân ta với sức mạnh của thời đại, tạo nên
sức mạnh tổng hợp để chiến đấu và chiến thắng giặc Mỹ xâm lược.
Hai là, tin tưởng vào sức mạnh của dân
tộc, kiên định tư tưởng chiến lược tiến công, quyết đánh và quyết thắng đế quốc
Mỹ xâm lược. Tư tưởng đó là một nhân tố hết sức quan trọng để hoạch định đúng
đắn đường lối, chủ trương, biện pháp đánh Mỹ, nhân tố đưa cuộc chiến đấu của
dân tộc ta đi tới thắng lợi.
Ba là, thực hiện thiến tranh nhân dân,
tìm ra biện pháp chiến đấu đúng đắn, sáng tạo. Để chống lại kẻ địch xâm lược
hùng mạnh, phải thực hiện chiến tranh nhân dân. Đồng thời phải chú trọng tổng
kết thực tiễn để tìm ra phương pháp đấu tranh, phương pháp chiến đấu đúng đắn,
linh hoạt, sáng tạo.
Bốn là, trên cơ sở đường lối, chủ trương
chiến lược chung đúng đắn phải có công tác tổ chức thực hiện giỏi, năng động,
sáng tạo cửa các cấp bộ đảng trong quân đội, của các ngành, các địa phương,
thực hiện phương châm giành thắng lợi từng bước để đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Năm là, phải hết sức coi trọng công tác
xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng cách mạng ở cả hậu phương và tiền tuyến; phải
thực hiện liên minh ba nước Đông Dương và tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ
ngày càng to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa, của nhân dân và chính phủ các
nước yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới.
Chương IV:
ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HOÁ
I - CÔNG NGHIỆP HÓA THỜI KỲ TRƯỚC
ĐỔI MỚI
1.
Mục tiêu và phương hướng của công nghiệp hoá
Đường lối công nghiệp hoá đất nước đã được
hình thành từ Đại hội III của Đảng (tháng 9 - 1960). Trước thời kỳ đổi mới,
nước ta đã có khoảng 25 năm tiến hành công nghiệp hoá qua hai giai đoạn: từ năm 1960 đến năm 1975 triển khai ở miền
Bắc và từ năm 1975 đến năm 1985 thực hiện trên phạm vi cả nước.
Ở miền Bắc: trên cơ sở phân tích một cách
sâu sắc đặc điểm miền Bắc, trong đó đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn
phát, triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội III của Đảng khẳng định: muốn cải biến
tình trạng kinh tế lạc hậu của nước ta, không có con đường nào khác, ngoài con
đường công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Tức là khẳng định tính tất yếu của công
nghiệp hoá đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nuốt ta. Đại hội cũng
chỉ rõ, đê thực hiện được mục tiêu trên thì vấn đề quan trọng có tính chất
quyết định là thực hiện trang bị kỹ thuật cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân,
thực hiện cơ giới hoá sản xuất, từ đó nâng cao năng suất lao động.
Ngay từ đầu quá trình công nghiệp hoá, Đảng
ta đã xác định công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong
suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Quan điểm đúng đắn này được
khẳng định nhiều lần trong tất cả các Đại hội của Đảng.
Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa được Đại hội III xác định là xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
cân đối và hiện đại; bước đầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội. Đó là mục tiêu cơ bản. lâu dài, phải thực hiện qua nhiều giai đoạn.
Để chỉ đạo thực hiện công nghiệp hoá, Hội
nghị Trung ương lần thứ 7 (khoá III) nêu phương hướng chỉ đạo xây dựng và phát
triển công nghiệp là:
- Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp lý;
- Kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với
phát triển nông nghiệp;
- Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song
với việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng;
- Ra sức phát triển công nghiệp trung ương,
đồng thời đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương.
Trên phạm vi cả nước: Sau Đại thắng Mùa Xuân năm 1975,
cả nước độc lập, thống nhất và quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở phân
tích một cách toàn diện đặc điểm, tình hình trong nước và quốc tế. Đại hội IV
của Đảng(tháng 12 - 1976) đề ra đường lối công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là: "Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế
nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu
kinh tế công - nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh
tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ
cấu kinh tế quốc dân thống nhất". Đường lối này nhất trí với những
nhận thức cơ bản về công nghiệp hoá ở miền Bắc trước đây đồng thời có sự phát
triển thêm.
Từ thực tiễn chỉ đạo công nghiệp hoá 5 năm
(1976 - 1981), Đảng ta rút ra kết luận: từ một nền sản xuất nhỏ đi lên, điều
quan trọng là phải xác định đúng bước đi của công nghiệp hóa cho phù hợp với mục
tiêu và khả năng của mỗi chặng đường. Với cách đặt vấn đề như trên, Đại hội lần
thứ V của Đảng (tháng 3 - 1982) đã xác định trong chặng đường đầu tiên của thời
kỳ quá độ ở nước ta phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát
triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc xây dựng và phát triển công
nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ vừa sức, nhằm phục vụ thiết
thực có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đại hội V coi đó là nội dung chính của công nghiệp hóa trong
chặng đường trước mắt. Đây là sự điều chỉnh rất đúng đắn bước đi của công
nghiệp hóa, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Tiếc rằng, trên thực tế chúng ta đã
không làm đúng sự điều chỉnh chiến lược quan trọng này.
2. Đánh giá sự thực
hiện đường lối công nghiệp hóa
Nhìn chung trong thời kỳ 1960 - 1985, chúng
ta đã nhận thức và tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu cũ với các đặc trưng chủ
yếu sau đây:
- Công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về phát
triển công nghiệp nặng.
- Công nghiệp hóa chủ yếu dựa vào lợi thế về
lao động, tài nguyên, đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa;
chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước;
việc phân bổ nguồn lực để công nghiệp hóa được thực hiện thông qua cơ chế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp không
tôn trọng các quy luật của thị trường.
- Nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý thí, ham
làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh tế - xã hội.
- Trong điều kiện chiến tranh phá hoại, tiếp
theo lại bị bao vây, cô lập, những sai lầm trên đây đã trở thành một nguyên
nhân chủ yếu dẫn tới cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm.
Những hạn chế trên xuất phát từ nguyên nhân:
Về khách quan, chúng ta tiến hành công nghiệp hóa từ một nền sản xuất lạc hậu, nghèo
nàn trong điều kiện chiến tranh kéo dài, vừa bị tàn phá nặng nề, vừa không thể
tập trung sức người, sức của cho công nghiệp hóa.
Về
chủ quan, chúng ta mắc những sai lầm nghiêm trọng trong xác định mục tiêu,
bước đi về cơ sở vật chất, kỹ thuật, bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư, ..
đó là những sai lầm xuất phát từ tư tưởng tả khuynh, chủ quan, duy ý chí trong
nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa.
II. CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1.
Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hoá
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng (tháng 12 - 1986) với tinh thần "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá
đúng sự thật, nói rõ sự thật" đã nghiêm khắc chỉ ra những sai lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa thời kỳ
1960 - 1985, mà trực tiếp là mười năm, từ 1975 đến 1985. Đó là:
- Chúng ta đã phạm sai lầm trong việc
xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo xã
hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế, v.v.. Do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội,
muốn bỏ qua những bước đi cần thiết
nên chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các
tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
- Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết
là cơ cấu sản xuất và đầu tư thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh,
không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp thành một cơ cấu
hợp lý, thiên về xây dựng công nghiệp
nặng và những công trình quy mô lớn, không
tập trung sức giải quyết về căn bản vấn đề lương thực, thực phẩm, hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp.
- Không thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết của
Đại hội lần thứ V, như: vẫn chưa thật sự
coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, công nghiệp nặng không phục vụ kịp thời
nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Từ việc chỉ ra những sai lầm, khuyết
điểm, Đại hội VI đã cụ thể hoá nội dung chính của công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ là thực hiện cho bằng được ba Chương
trình mục tiêu: lương thực-thực phẩm,
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Hội nghị Trung ương 7 khoá VII (tháng 1 - 1994),
đã có bước đột phá mới trong nhận thức về công nghiệp hoá. Bước đột phá
này thể hiện trước hết ở nhận thức về khái niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá. "Công nghiệp hóa, hiện đại hoá là quá
trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sứ dụng
một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên
tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học - công
nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
Đại hội VIII của Đảng (tháng 6 - 1996) nhìn
lại đất nước sau mười năm đổi mới đã có nhận định quan trọng: nước ta đã ra
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời
kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành cho phép
chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Đến Đại hội IX (tháng 4 - 2001) và Đại hội X
(tháng 4- 2006), Đại hội XI (tháng 1-2011), Đại hội XII (tháng 1-2016) của Đảng
tiếp tục bổ sung và nhấn mạnh một số điểm mới về mục tiêu, con đường công
nghiệp hóa ở nước ta, về công nghiệp hoá, hiện đại hóa, gắn với kinh tế tri
thức, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nhanh, bền vững.
2.
Mục tiêu, quan điểm công nghiệp hoá, hiện đại hoá
a) Mục tiêu công nghiệp hoá, hiện
đại hoá
Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại
hoá là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật
hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc
phòng - an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Để thực hiện mục tiêu trên, ở mỗi thời kỳ
phải đạt được những mục tiêu cụ thể. Đại hội X xác định mục tiêu đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta
ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đại hội XII đã nhận định, nhiều chỉ tiêu tiêu chí trong mục tiêu
phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại không đạt được. Trong 5 năm tới
(2016-2020) tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chú trọng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, phát triển nhanh, bền
vững; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại.
b) Quan điểm công nghiệp hoá, hiện
đại hoá
Bước vào thời kỳ đối mới, trên cơ sở phân
tích khoa học các điều kiện trong nước và quốc tế, Đảng ta nêu ra những quan
điểm mới chỉ đạo quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
trong điều kiện mới. Những quan điểm này được Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp
hành Trung ương khoá VII nêu ra và được phát triển, bổ sung qua các Đại hội
VIII, IX, X, XI, XII của Đảng. Dưới đây khái quát lại những quan điểm cơ bản
của Đảng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá thời kỳ đổi mới:
Một là, công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá và công nghiệp hoá, hiện đại hoá
gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Từ thế kỷ XVII, XVIII, các nước Tây âu đã
tiến hành công nghiệp hoá. Khi đó công nghiệp hoá được hiểu là quá trình thay
thế lao động thu công bằng lao động sử dụng máy móc. Nhưng trong thời đại ngày
nay, Đại hội X nhận định: "khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt.
Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực
lượng sản xuất". Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại tác động sâu
rộng tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh đó xu thế hội nhập và tác
động của quá trình toàn cầu hoá đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối
với đất nước. Trong bối cảnh đó, nước ta cần phải và có thể tiến hành công
nghiệp hoá theo kiểu rút ngắn thời gian khi biết lựa chọn con đường phát triển
kết hợp công nghiệp hoá với hiện đại hoá.
Nước ta thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá khi trên thế giới kinh tế tri thức đã phát triển. Chúng ta có thể và cần
thiết không trải qua các bước phát triển tuần tự từ kinh tế nông nghiệp lên
kinh tế công nghiệp rồi mới phát triển kinh tế tri thức. Đó là lợi thế của các
nước đi sau, không phải là nóng vội, duy ý chí. Vì vậy, Đại hội X chỉ rõ: đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi
kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và của công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh thêm: “thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường;
xây dựng cơ cấu kinh té hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn chặt chẽ
công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ”.
Đại hội XII của Đảng xác định: “tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển
nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với
phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân
lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu”.
Kinh
tế tri thức là gì? Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa
ra định nghĩa: Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập
và sử dựng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế,
tạo ra của cải nâng cao chất lượng cuộc sống. Trong nền kinh tế tri thức những
ngành kinh tế có tác động to lớn tới sự phát triển là những ngành dựa nhiều vào
tri thức, dựa vào các thành tựu mới của khoa học, công nghệ. Đó là những ngành
kinh tế mới dựa trên công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học
và cả những ngành kinh tế truyền thống như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ
được ứng dụng khoa học, công nghệ cao.
Hai
là, công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Khác với công nghiệp hoá ở thời kỳ trước đối mới,
được tiến hành trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, lực lượng làm, công
nghiệp hoá chỉ có Nhà nước, theo kế hoạch của Nhà nước thông qua các chỉ tiêu
pháp lệnh. Thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá được tiến hành trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều thành phần. Do đó,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá không phải chỉ là việc của Nhà nước mà là sự nghiệp
của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.
Ở thời kỳ trước đổi mới, phương thức phân bổ nguồn lực để công nghiệp hoá được
thực hiện bằng cơ chế kế hoạch hoá tập trung của Nhà nước, còn ở thời kỳ đổi
mới được thực hiện chủ yếu bằng cơ chế thị trường. Công nghiệp hoá, hiện đại
hoá gắn với phát triển kinh tế thị trường không những khai thác có hiệu quả mọi
nguồn lực trong nền kinh tế, mà còn sử dụng chúng có hiệu quả để đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bởi vì, khi đầu tư vào lĩnh vực
nào, ở đâu, quy mô thế nào, công nghệ gì đều đòi hỏi phải tính toán, cân nhắc
kỹ càng, hạn thế đầu tư tràn lan, sai mục đích, kém hiệu quả và lãng phí thất
thoát.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế ở nước ta
hiện nay diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, tất yếu phải hội nhập và
mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ kinh
tế đối ngoại nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ hiện
đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới... sớm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế còn nhằm khai thác thị
trường thế giới để tiêu thụ các sản phẩm mà nước ta có nhiều lợi thế có sức
cạnh tranh cao. Nói cách khác, đó là việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại để phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói
riêng nhanh hơn, hiệu quả hơn.
Ba
là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh
và bền vững.
Trong các yếu tố tham gia vào quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, yếu tố con người luôn được coi là yếu tố cơ bản. Để
tăng trưởng kinh tế cần 5 yếu tố chủ yếu là: vốn, khoa học và công nghệ, con
người, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị và quản lý nhà nước thì con người là
yếu tố quyết định. Để phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu của công
nghiệp hoá, hiện đại hoá cần đặc biệt chú ý đến phát triển giáo dục, đào tạo.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của
toàn dân, của mọi thành phần kinh tế. Trong đó lực lượng cán bộ khoa học và
công nghệ, khoa học quản lý và đội ngũ công nhân lành nghề giữ vai trò đặc biệt
quan trọng. Nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải đủ số
lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt và sứ dụng các thành
thu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới và có khả năng sáng tạo công
nghệ mới.
Bốn
là, khoa học và công nghệ là nền tảng
và động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định đến
tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và
tốc độ phát triển kinh tế nói chung. Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một
nền kinh tế kém phát triển và tiềm lực khoa học, công nghệ còn ở trình độ thấp.
Muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh
tế tri thức thì phát triển khoa học và công nghệ là yêu cầu tất yếu và bức xúc.
Phải đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp với phát triển
công nghệ nội sinh để nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ, nhất
là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới.
Năm
là, phát triển nhanh, hiệu quả và bền
vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo
vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thực chất là
nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Để thực hiện mục tiêu đó, trước hết kinh tế phải phát triển nhanh, hiệu
quả và bền vững. Chỉ có như vậy mới có khả năng xoá đói, giảm nghèo, nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, phát triển văn hoá, giáo dục, y tế,
rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các vùng... Mục tiêu đó thể hiện sự phát
triển vì con người, mọi con người đều được hưởng thành quả của phát triển.
3. Định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong những
năm tới
a) Phát
triển công nghiệp
Xây dựng nền công nghiệp và thương hiệu công nghiệp
quốc gia với tầm nhìn trung, dài hạn, có lộ trình cho từng giai đoạn phát
triển.
Tiếp tục thực hiện tốt chủ trương và có chính sách phù
hợp để xây dựng, phát triển các ngành công nghiệp theo hướng hiện đại, tăng hàm
lượng khoa học - công nghệ và tỉ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm, tập
trung vào những ngành có tính nền tảng, có lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến
lược đối với sự phát triển nhanh, bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của
nền kinh tế; có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào mạng sản xuất và phân
phối toàn cầu.
Phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp chế
tạo, chế biến, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sạch, công nghiệp năng
lượng, cơ khí, điện tử, hóa chất, công nghiệp xây dựng, xây lắp, công nghiệp
quốc phòng, an ninh. Chú trọng phát triển các ngành có lợi thế cạnh tranh; công
nghiệp hỗ trợ; công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn; năng lượng sạch,
năng lượng tái tạo và sản xuất vật liệu mới; từng bước phát triển công nghệ
sinh học, công nghiệp môi trường và công nghiệp văn hóa. Tiếp tục phát triển
hợp lý một số ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động.
Phân bố công nghiệp hợp lý hơn trên toàn lãnh thổ;
nâng cao hiệu quả các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất; sớm đưa một
số khu công nghiệp công nghệ cao vào hoạt động.
b) Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông
thôn.
Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân là một
vấn đề lớn của quá trình công nghiệp hoá đối với tất cả các nước tiến hành công
nghiệp hoá trên thế giới. Bởi vì công nghiệp hoá là quá trình thu hẹp khu vực
nông nghiệp, nông thôn và gia tăng khu vực công nghiệp, xây dựng, dịch vụ và đô
thị. Nông nghiệp là nơi cung cấp lương thực, nguyên liệu và lao động cho công
nghiệp và thành thị, là thị trường rộng lớn của công nghiệp và dịch vụ. Nông
thôn chiếm đa số dân cư ở thời điểm khi bắt đầu công nghiệp hoá. Vì vậy, quan
tâm đến nông nghiệp, nông dân và nông thôn là một vấn đề có tầm quan trọng hàng
đầu của quá trình công nghiệp hoá. Trong những năm tới, định hướng phát triển
cho quá trình này là:
- Xây dựng nền nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm
bảo an toàn vệ sinh thực phẩm; nâng cao giá trị gia tăng, đẩy mạnh xuất khẩu.
- Đẩy nhanh cơ cấu lại ngành nông nghiệp, xây
dựng nền nông nghiệp sinh thái phát triển toàn diện cả về nông, lâm, ngư nghiệp
theo hướng hiện đại, bền vững, trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và tổ chức
lại sản xuất, thúc đẩy ứng dụng sâu rộng khoa học - công nghệ, nhất là công
nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất, quản lý nông nghiệp và đẩy
nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn để tăng năng suất,
chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực
quốc gia cả trước mắt và lâu dài; nâng cao thu nhập và đời sống của nông dân.
Chú trọng đầu tư vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp. Có chính sách phù hợp để
tích tụ, tập trung ruộng đất, thu hút mạnh các nguồn lực đầu tư phát triển nông
nghiệp; từng bước hình thành các tổ hợp nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ
công nghệ cao.
- Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn gắn với
xây dựng nông thôn mới và quá trình đô thị hóa một cách hợp lý, nâng cao chất
lượng dịch vụ và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, thu hẹp khoảng cách về phát
triển giữa đô thị và nông thôn, tăng cường kết nối nông thôn - đô thị, phối hợp
các chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn với phát triển công nghiệp,
dịch vụ và đô thị.
- Phát huy vai trò chủ thể của hộ nông dân và
kinh tế hộ; xác định vai trò hạt nhân của doanh nghiệp trong nông nghiệp, đẩy
mạnh sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nông,
lâm, ngư nghiệp nhà nước; phát triển hợp tác xã kiểu mới và các hình thức hợp
tác, liên kết đa dạng; hình thành các vùng nguyên liệu gắn với chế biến và tiêu
thụ.
c) Phát triển khu vực dịch vụ
Đẩy mạnh phát triển khu vực dịch vụ theo
hướng hiện đại, đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn các khu vực sản xuất và cao hơn
tốc độ tăng trưởng của cả nền kinh tế. Tập trung phát triển một số ngành dịch
vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao như : du lịch, hàng hải,
dịch vụ kỹ thuật dầu khí, hàng không, viễn thông, công nghệ thông tin. Hiện đại
hóa và mở rộng các dịch vụ có giá trị gia tăng cao như tài chính, ngân hàng,
bảo hiểm, chứng khoán, logistics và các dịch vụ hỗ trợ sản xuất, kinh doanh
khác. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế, chính sách giá dịch vụ giáo dục - đào tạo,
y tế; phát triển dịch vụ giáo dục - đào tạo, y tế chất lượng cao, dịch vụ khoa
học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể thao, dịch vụ việc làm. Hình thành
một số trung tâm dịch vụ, du lịch tầm cỡ khu vực và quốc tế. Chủ động phát
triển mạnh hệ thống phân phối bán buôn, bán lẻ trong nước, tham gia vào mạng
phân phối toàn cầu.
d) Phát triển kinh tế biển
- Phát triển mạnh kinh tế biển nhằm tăng
cường tiềm lực kinh tế quốc gia và bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Chú trọng phát
triển các ngành công nghiệp dầu khí, đánh bắt xa bờ và hậu cần nghề cá, kinh tế
hàng hải (kinh doanh dịch vụ cảng biển, đóng và sửa chữa tàu, vận tải biển), du
lịch biển, đảo.
- Có cơ chế tạo bước đột phá về tăng trưởng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế biển, thu hút mạnh hơn mọi nguồn lực đầu tư để phát
triển kinh tế và bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, khai thác tài
nguyên biển, đảo một cách bền vững. Tập trung đầu tư, nâng cao hiệu quả hoạt
động các khu kinh tế ven biển.
đ) Phát triển kinh tế vùng, liên vùng
- Thống nhất quản lý tổng hợp chiến lược, quy
hoạch phát triển trên quy mô toàn bộ nền kinh tế, vùng và liên vùng. Phát huy
tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đồng thời ưu tiên phát triển các vùng kinh
tế động lực, tạo sức lôi cuốn, lan tỏa phát triển đến các địa phương trong vùng
và đến các vùng khác. Có chính sách hỗ trợ phát triển các vùng còn nhiều khó
khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi và
hải đảo; phát triển kinh tế lâm nghiệp.
- Đổi mới cơ chế phân cấp, phân quyền, gắn
với phân định và nâng cao trách nhiệm của trung ương và địa phương. Thực hiện
quy hoạch vùng, chính sách vùng; sớm xây dựng và thể chế hóa cơ chế điều phối
liên kết vùng theo hướng xác định rõ vai trò đầu tàu và phân công cụ thể trách
nhiệm cho từng địa phương trong vùng. Khắc phục tình trạng nền kinh tế bị chia
cắt bởi địa giới hành chính, hoặc đầu tư dàn trải, trùng lặp.
- Xây dựng một số đặc khu kinh tế để tạo cực
tăng trưởng và thử nghiệm thể chế phát triển vùng có tính đột phá.
e) Phát triển đô thị
- Đổi mới cơ chế, chính sách, kiểm soát chặt
chẽ quá trình phát triển đô thị theo quy hoạch và kế hoạch. Từng bước hình
thành hệ thống đô thị có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, thân thiện với môi
trường, gồm một số đô thị lớn, nhiều đô thị vừa và nhỏ liên kết và phân bố hợp
lý trên các vùng; chú trọng phát triển đô thị miền núi, phát triển mạnh các đô
thị ven biển.
- Nâng cao chất lượng, tính đồng bộ và năng
lực cạnh tranh của các đô thị; chú trọng phát huy vai trò, giá trị đặc trưng
của các đô thị động lực phát triển kinh tế cấp quốc gia và cấp vùng, đô thị di
sản, đô thị sinh thái, đô thị du lịch, đô thị khoa học.
g) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế
- xã hội
- Đẩy mạnh huy động và sử dụng hiệu quả nguồn
lực xã hội để tiếp tục tập trung đầu tư hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội tương đối đồng bộ với một số công trình hiện đại.
- Ưu tiên và đa dạng hóa hình thức đầu tư cho
các lĩnh vực trọng tâm là : hạ tầng giao thông đồng bộ, có trọng điểm, kết nối
giữa các trung tâm kinh tế lớn và giữa các trục giao thông đầu mối; hạ tầng
ngành điện bảo đảm cung cấp đủ điện cho sản xuất và sinh hoạt, đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội; hạ tầng thủy lợi đáp ứng yêu cầu phát triển nông
nghiệp và ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; hạ tầng đô thị lớn hiện
đại, đồng bộ, từng bước đáp ứng chuẩn mực đô thị xanh của một nước công nghiệp.
4. Kết quả và nguyên nhân
a) Kết quả thực hiện đường lối
- Thành tựu :
Trong 30 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đã
tích cực cụ thể hóa các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng về đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bước đầu tạo môi trường pháp lý bình
đẳng và minh bạch cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh,
phát triển, khơi thông các nguồn lực trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài.
Cơ cấu kinh tế đã có bước
chuyển dịch theo hướng hiện đại. Tỷ trogj các nghành công nghiệp và dịch vụ
tăng, tỷ trọng nghành nông nghiệp giảm, Trình độ công nghệ sản xuất công nghiệp
đã có bước thay đổ theo hướng hiện đại. Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo
trong giá trị sản xuất công nghiệp tăng, tỷ trọng công nghiệp khai thác giảm
dần. Công nghiệp hóa, hiện đại háo nông nghiệp, nông thôn có tiến bộ. Cơ khí
hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, sinh học hóa được chú trọng gắn với phát triển
kết cấu hạ tầng, xây dựng nông thôn mới.
Ngành công nghiệp và xây dựng duy trì tốc độ tăng
trưởng khá liên tục trong nhiều năm; tốc độ triển khai ứng dụng các thành tựu khoa
học và công nghệ được cải thiện, nhiều dây chuyền công nghệ hiện đại, thiết bị
tiên tiến, quy trình quản lý công nghiệp hiện đại được áp dụng.
Khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng khá cao, thị
trường được mở rộng. Một số ngành dịch vụ mới, chủ lực có giá trị gia tăng cao
như khoa học- công nghệ, thiết kế công nghiệp, nghiên cứu thị trường, tài
chính, ngân hàng, viễn thông, … đã hình thành và từng bước phát triển.
Kinh tế vùng, liên vùng có bước phát triển. Đã
hình thành các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp và khu kinh tế,
khai thác được các lợi thế, bước đầu tạo nên thế mạnh của các vùng kinh tế góp
phần tạo động lực thức đâyechuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng tích cực.
Kinh tế biển đã chuyển biến đang kể, quy mô mở rộng, đóng góp quan trọng vào
phát triển kinh tế đất nước.
Việc khai thác, sử dụng tài nguyên quốc gia và bảo
vệ môi trường gắn với yêu cầu phát triển bền vững đã được quan tâm và đem lại
kết quả bước đầu, Kết cấu hạ tâng kinh tế-xã hội đã được chú trọng đầu tư phát
triển, đặc biệt là hạ tầng giao thông, điện, thông tin, viễn thông, thủy lợi,
hạ tầng đô thị, giáo dục, y tế. Quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh. Diện mạo
đất nước thay đổi căn bản so với thời kỳ trước đổi mới.
Việc phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ,
đặc biệt là công nghệ cao có tiến bộ, tạo những tiền đề để bước đầu chuyển sang
xây dựng kinh tế tri thức.
- Hạn
chế
+ Tốc độ tăng trưởng kinh
tế và sản xuất công nghiệp vẫn thấp so với tiềm năng. 10 năm gần đây
(2006-2016) suy giảm. Thu nhập bình quân
đầu người của Việt Nam so với mức chuẩn của một nước công nghiệp, so với các
nước phát triển trong khu vực còn khoảng cách lớn. Sự chênh lệch giữa các vùng,
miền, các bộ phận dân cư còn lớn.
+ Trình độ công nghệ nhìn chung còn thấp. Quá
trình đổi mới công nghệ chậm, không đồng đều. Phần lớn sản xuấ công nghiệp là
gia công lắp ráp, chủ yếu sử dụng máy móc, nguyên liệu nhập khẩu. Các ngành,
các lĩnh vực, các sản phẩm có hàm lượng tri thức cao chiếm tỷ lệ thấp, tốc độ
tăng chậm. Năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế
thấp. Hầu hết các ngành kinh tế, kế cả một số ngành được coi là chủ lực, chưa
xác lập được vị trí trong mạng sản xuất và chuỗi toàn cầu.
+ Công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp nông thôn chưa đạt yêu cầu. Nền nông nghiệp về nhiều mặt
còn lạc hậu, manh mún. Phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch
và các vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa lớn, chất lượng cao chưa được chú
trọng đúng mức, còn nhiều hạn chế.
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành và trong từng ngành còn chậm. Đặc biệt trong 10 năm gần đây, chuyển
dịch cơ cấu nagnhf kinh tế chư ađáp ứng nhu cầu chuyển dịch dân cư và lao động
giữa thành thị và nông thôn. Liên kết kinh tế vùng, liên vùng còn yếu, hiệu quả
thấp, phát triển các khu công nghiệp, chế xuất, kinh tế ven biển và cửa khẩu
dàn trải, trùng lắp, gây lãng phí.
+ Hệ thống kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội chưa đồng bộ, còn lạc hậu, thiếu tính kết nối. Việc quản lý,
khai thác, sử dụng tài nguyên còn lỏng lẻo và gây lãng phí nghiêm trọng.
+ Sau 30 năm đổi mới về cơ
bản vẫn chưa hình thành được các ngành công nghiệp có tính nền tảng cho nền
kinh tế ; công nghiệp phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn phân
tán, manh mún ; công nghiệp hỗ trợ còn non yếu. Những khiếm khuyết trong
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã làm bộc lộ sự phát triển thiếu bền
vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường. Việc tạo nền tảng để nước ta
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại còn chậm, không đạt mục tiêu
đề ra.
b. Nguyên nhân
Những thành tựu đạt
được là do đường
lối CNH, HĐH của Đảng cơ bản là đúng đắn; Việc thể chế hóa, tổ chức thực hiện
đường lối CNH, HĐH được quan tâm; sức sản xuất được giải phóng, các nguồn lực
bên trong và bên ngoài được khai thác, phát huyphục vụ quá trình CNH, HĐH. Sự
nỗ lực phấn đấu của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và của các chủ
thể khác ngày càng tăng.
Những hạn chế nêu trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan:
- Về khách quan, việc chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung
sang kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa chưa có tiền lệ trong lịch
sử. điểm xuất phát của nước ta khi bước vào CNH, HĐH rất thấp; điều kiện và khả
năng còn hạn chế, trong khi đó phải đối mặt với nhiều thách thức trong cạnh
tranh kinh tế khu vực và quốc tế ngày càng gay gắt.
- Về chủ
quan:
+Tư duy lý luận về CNH, HĐH chưa bắt kịp với các
thay đổi và chuẩn mực chung của thế giới, vẫn còn biểu hiện chủ quan duy ý chí,
chưa hoàn toàn phù hợp với cấu trúc của nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN
và hội nhập quốc tế sâu rộng.
+ Việc nghiên cứu xây dựng chiến lược, kế hoạch,
quy hoạch tổng thể về CNH, HĐH nối chung và của từng ngành, từng lĩnh vực, từng
sản phẩm chiến lược nói riêng chậm, chất lượng thấp, thiếu tầm nhìn xa, chưa
dựa trên nguyên tắc kinh tế thị trường, vừa lúng túng, vừa chồng chéo, vừa có
khuynh hướng chia cắt, cục bộ. Thể chế, cơ chế chính sách, chất lượng, năng lực
của bộ máy nhà nước còn nhiều hạn chế. Việc ban hành một số cơ chế, chính sách
liên quan trực tiếp đến công nghiệp hóa, HĐH còn chậm, chưa sát thực tiễn. Sự
chỉ đạo, tổ chức thực hiện chưa kiên quyết, hiệu quả chưa cao.
+ Huy động nguồn lực cho CNH, HĐH còn nhiều
bất cập. Đầutư, nhất là đầu tư công còn dàn trải kém hiệu quả, chưa có những
giải pháp mang tính đột phá để giải phóng sức dân, nuôi dưỡng và phát triển
mạnh mẽ một hệ thống doanh nghiệp dân doanh cũng như các nguồn lực quan trọng
khác trong nước. Mặt khác, chưa thực sự chủ động nâng cao hiệu quả hoạt động
hội nhập quốc tế, chưa tận dụng tốt cơ hội và hạn chế các tác động tiêu cực do
hội nhập quốc tế tạo ra. Chưa thực hiện tốt chủ trương phát huy nội lực, tăng
cường tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế.
Tình trạng tham nhũng, lãng phí, “lợi ích nhóm” làm hạn chế kết quảđầu tư phát
triển.
Chương V:
ĐƯỜNG LỐI
XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
I - QUÁ
TRÌNH ĐỔI MỚI NHẬN THỨC VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Cơ chế quản lý kinh tế thời kỳ trước đổi mới
a) Cơ chế kế hoạch hoá tập trung
quan liêu, bao cấp
Trước đổi mới, cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta là
cơ chế kế hoạch hoá tập trung với những đặc điểm chủ yếu là:
Thứ
nhất, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính
dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi
tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được
giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn, định giá sản phẩm,
tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương... đều do các cấp có thẩm quyền quyết định.
Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh
nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước
thu.
Thứ
hai, các cơ quan hành chính can thiệp
quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất và
pháp lý đối với các quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do các
quyết định không đúng gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu. Các doanh
nghiệp không có quyền tự chủ sản xuất
kinh doanh, cũng không bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất,
kinh doanh.
Thứ ba, quan hệ hàng hoá - tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức quan hệ hiện
vật là chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “cấp phát - giao
nộp". Vì vậy, rất nhiều hàng hóa quan trọng như sức lao động, phát minh
sáng chế, tư liệu sản xuất quan trọng, không được coi là hàng hóa về mặt pháp
lý.
Thứ
tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp
trung gian vừa kém năng động vừa sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực phong cách cửa quyền, quan liêu, nhưng lại
được hưởng quyền lợi cao hơn người lao động.
Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức
chủ yếu sau:
Bao
cấp qua giá, Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư,
hàng hoá thấp hơn giá trị thực của chúng nhiều lần so với giá thị trường. Do
đó, hạch toán kinh tế chỉ là hình thức.
Bao
cấp qua chế đô tem phiếu: Nhà nước quy định chế độ phân phối vật phẩm tiêu
dùng tho cán bộ, công nhân viên, theo định mức qua hình thức tem phiếu. Chế độ
tem phiếu với mức giá khác xa so với giá thị trường đã biến chế độ tiền lương
thành lương hiện vật, thủ tiêu động lực kích thích người lao động và phá vỡ
nguyên tắc phân phối theo lao động.
Bao
cấp theo chế đô cấp phát vốn của ngân sách, nhưng không có chế tài ràng buộc
trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều đó vừa làm tăng gánh
nặng đối với ngân sách vừa làm cho sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế
"xin - cho".
Trong thời kỳ kinh tế còn tăng trưởng chủ yếu theo
chiều rộng thì cơ chế này có tác dụng nhất định, nó cho phép tập trung tối đa
các nguồn lực kinh tế vào các mục tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn và điều
kiện cụ thể, đặc biệt trong quá trình công nghiệp hoá theo hướng ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng. Nhưng nó lại thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa
học - công nghệ. Triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động, không kích
thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Khi nền
kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu dựa trên cơ sở
áp dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại thì cơ
chế quản lý này càng bộc lộ những khiếm khuyết của nó, làm cho kinh tế các nước
xã hội chủ nghĩa trước đây, trong đó có nước ta, lâm vào tình trạng trì trệ
khủng hoảng.
Trước đổi mới, do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa
và cơ chế thị trường, chúng ta xem kế hoạch hoá là đặc trưng quan trọng nhất
của kinh tế xã hội chủ nghĩa, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu;
coi thị trường chỉ là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch. Không thừa nhận
trên thực tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ,
lấy kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu, muốn nhanh chóng xoá sở hữu tư
nhân và kinh tế cá thể, tư nhân. Nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, khủng
hoảng.
b) Nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế
Dưới áp lực của tình thế khách quan, nhằm thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, chúng ta đã có những bước cải tiến nền kinh
tế theo hướng thị trường, tuy nhiên còn chưa toàn diện, chưa triệt để. Đó là
khoán sản phẩm trong nông nghiệp theo Chỉ thị số 100 - CTITW của Ban Bí thư
Trung ương khoá IV; bù giá vào lương ở Long An; Nghị quyết Trung ương 8 khoá V
(1985) về giá - lương - tiền; thực hiện Nghị định số 25 và Nghị định số 26 - CP
của Chính phủ... Đó là những căn cứ thực tế để Đảng đi đến quyết định thay đổi
về cơ bản cơ chế quản lý kinh tế.
Đề cập sự cần thiết đổi mới cơ chế quản lý kinh
tế, Đại hội VI khẳng định: "Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ
nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội
chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm
sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối
lưu thông, và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội". Chính vì vậy
việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trở thành nhu cầu cần thiết và cấp bách.
2. Sự hình thành tư duy của Đảng về kinh tế thị trường
thời kỳ đổi mới
a) Tư duy của Đảng về kinh tế thị
trường từ Đại hội VI đến Đại hội VIII
So với thời kỳ trước đổi mới, nhận thức về kinh tế
thị trường trong giai đoạn này có sự thay đổi căn bản và sâu sắc.
Một
là, kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là
thành tựu phát triển chung của nhân loại.
Lịch sử phát triển nền sản xuất xã hội cho thấy
sản xuất và trao đổi hàng hoá là tiền đề quan trọng cho sự ra đời và phát triển
của kinh tế thị trường. Trong quá trình sản xuất và trao đổi, các yếu tố thị
trường như cung, cầu, giá cả có tác động điều tiết quá trình sản xuất hàng hoá,
phân bổ các nguồn lực kinh tế và tài nguyên thiên nhiên như vốn, tư liệu sản
xuất, sức lao động... phục vụ cho sản xuất và lưu thông. Thị trường giữ vai trò
là thột công cụ phân bổ các nguồn lực kinh tế. Trong một nền kinh tế khi các
nguồn lực kinh tế được phân bổ bằng nguyên tắc thị trường thì người ta gọi đó
là kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường đã có mầm mống từ trong xã hội
nô lệ, hình thành trong xã hội phong kiến và phát triển cao trong xã hội tư bản
chủ nghĩa. Kinh tế thị trường và kinh tế hàng hoá có công bản chất đều nhằm sản
xuất ra để bán, đều nhằm mục đích giá trị và đều trao đổi thông qua quan hệ
hàng hoá - tiền tệ. Kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường đều dựa trên cơ sở
phân công lao động xã hội và các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sán
xuất, làm cho những người sản xuất vừa độc lập vừa phụ thuộc vào nhau. Trao đổi
mua bán hàng hoá là phương thức giải quyết mâu thuẫn trên. Tuy nhiên, kinh tế
hàng hoá và kinh tế thị trường có sự khác nhau về trình độ phát triển. Kinh tế
hàng hoá ra đời từ kinh tế tự nhiên, nhưng còn ở trình độ thấp, chủ yếu là sản
xuất hàng hoá với quy mô nhỏ bé, kỹ thuật thủ công năng suất thấp. Còn kinh tế
thị trường là kinh tế hàng hoá phát triển cao, đạt đến trình độ là thị trường
trở thành yếu tố quyết định sự tồn tại hay không tồn tại của người sản xuất
hàng hóa. Kinh tế thị trường lấy khoa học, công nghệ hiện đại làm cơ sở và nền
sản xuất xã hội hoá cao.
Kinh tế thị trường có lịch sử phát triển lâu dài,
nhưng cho đến nay nó mới biểu hiện rõ rệt nhất trong chủ nghĩa tư bản. Nếu
trước chủ nghĩa tư bản, kinh tế thị trường còn ở thời kỳ manh nha, trình độ
thấp thì trong chủ nghĩa tư bản nó đạt đến trình độ cao đến mức chi phối toàn
bộ cuộc sống của con người trong xã hội đó. Điều đó khiến cho không ít người
nghĩ rằng kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản không sản sinh ra kinh tế hàng
hoá, do đó kinh tế thị trường với tư cách là kinh tế hàng hoá ở trình độ cao
không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung
của nhân loại. Chỉ có thể chế kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hay cách thức
sử dụng kinh tế thị trường theo lợi nhuận tối đa của chủ nghĩa tư bản mới là
sản phẩm của chủ nghĩa tư bản.
Hai
là, kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Kinh tế thị trường xét dưới góc độ “một
kiểu tổ chức kinh tế” là phương thức tổ chức, vận hành nền kinh tế, là phương
tiện điều tiết kinh tế lấy cơ chế thị trường làm cơ sở để phân bổ các nguồn lực
kinh tế và điều tiết mối quan hệ giữa người với người. Kinh tế thị trường chỉ
đối lập với kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự tức, chứ không đối lập với các chế độ
xã hội. Bản thân kinh tế thị trường không phải là đặc trưng bản chất cho chế độ
kinh tế cơ bản của xã hội. Là thành tựu chung của văn minh nhân loại, kinh tế
thị trường tồn tại và phát triển ở nhiều phương thức sản xuất khác nhau. Kinh
tế thị trường vừa có thể liên hệ với chế độ tư hữu vừa có thể liên hệ với chế
độ công hữu và phục vụ cho chúng. Vì vậy, kinh tế thị trường tồn tại khách quan
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Xây dựng và phát triển kinh tế thị
trường không phải là phát triển tư bản chủ nghĩa hoặc đi theo con đường tư bản
chủ nghĩa và tất nhiên, xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng không dẫn đến
phủ định kinh tế thị trường.
Đại hội VII của Đảng (tháng 6 - 1991) trong khi
khẳng định chủ trương tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh vừa hợp tác, bổ
sung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân thống nhất, đã đưa ra kết luận quan
trọng rằng sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó tồn tại
khách quan và cần thiết cho xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội cũng xác định cơ
chế vận hành của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta là liệu chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước: bằng
pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Trong cơ chế kinh tế đó,
các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, quan hệ bình đẳng,
cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự nguyện; thị trường có vai trò
trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án
tổ chức sản xuất, kinh doanh có hiệu quả; Nhà nước quản lý nền kinh tế đe định
hướng dẫn dắt các thành phần kinh tế. tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho
sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị trường, kiểm soát và xử lý các vi phạm
trong hoạt động kinh tế, bảo đảm hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển
xã hội.
Tiếp tục đường lối trên, Đại hội VIII của Đảng
(tháng 6-1996) đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ,
tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba
là, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
Kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, có thể và cần thiết sử dựng kinh tế thị
trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Ở bất kỳ xã hội nào, khi lấy thị
trường làm phương tiện có tính cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế, thì kinh
tế thị trường cũng có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, nghĩa là có
quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, lỗ, lãi tự chịu.
- Giá cả cơ bản do cung cầu điều tiết, hệ thống
thị trường phát triển đồng bộ và hoàn hảo.
- Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo quy
luật vốn có của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy
luật cạnh tranh.
- Có hệ thống pháp quy kiện toàn và sự quản lý vĩ
mô của Nhà nước.
Với những đặc điểm trên, kinh tế thị trường có vai
trò rất lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trước đổi mới, do chưa thừa nhận trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại sản xuất hàng hoá và cơ chế thị trường nên
chúng ta đã xem kế hoạch là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế xã hội chủ
nghĩa, đã thực hiện phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu. Còn thị
trường chỉ được coi là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch, do đó không
cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Vào thời kỳ đổi mới, chúng ta ngày càng nhận rõ có
thể dùng cơ thế thị trường làm cơ sở phân bổ các nguồn lực kinh tế dùng tín
hiệu giá cả để điều tiết chủng loại và số lượng hàng hoá, điều hòa quan hệ cung
cầu, điều tiết tỷ lệ sản xuất thông qua cơ thế cạnh tranh, thúc đẩy cái tiến
bộ, đào thải cái lạc hậu, yếu kém.
Thực tế cho thấy, chủ nghĩa tư bản không sinh ra
kinh tế thị trường nhưng đã biết thừa kế và khai thác có hiệu quả các lợi thế
của kinh tế thị trường để phát triển. Thực tiễn đổi mới ở nước ta cũng đã chứng
minh sự cần thiết và hiệu quả của việc sử dụng kinh tế thị trường làm phương
tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội.
b) Tư duy của Đảng về kinh tế thị
trường
Đại hội IX của Đảng (tháng 4 - 2001) xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây là bước chuyển quan trọng từ nhận
thức kinh tế thị trường chỉ như một công cụ, một cơ chế quản lý, đến nhận
thức coi kinh tế thị trường như một chỉnh
thể là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vậy thế nào là kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa? Đại hội IX xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là "một kiểu tổ chức kinh tế
vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn
dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của thủ nghĩa xã hội".
Trong nền kinh tế đó, các thế mạnh của "thị trường" được sử dụng để
phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất -
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân", còn tính định
hướng xã hội chủ nghĩa" được thể hiện trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất:
sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối, nhằm mục đích cuối cùng là "dân
giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội do nhân dân làm chủ, nhân
ái, có văn hoá, có kỷ cương, xoá bỏ áp bức và bất công, tạo điều kiện cho mọi
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc".
Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
thì trước hết đó không phải kinh tế kế hoạch hoá tập trung, cũng không phải là
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa, vì chưa có đầy đủ các yếu tố xã hội chủ nghĩa. Tính
"định hướng xã hội chủ nghĩa" làm cho mô hình kinh tế thị trường ở
nước ta khác với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X đã làm
sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển
kinh tế thị trường ở nước ta, thể hiện ở bốn tiêu chí là:
Về
mục đích phát triển: Mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta nhằm thực hiện "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh" giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao
đời sống nhân dân; đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên
làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn.
Mục tiêu trên thể hiện rõ mục đích phát triển kinh
tế vì con người, giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để nâng cao
đời sống cho mọi người, mọi người đều được hưởng những thành quả phát triển. Ở
đây thể hiện sự khác biệt với mục đích tất cả vì lợi nhuận phục vụ lợi ích của
các nhà tư bản, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa tư bản.
Về
phương hướng phát triển: Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần
kinh tế, trong mỗi cá nhân và mọi vùng miền... phát huy tối đa nội lực để phát
triển nhanh nền kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo, là công cụ chủ yếu để Nhà nước điều tiết nền kinh tế, định
hướng cho sự phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Để giữ vai trò chủ đạo kinh tế nhà nước phải nắm được các vị trí
then chốt của nền kinh tế bằng trình độ khoa học, công nghệ tiên tiến, hiệu quả
sản xuất kinh doanh cao chứ không phải dựa vào bao cấp, cơ chế xin - cho hay
độc quyền kinh doanh. Mặt khác, tiến lên chủ nghĩa xã hội đặt ra yêu cầu nền
kinh tế phải được dựa trên nền tảng của sở hữu toàn dân về các tư liệu sản xuất
chủ yếu.
Về
định hướng xã hội và phân phối: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ
và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hoá, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt
các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Hạn chế tác động tiêu cực
của kinh tế thị trường.
Trong lĩnh vực phân phối, định hướng xã hội chủ
nghĩa được thể hiện qua chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu
quả kinh tế, phúc lợi xã hội. Đồng thời để huy động mọi nguồn lực kinh tế cho
sự phát triển chúng ta còn thực hiện phân phối theo mức đóng góp vốn và các
nguồn lực khác
Về
quản lý: Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý,
điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Tiêu chí này thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy
mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, bảo đảm quyền lợi
chính đáng của mọi người.
Hoàn thiện nhận thức và chủ trương về nền kinh tế
nhiều thành phần, Đại hội X khẳng định: "Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn
dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần
kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ,
tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các
thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp
luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định
hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành
phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có
vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế". Đại hội XII, trên cơ sở tổng kết 30 năm đổi
mới đã xác định: Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh
tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình
thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng,
ngày càng phát triển.
II. TIẾP TỤC
HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA
1. Mục tiêu và quan điểm cơ bản
a) Thể chế kinh tế và thể chế kinh
tế thị trường
Thể
chế kinh tế là một bộ phận cấu thành của hệ thống thể chế xã hội,
tồn tại bên cạnh các bộ phận khác như thể chế chính trị, thể chế giáo dục...
Thể chế kinh tế nói chung là một hệ thống các quy phạm pháp luật nhằm điều
chỉnh các chủ thể kinh tế, các hành vi sản xuất kinh doanh và các quan hệ kinh
tế. Nó bao gồm cácyếu tố chủ yếu là các đạo luật, quy chế, quy tắc, chuẩn mực
về kinh tế gắn với các chế tài về xử lý vi phạm, các tổ chức kinh tế, các cơ
quan quản lý nhà nước về kinh tế, truyền thống văn hoá và văn minh kinh doanh,
cơ chế vận hành nền kinh tế.
Thể
chế kinh tế thị trường là một tổng thể bao gồm các bộ quy tắc luật lệ và hệ
thống các thực thể, tổ chức kinh tế được tạo lập nhằm điều chỉnh hoạt động giao
dịch, trao đổi trên thị trường.
Thể chế kinh tế thị trường bao gồm:
- Các quy tắc về hành vi kinh tế diễn ra trên thị
trường-các bên tham gia thị trường với tư cách là các chủ thể thị trường.
- Cách thức thực hiện các quy tắc nhằm đạt được
mục tiêu hay kết quả mà các bên tham gia thị trường mong muốn.
- Các thị trường, nơi hàng hoá được giao dịch,
trao đổi trên cơ sở các yêu cầu, quy định của luật lệ (các thị trường quan
trọng như hàng hoá và dịch vụ, vốn, lao động, công nghệ, bất động sản...).
Đại hội XI xác định: Nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản. Đây là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật
của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các
nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Do đó, thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa được hiểu là thể chế kinh tế thị trường, trong đó
các thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận hành được tự giác tạo lập và sử dụng
để phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nói cách khác, thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là công cụ hướng dẫn cho các chủ
thể trong nền kinh tế vận động theo đuổi mục tiêu kinh tế - xã hội tối đa, chứ
không đơn thuần là mục tiêu lợi nhuận tối đa.
Xây dựng thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là vấn đề mới và phức tạp, là một quá trình,
có nhiều giai đoạn. Trong 30 năm đổi mới, thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã được hình thành trên những nét cơ bản.
b) Mục tiêu hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Mục tiêu cơ bản của hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là làm cho các thể chế phù
hợp với những nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường. thúc đẩy kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển nhanh,
hiệu quả, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Mục tiêu này yêu cầu phải hoàn thành cơ bản vào năm 2020.
Những năm trước mắt cần đạt các mục tiêu:
Một là, từng bước xây dựng đồng bộ hệ
thống pháp luật bảo đảm cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
phát triển thuận lợi. Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đi đôi với
phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp. Hình thành
một số tập đoàn kinh tế, các tổng công ty đa sở hữu, áp dụng mô hình quản trị
hiện đại, có năng lực cạnh tranh quốc tế.
Hai là, đổi mới cơ bản mô hình tổ chức
và phương thức hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công.
Ba là, phát triển đồng bộ, đa dạng các
loại thị trường cơ bản thống nhất trong cả nước. Từng bước liên thông với thị
trường khu vực và thế giới.
Bốn là, giải quyết tốt hơn mối quan hệ
giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá. xã hội bảo đảm tiến bộ, công
bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
Năm là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý của Nhà nước và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính
trị-xã hội và nhân dân trong quản lý, phát triển kinh tế - xã hội.
c) Quan điểm về hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
- Nhận thức đầy đủ tôn trọng và vận dụng đúng
đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, phù hợp
với điều kiện của Việt Nam, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh
tế.
- Bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu
thành của thể chế kinh tế, giữa các yếu tố thị trường và các loại thị trường;
giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, xã hội; giữa Nhà nước, thị trường
và xã hội. Gắn kết hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã
hội, phát triển văn hoá và bảo vệ môi trường.
- Kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển
kinh tế thị trường của nhân loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở
nước ta, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế đồng thời giữ vững độc
lập, chủ quyền quốc gia, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
- Chủ động, tích cực giải quyết các vấn đề lý
luận và thực tiễn quan trọng, bức xúc, đồng thời phải có bước đi vững chắc, vừa
làm vừa tổng kết rút kinh nghiệm.
- Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu
lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính
trị trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
2.
Một số chủ trương tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa
Đại hội XII đã xác định:
a) Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển
các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp
- Thể chế hóa quyền tài sản (bao gồm quyền sở hữu,
quyền sử dụng, quyền định đoạt và hưởng lợi từ sử dụng tài sản) của Nhà nước,
tổ chức và cá nhân đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm công
khai, minh bạch về nghĩa vụ và trách nhiệm trong thủ tục hành chính nhà nước và
dịch vụ công để quyền tài sản được giao dịch thông suốt. Bảo đảm quyền quản lý,
thu lợi của Nhà nước đối với tài sản công và quyền bình đẳng trong việc tiếp
cận, sử dụng tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế. Nâng cao năng lực
của các thiết chế và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp dân sự, tranh chấp
kinh tế trong bảo vệ quyền tài sản.
- Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều
phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật.
Khuyến khích đẩy mạnh quá trình khởi nghiệp kinh doanh. Có chính sách thúc đẩy
phát triển các doanh nghiệp Việt Nam cả về số lượng và chất lượng, thật sự trở
thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Bảo đảm quyền tự do kinh doanh các lĩnh vực mà luật pháp không cấm; xây dựng,
thực thi đồng bộ, hiệu quả cơ chế hậu kiểm, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về
cạnh tranh, tăng cường tính minh bạch đối với độc quyền nhà nước và độc quyền
doanh nghiệp, kiểm soát độc quyền kinh doanh. Hoàn thiện thể chế bảo vệ nhà đầu
tư, quyền sở hữu và quyền tài sản. Hoàn thiện pháp luật phá sản doanh nghiệp theo
cơ chế thị trường.
- Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp
nhà nước theo hướng: doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh
vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh;
những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư.
Đẩy mạnh cổ phần hóa, bán vốn tại những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm
hoặc không cần giữ cổ phần chi phối, kể cả những doanh nghiệp đang kinh doanh
có hiệu quả. Hoàn thiện thể chế định giá đất đai, tài sản hữu hình và tài sản
vô hình (tài sản trí tuệ, thương hiệu,...) trong cổ phần hóa theo nguyên tắc
thị trường. Tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ chính trị, công
ích. Tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản lý
nhà nước, chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước; sớm xóa bỏ
chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước của các bộ, Ủy ban nhân dân đối với vốn,
tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp. Thành lập một cơ quan chuyên trách làm
đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Kiện toàn đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý và nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp nhà nước phù hợp
với chuẩn mực quốc tế. Tăng cường quản lý, giám sát, kiểm tra, kiểm soát bảo
đảm công khai, minh bạch về đầu tư, tài chính và các hoạt động của doanh nghiệp
nhà nước. Đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công
theo hướng nâng cao chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức bộ máy, biên
chế, nhân sự và tài chính; xã hội hóa lĩnh vực dịch vụ công, thu hút các thành
phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực này.
- Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động
của kinh tế tập thể,kinh tế hợp tác xã; đẩy mạnh liên kết và hợp
tác dựa trên quan hệ lợi ích, áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, phù hợp
với cơ chế thị trường. Nhà nước có cơ chế, chính sách hỗ trợ về tiếp cận nguồn
vốn, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, hỗ trợ phát triển
thị trường, tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác xã trên cơ sở phát triển
và phát huy vai trò của kinh tế hộ.
- Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp,
các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp, nhất
là các doanh nghiệp cổ phần.
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo
thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành
và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn
thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi
nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư
nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước.
- Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp
của nước ngoài, chú trọng chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến
và thị trường tiêu thụ sản phẩm; chủ động lựa chọn và có chính sách ưu đãi đối
với các dự án đầu tư nước ngoài có trình độ quản lý và công nghệ hiện đại, có
vị trí hiệu quả trong chuỗi giá trị toàn cầu, có liên kết với doanh nghiệp
trong nước. Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với
doanh nghiệp trong nước nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp quy
mô lớn, chất lượng cao, gắn với các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.
- Trong quản lý và phát triển các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế, cần phát huy mặt tích cực có lợi cho đất nước, đồng
thời kiểm tra, giám sát, kiểm soát, thực hiện công khai, minh bạch, ngăn chặn,
hạn chế mặt tiêu cực.
b) Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các
loại thị trường
- Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; bảo đảm
tính đúng, tính đủ và công khai, minh bạch các yếu tố hình thành giá đối với
hàng hoá, dịch vụ công thiết yếu; đồng thời có chính sách hỗ trợ phù hợp cho
đối tượng chính sách, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số. Không lồng ghép
các chính sách xã hội trong giá. Hoàn thiện pháp luật về phí, lệ phí; rà soát,
chuyển đổi chính sách phí, lệ phí đối với một số dịchvụ công sang áp dụng chế
độ giá dịch vụ. Mở rộng cơ chế đấu thầu, đấu giá, thẩm định giá. Xây dựng và
thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với
người tiêu dùng và đối với môi trường. Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng, kiên quyết đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại;
phát huy đầy đủ, đúng đắn vai trò của người tiêu dùng, các hội bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng trong nền kinh tế.
- Tiếp tục phát triển đồng bộ và vận hành thông suốt
các loại thị trường. Thực hiện đa dạng hóa thị trường hàng hóa,
dịch vụ theo hướng hiện đại, chú trọng hình thành khung pháp lý, phát triển hệ
thống phân phối thông suốt và hiệu quả. Cơ cấu lại thị trường tài chính,
bảo đảm lành mạnh hóa và ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô, loại bỏ nguy cơ mất
an toàn hệ thống, phục vụ có hiệu quả phát triển sản xuất kinh doanh; bảo đảm
nguyên tắc thị trường đối với thị trường tài chính gắn với tăng cường quản lý,
kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước và giám sát của xã hội; phát triển thị trường
mua bán nợ, thị trường các công cụ phái sinh, cho thuê tài sản. Tiếp tục hoàn
thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để thị trường bất động
sản vận hành thông suốt, phù hợp quy luật cung - cầu nhằm khai thác,
sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả nguồn lực từ đất đai và tài sản, kết cấu hạ tầng
trên đất; ngăn ngừa đầu cơ, lãng phí. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát
triển đồng bộ, liên thông thị trường lao động cả về quy mô,
chất lượng lao động và cơ cấu ngành nghề. Tiếp tục đổi mới, phát triển mạnh mẽ
và đồng bộ thị trường khoa học - công nghệ, thực hiện cơ chế thị
trường và có chính sách hỗ trợ để khuyến khích các tổ chức, cá nhân, nhất là
doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ, ứng dụng
tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất kinh doanh.
c) Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc
tế
- Tiếp tục nghiên cứu, đàm phán, ký kết, chuẩn bị kỹ
các điều kiện thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, tham gia các
điều ước quốc tế trongcác lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư,... Chủ động,
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế
quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể; kết hợp hiệu
quả ngoại lực và nội lực, gắn hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ.
- Rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế,
chính sách nhằm thực thi có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam
đã ký kết. Hoàn thiện thể chế để tận dụng cơ hội và phòng ngừa, giảm thiểu các
thách thức do tranh chấp quốc tế, nhất là tranh chấp thương mại, đầu tư quốc
tế. Hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư pháp phù hợp với pháp luật quốc tế.
d) Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu
quả quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội và phát huy vai trò làm chủ của
nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội
- Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chủ trương
phát triển kinh tế - xã hội của Đảng; tăng cường lãnh đạo việc thể chế hoá và
việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước về kinh tế - xã hội; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ
kết, tổng kết thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng; lãnh đạo
việc bố trí cán bộ và lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện của đội ngũ cán bộ hoạt
động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Nâng cao năng lực và hiệu quả công
tác tham mưu về kinh tế - xã hội ở các cấp, các ngành.
- Nhà nước thể chế hóa nghị quyết của Đảng, xây dựng,
tổ chức thực hiện pháp luật, chính sách, bảo đảm các loại thị trường ngày càng
hoàn thiện và vận hành thông suốt, cạnh tranh công bằng, bình đẳng và kiểm soát
độc quyền kinh doanh; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp,
cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh.
- Đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát huy
vai trò làm chủ của nhân dân; bảo đảm quyền tự do, dân chủ trong hoạt động kinh
tế của người dân theo quy định của Hiến pháp, pháp luật và sự tham gia có hiệu
quả của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng và
giám sát việc thực hiện thể chế kinh tế và phát triển kinh tế - xã hội.
3.
Kết quả và nguyên nhân
a) Kết quả
+ Tư tưởng, đường lối phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã từng bước được thể chế hoá thành pháp
luật, cơ chế, chính sách. Trong 30 năm đổi mới, Quốc hội nước ta đã 03 lần sửa
đổi và ban hành Hiến pháp, sửa đổi và ban hành trên 150 bộ luật và luật; Ủy
ban Thường vụ Quốc hội cũng ban hành trên 70 pháp lệnh, tạo cơ sở pháp lý cho
sự chuyển đổi và vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
+ Các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và
chế độ phân phối đã phát triển đa dạng, từng bước tuân thủ các quy luật của
kinh tế thị trường phù hợp với điều kiện của đất nước. Các chủ thể kinh tế được
tự do kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh theo quy định của pháp luật, ngày càng
phát huy vai trò tích cực trong nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nhà nước từng
bước phát huy vai trò chủ đạo; hệ thống doanh nghiệp nhà nước được cơ cấu
lại, cổ phần hoá và đang giảm mạnh về số lượng. Kinh tế tập thể bước đầu được
đổi mới, các hình thức hợp tác kiểu mới được hình thành phù hợp hơn với cơ chế
thị trường. Kinh tế tư nhân tăng nhanh về số lượng, từng bước nâng cao hiệu quả
kinh doanh, giải quyết việc làm, đóng góp ngày càng lớn vào GDP. Kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển, các doanh nghiệp
FDI đã có những đóng góp quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm và xuất khẩu.
+ Các yếu tố thị trường và các loại thị
trường đang hình thành, phát triển, cơ bản đã có sự liên thông, gắn kết thị
trường trong nước với thị trường khu vực và quốc tế. Thị trường hàng hóa, dịch
vụ tăng về số lượng, chủng loại, chất lượng; đã có bước phát triển và hoàn
thiện về quy mô, cơ cấu, kết cấu hạ tầng thương mại, dịch vụ, cơ chế quản lý,
năng lực cạnh tranh. Giá cả hầu hết các loại hàng hoá, dịch vụ đã vận hành theo
giá thị trường, được xác định theo quan hệ cung cầu. Thị trường lao động đã
được hình thành với nguồn cung lao động khá dồi dào trên phạm vi cả nước, bước
đầu đã tham gia thị trường quốc tế. Thị trường tài chính - tiền tệ phát triển
khá sôi động. Thị trường bất động sản phát triển mạnh, thị trường khoa học -
công nghệ đang hình thành và có bước phát triển nhất định.
+ Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng
theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường thế giới; đã tiến hành nhiều cải
cách thể chế theo hướng minh bạch, tự do hóa và có tính giải trình; gia nhập và
tích cực xây dựng AEC; từng bước hoàn thiện thị trường đầy đủ theo quy định của
WTO; chuẩn bị sẵn sàng đón nhận cơ chế vận hành của Hiệp định TPP; tham gia có
hiệu quả các liên kết kinh tế khu vực và quốc tế trên nhiều cấp độ, nhất là
trong xây dựng quan hệ đối tác hợp tác chiến lược về kinh tế.
+ Đảng đã ban hành và lãnh đạo tổ chức
thực hiện nhiều nghị quyết, chủ trương về kinh tế; kịp thời điều
chỉnh những chủ trương, giải pháp phù hợp với sự thay đổi của tình
hình, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh… Sự quản lý, điều hành của Nhà nước
đối với kinh tế thị trường sát thực và hiệu quả hơn. Việc sử dụng
các công cụ quản lý kinh tế, điều tiết nền kinh tế vĩ mô có tiến
bộ. Phát huy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế, thực hiện ngày càng tốt hơn vai
trò làm chủ về kinh tế của nhân dân.
+ Sau 30 năm đổi mới, nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa đã từng bước hình thành và phát triển; thể chế kinh
tế được quan tâm xây dựng và từng bước hoàn thiện. Thực lực của nền kinh tế
tăng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; lạm phát được kiểm soát; tăng
trưởng kinh tế được duy trì hợp lý và được đánh giá là thuộc nhóm nước có mức
tăng trưởng khá cao trên thế giới.
Đại hội XI đã khẳng định, đất nước đã ra khỏi
tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung
bình. Môi trường đầu tư được cải thiện, đa dạng hóa được nhiều nguồn vốn đầu tư
cho phát triển.
- Hạn chế:
+
Kinh tế chủ yếu phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo
chiều sâu; thiếu bền vững. Hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, chất
lượng chưa cao, tiến độ ban hành còn chậm.việc tuyên truyền, phổ biến thực thi
pháp luật và đảm bảo kỷ cương, pháp luật còn nhiều hạn chế. Cơ cấu kinh tế
chuyển dịch chậm. Quyền tự do kinh doanh chưa được tôn trọng đầy đủ, môi trường
kinh doanh chưa thực sự đảm bảocạnh tranh công bằng, lành mạnh giữa các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Quản trị doanh nghiệp còn yếu kém chưa
theo kịp các tiêu chuẩn quốc tế và chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường.
Doanh nghiệp nhà nước trong đó có nhiều tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà
nước chưa thể hiện được vai trò nòng cốt của kinh tế nhà nước; hoạt động kinh
doanh đạt hiệu quả thấp, để xảy ra tình trạng lãng phí, thất thoát. Kinh tế tập
thể còn nhiều mặt yếu kém kéo dài. Doanh nghiệp tư nhân phổ biến là quy mô nhỏ.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu
chuyển giao công nghệ, nhất là công nghệ cao, công nghệ nguồn, và trình độ quản
lý tiên tiến, phần đông hoạt động trong các ngành sử dụng nhiều lao động, khai
thác tài nguyên, nhiều doanh nghiệp chỉ hướng vào thị trường trong nước…
+ Trong 10 năm gần đây (2006-2016),
kinh tế nước ta đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế vĩ mô ổn định
chưa vững chắc, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, chậm phục hồi; nợ xấu giảm
dần nhưng còn cao, nợ công tăng nhanh; thị trường tài chính, thị trường bất
động sản phát triển thiếu lành mạnh, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Sản xuất, kinh doanh
của các doanh nghiệp đang pải đối mặt với nhiều khó khăn… Thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ,
chậm được hoàn thiện, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng và diễn biến phức
tạp; nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế ngày càng lộ rõ…
b) Nguyên nhân
- Đạt được những thành tựu nêu trên là nhờ có nhận thức đúng đắn của Đảng về tính tất yếu của phát
triển kinh tế thị trường, quyết định chuyển từ kinh tế kê hoạch hóa tập trung
sang kinh tê sthị trường định hướng XHCN; xác định phát triển kinh tế là nhiệm
vụ trung tâm, kiên trì lãnh đọa, chỉ đạo thực hiện các quyết sách về kinh tế,
được nhân dân đồng tình ủng hộ, và tích cực tham gia thực hiện.
- Những hạn chế, yếu kém của nền kinh tế do nhiều nguyên nhân khách quan
và chủ quan
+ Nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN được xây dựng trong điều kiện chuyển đổi thể chế kinh tế với xuất phát
điểm thấp; kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, thường xuyên chịu nhiều thiên
tai, dịch bệnh; kinh tế thế giới nhiều biến động, khủng hoảng tài chính cà suy
thoái kinh tế toàn cầu đã có những tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế của
nước ta.
+ Nhận thức của Đảng về một số vấn
đề trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là
nhận thức luận về sở hữu và thnahf phần
kinh tế, về mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường; về vai trò của kinh tế nhà
nước, doanh nghiệp nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài… chưa đầy đủ, chậm đổi mới. Việc thể chế hóa, cụ thể hóa các
đường lối, chủ trươngphát triển kinh tế thị trường, định hướng XHCN còn chậm và
chưa đồng bộ. Phương thức lãnh đạo của Đảng về phát triển kinh tế, nhận thức vị
trí, vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường chậm được đổi mới, cụ
thể hóa. Trên nhiều mătj còn bị ảnh hưởng bởi cơ chế tập trung, quan liêu bao
cấp; phân công, phân cấp quản lý kinh tế chưa hợp lý…Năng lực dự báo hạn chế,
dẫn đến một số chủ trương, chính sách đề ra chưa phù hợp…
Chương VI:
ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH
TRỊ
Hệ thống chính trị
là một bộ phận kiến trúc thượng tầng xã hội, bao gồm các tổ chức, các thiết chế
có quan hệ với nhau về mặt mục đích, chức năng trong việc thực hiện, tham gia
thực hiện các quyền lực chính trị hoặc đưa ra các quyết định chính trị.
Hệ thống chính trị bao gồm các tổ chức, các
thiết chế vơi tư cách là chủ thể của các quyết định chính trị. các chủ thể có
bộ máy, có tư cách pháp lý, pháp luật quy định. Hệ thống tổ chức hợp pháp là hệ
thống tổ chức được hiến pháp, pháp luật quy định. Các tổ chức, các thiết chế
trong hệ thống có mục đích, có chức năng thực hiện, tham gia thực hiện quyền
lực nhà nước, quyền lực chính trị, thực hiện hoặc tham gia vào các quyết định
chính trị, vào việc thực hiện các chính sách quốc gia. Đây là cơ sở để phân
biệt các tổ chức của hệ thống chính trị với các tổ chức có mục đích hoặc chức
năng kinh tế - xã hội rất đa dạng khác.
Hệ thống chính trị có các bộ phận cấu thành,
có quan hệ mật thiết với nhau và có vai trò, vị trí khác nhau trong sự vận hành
của các quá trình chính trị, thể hiện ở các cấp độ khác nhau. Giữa các bộ phận
cấu thành hệ thống, bao giờ cũng có một bộ phận giữ vai trò nòng cốt, hạt nhân,
làm động lực thúc đẩy và đãnắt cả hệ thống vận hành theo một mục tiêu hoặc một
phương hướng xác định.
Cấu trúc của hệ
thống chính trị rất đa dạng nhưng cơ bản bao gồm ba bộ phận: đảng chính trị, nhà nước và các
tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay bao
gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội (Tổng
Liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên
hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam…) và
các mối quan hệ giữa các thành tố trong hệ thống.
I. ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ THỜI KỲ TRƯỚC ĐỔI MỚI (1945 - 1989)
1.
Hệ thống chính trị dân chủ nhân dân (1945
- 1954)
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng
lợi, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đánh dấu sự hình thành ở nước ta
một hệ thống chính trị cách mạng với các đặc trưng sau đây:
- Có nhiệm vụ thực hiện đường lối cách mạng "Đánh
đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xóa
bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến làm cho người cày có ruộng, phát
triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội. Khẩu hiệu
"Dân tộc trên hết. Tổ quốc trên hết" là cơ sở tư tưởng cho hệ thống
chính trị giai đoạn này.
- Dựa trên nền tảng của khối đại đoàn kết dân
tộc hết sức rộng rãi: không phân biệt giống nòi, giai cấp, tôn giáo, ý thức hệ,
chủ thuyết, không chủ trương đấu tranh giai cấp. Đặt lợi ích của dân tộc là cao
nhất.
- Có một chính quyền tự xác định là công bộc
của dân, coi dân là chủ và dân làm chủ, cán bộ sống và làm việc giản dị, cần kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư.
- Vai trò lãnh đạo của Đảng (từ tháng 11 - 1945
đến tháng 2 - 1951) được ẩn trong vai trò của Quốc hội và Chính phủ, trong vai
trò của cá nhân Hồ Chí Minh và các đảng viên trong Chính phủ.,
- Có một Mặt trận (Liên Việt) và nhiều tổ
chức quần chúng rộng rãi, làm việc tự nguyện, không hưởng lương và không nhận
kinh phí hoạt động từ nguồn ngân sách nhà nước, do đó không có điều kiện công
chức hóa, quan liêu hóa.
- Cơ sở kinh tế chủ yếu của hệ thống chính
trị dân chủ nhân dân là nền sản xuất tư nhân hàng hóa nhỏ, phân tán, tự cấp tự
tức; bị kinh tế thực dân và chiến tranh kìm hãm, chưa có viện trợ.
- Đã xuất hiện (ở một mức độ nhất định) sự
giám sát của xã hội dân sự đối với Nhà nước và Đảng; sự phản biện giữa hai đảng
khác (Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội) đối với Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhờ đó đã
giảm thiểu rõ rệt các tệ nạn thường thấy phát sinh trong bộ máy công quyền.
2. Hệ thống dân chủ
nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản (1954-1975)
Ở nước ta, khi giai cấp công nhân giữ vai trò
lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cách mạng dân tộc dân thủ nhân dân cũng là
sự bắt đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự bắt đầu của thời kỳ thực hiện
nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản. Bước ngoặt lịch sử này đã diễn ra trên
miền Bắc vào năm 1954.
Cơ sở hình thành hệ
thống chuyên chính vô sản ở nước ta:
Một là, lý luận Mác-Lênin về thời kỳ quá
độ và về chuyên chính vô sản.
C.Mác đã chỉ ra rằng: giữa xã hội
tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng
từ xã hội nọ đến xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ
chính trị, nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên
chính cách mạng của giai cấp vô sản. V.I.Lênin nhấn mạnh: muốn chuyển từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội thì phải chịu đựng lâu dài nỗi đau đớn của
thời kỳ sinh đẻ, phải có một thời kỳ chuyên chính vô sản lâu dài. Bản chất của
chuyên chính vô sản là sự tiếp tục
đấu tranh giai cấp dưới hình thức mới.
Hai là,
đường lối chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1954-1975.
Trong Báo cáo chính trị tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần III của Đảng (năm 1960) về dường lối chung của cách
mạng XHCN trong giai đoạn mới ở nước ta có đoạn viết: “sau khi nhiệm vụ cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành, thì miền Bắc ta phải tiến ngay vào
cách mạng XHCN”. “Muốn đạt mục tiêu ấy phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân
dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để thực hiện cải tạo xã hội
chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công
thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc
doanh, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hóa và kỹ
thuật; biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại,
nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến”.
Như vậy, kể từ Đại hội III của Đảng cho đến
khi Đảng đề ra đường lối đổi mới đất nước, hệ thống chính trị nước ta được tổ
chức và hoạt động theo các yêu cầu mục tiêu, nhiệm vụ của chuyên chính vô sản
và do vậy tên gọi chính thức của hệ thống này được xác định là hệ thống chuyên chính vô sản.
Ba là, cơ sở chính trị của hệ thống
chuyên chính vô sản ở nước ta được hình thành từ năm 1930 và bắt rễ vững chắc
trong lòng dân tộc và xã hội. Điểm cốt lõi của cơ sở chính trị đó là sự lãnh
đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng. Mặc dù ở miền Bắc, Đảng Cộng sản không phải
là đảng chính trị độc nhất mà còn có Đảng
Dân chủ, Đảng Xã hội, nhưng những đảng chính trị này thừa nhận vai trò lãnh
đạo tuyệt đối và duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam và là thành viên trong Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam.
Bốn là, cơ sở kinh tế của hệ thống
chuyên chính vô sản là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp.
Đó là một mô hình kinh tế hướng tới mục tiêu xoá bỏ nhanh chóng và hoàn toàn
chế độ tư hữu đối với tư liệu sản xuất với ý nghĩa là nguồn gốc và cơ sở của
chế độ người bóc lột người, thiết lập chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất dưới hai hình thức: sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể; loại bỏ
triệt để cơ chế thị trường, thiết lập cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập
trung, bao cấp. Nhà nước trở thành một tổ chức kinh tế bao trùm. Từ đó cách tổ
chức và hoạt động của hệ thống chuyên chính vô sản không thể không phản chiếu
cả ưu điểm, lẫn hạn chế, sai lầm của mô hình kinh tế này.
Năm là, cơ sở xã hội của hệ thống chuyên
chính vô sản là liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức. Kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp “ai thắng ai”
trong lĩnh vực chính trị, kinh tế và kết quả cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với
các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, đã tạo nên một kết cấu xã hội bao
gồm chủ yếu là hai giai cấp và một tầng lớp: giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức. Kết cấu này đã chi phối sự thực hiện chiến lược đại
đoàn kết toàn dân tộc và mục tiêu mở rộng dân chủ của hệ thống chuyên chính vô
sản.
3. Hệ thống chuyên chính vô sản
theo tư tưởng làm chủ tập thể (1975-1985)
Từ tháng 4-1975, với thắng lợi
hoàn toàn và triệt để của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, cách mạng Việt Nam
chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn tiến hành cách mạng XHCN trong cả
nước. Do đó, hệ thống chính trị nước ta cũng chuyển sang giai đoạn mới: Từ hệ
thống chuyên chính dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô
sản trong phạm vi nửa nước (1954-1975) sang hệ
thống chuyên chính vô sản hoạt động trong phạm vi cả nước.
Bước sang giai đoạn mới, Đại hội IV
của Đảng nhận định rằng, muốn đưa sự nghiệp cách mạng XHCN đến toàn tháng, “điều kiện quyết định trước tiên là phải
thiết lập và không ngừng tăng cường chuyên chính vô sản, thực hiện và không
ngừng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dan lao động”.
Trong giai đoạn này việc xây dựng
hệ thống chuyên chính vô sản được quan niệm là xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã
hội chủ nghĩa, tức là xây dựng một hệ thống hoàn chỉnh các quan hệ xã hội thể
hiện ngày càng đầy đủ sự làm chủ của nhân dân lao động trên tất cả các mặt:
chính trị, kinh tế văn hoá, xã hội, làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm
chủ bản thân. Do đó, chủ trương xây dựng hệ thống chuyên chính vô sản gồm những
nội dung sau đây:
Một là, xác định quyền làm chủ của nhân
dân được thể chế hóa bằng pháp luật và tổ chức.
Hai là, xác định Nhà nước trong thời kỳ
quá độ là "Nhà nước chuyên chính vô sản thực hiện chế độ dân chủ xã hội
chủ nghĩa", là một tổ chức thực hiện quyền làm chủ tập thể của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Một tổ chức thông qua đó Đảng thực hiện sự lãnh
đạo của mình đối với tiến trình phát triển của xã hội. Muốn thế Nhà nước ta
phải là một thiết chế của dân, do dân, vì dân, đủ năng lực tiến hành ba cuộc
cách mạng, xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hoá mới và con người
mới.
Ba là, xác định Đảng là người lãnh đạo
toàn bộ hoạt động xã hội trong điều kiện chuyên chính vô sản. Sự lãnh đạo của
Đảng là bảo đảm cao nhất cho chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động, cho
sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, xác định nhiệm vụ chung của Mặt
trận và các đoàn thể là bảo đảm cho quần chúng tham gia và kiểm tra công việc
của Nhà nước, đồng thời là trường học về chủ nghĩa xã hội. Vai trò và sức mạnh
của các đoàn thể chính là ở khả năng tập hợp quần chúng, hiểu rõ tâm tư và
nguyện vọng của quần chúng, nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho quần chúng.
Muốn vậy, các đoàn thể phải đối mới hình thức tổ chức, nội dung và phương thức
hoạt động cho phù hợp với điều kiện mới. Hoạt động của các đoàn thể phải năng
động, nhạy bén với những yến đề mới nảy sinh trong cuộc sống, khắc phục bệnh
quan liêu, giản đơn và khô cứng trong tổ chức và trong sinh hoạt. Mở rộng các
hình thức tổ chức theo nghề nghiệp, theo nhu cầu đời sống và nhu cầu sinh hoạt
văn hoá để thu hút đông đảo quần chúng vào các hoạt động xã hội, chính trị.
Năm là, xác định mối quan hệ Đảng lãnh
đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý là cơ chế chung trong quản lý toàn bộ
xã hôi.
Hoạt động của hệ thống chuyên chính vô sản giai
đoạn 1975 - 1985 được chỉ đạo bởi đường lối của các Đại hội IV và V của Đảng đã
góp phần mang lại những thành tựu mà nhân dân ta đạt được trong 10 năm (1975 - 1985)
đầy khó khăn, thử thách. Điểm tồn tại sáng tạo trong giai đoạn này của Đảng là
đã coi làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa là bản
chất của hệ thống chuyên chính vô sản ở nước ta.
Tuy nhiên, việc sử dụng chuyên chính vô sản
để tiếp tục cuộc đấu tranh giai cấp dưới hình thức mới đã dẫn tới nhiều chủ
trương tả khuynh, duy ý chid trong các lĩnh vực, chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội.
- Bộ máy nhà nước cồng kềnh và kém hiệu quả
mà cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp là nguyên nhân trực tiếp; các cơ
quan dân cử các cấp được lựa chọn, bầu cử và hoạt động một cách hình thức chủ
nghĩa. Không ít cơ quan chính quyền không tôn trọng ý kiến của nhân dân, không
làm công tác vận động quần chúng, chỉ quen dùng các biện pháp mệnh lệnh hành
chính.
Sự lãnh đạo của Đảng chưa ngang tầm những
nhiệm vụ của giai đoạn mới, chưa đáp ứng được yêu cầu giải quyết nhiều vấn đề
kinh tế - xã hội cơ bản và cấp bách.
Đảng chưa phát huy tốt vai trò và chức năng
của các đoàn thể trong việc giáo dục, động viên quần chúng tham gia quản lý
kinh tế - xã hội. Các đoàn thể chưa tích cực đổi mới phương thức hoạt động đúng
với tính thất của tổ chức quần chúng.
- Hệ thống chuyên chính vô sản có biểu hiện
bảo thủ, trì trệ, chậm đổi mới so với những đột phá trong cơ chế kinh tế đang
diễn ra ở các địa phương, các cơ sở trong toàn quốc. Do đó, trên thực tế, hệ
thống chuyên chính vô sản đã đã cản trở quá trình đổi mới kinh tế, phát triển
kinh tế, xã hội.
Những hạn thế, sai lầm trên đây cùng những
yêu cầu của công cuộc đổi mới, đã thúc đẩy chúng ta phải đổi mới hệ thống chuyên chính vô sản thành hệ thống chính trị trong thời kỳ mới.
II. ĐƯỜNG
LỐI XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1.
Đổi mới tư duy về hệ thống chính trị
Việc không dùng khái niệm “hệ
thống chuyên chính vô sản” và sử dụng khái niệm “hệ thống chính trị” là một
bước đổi mới tư duy chính trị có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sau sắc, thể hiện được các vấn đề như sau:
Nhận thức mới về mối
quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị, trước hết là đổi
mới hệ thống chính trị
Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc
đổi mới bắt đầu bằng tư duy đổi mới chính trị trong việc hoạch định đường lối
và chính sách đối nội, đối ngoại. không có sự đổi mới đó thì sẽ không có sự đổi
mới khác. Song, Đảng ta đã đúng khi tập trung trước hết vào việc thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phuc khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo
tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần, để giữ vững ổn định chính trị, xây
dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác
của đời sống xã hội. Như vậy, việc sử dụng khái niệm “hệ thống chính trị” đã
phản ánh và đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập
trung quan liêu, bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Nhận thức mới về đấu tranh giai cấp và về
động lực chủ yếu phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
Về vấn đề này Đại hội IX cho rằng:
"Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều
thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng cơ cấu, tính
chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều cùng với những
biến đổi to lớn về kinh tế xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp
xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân đoàn kết và hợp
tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ To quốc dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục
tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai
cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo,
kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh
ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch;
bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn
vinh, nhân dân hạnh phúc.
Động lực chủ yếu phát triển đất nước là đại
đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức
do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát
huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
Nhận thức trên đây là cơ sở tư tưởng, lý luận
rất quan trọng để xác định bản chất dân chủ của hệ thống chính trị và đổi mới
phương thức hoạt động của hệ thống chính trị.
Nhận thức mới này đã khắc phục được tư tưởng
tả khuynh cho rằng chuyên chính vô sản là là sự tiếp tục đấu tranh giai cấp dưới
hình thức mới.
Nhận
thức mới về xây dựng nhà nước pháp quyền trong hệ thống chính tri.
Trong đổi mới tư duy về hệ thống chính trị,
vấn đề đổi mới tư duy về Nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt. Thuật ngữ
"xây dựng nhà nước pháp quyền" lần đầu tiên được đề cập tại Hội nghị
Trung ương 2 khoá VII (năm 1991). Đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ
khoá VII (năm 1991) và các Đại hội VIII, IX, X, XI và XII, Đảng tiếp tục khẳng
định nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và làm rõ
thêm nội dung của nó.
2. Mục
tiêu, quan điểm và chủ trương xây dựng hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới
a) Mục tiêu và quan điểm xây dựng hệ
thống chính trị
Ngay từ Đại hội VI, Đảng ta chỉ rõ
cần đổi mới chính trị, trong đó có đổi mới hệ thống chính trị.
Mục tiêu:
Mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính
trị là nhằm thực hiện tốt hơn dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền
làm chủ của nhân dân. Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống thính trị ở
nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
Quan điểm:
Một là, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi
mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời
từng bước đổi mới chính trị.
Hai là, đổi mới tổ chức và phương thức
hoạt động của hệ thống chính trị không phải là hạ thấp hoặc thay đổi bản chất
của nó, mà là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của
Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, làm cho hệ thống chính trị hoạt
động năng động hơn, có hiệu quả hơn, phù hợp với đường lối đổi mới toàn diện,
đồng bộ đất nước; đặc biệt là phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với
kinh tế tri thức, với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Ba là, đổi mới hệ thống chính trị một
cách toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.
Bốn là, đổi mới mối quan hệ giữa các bộ
phận cấu thành của hệ thống chính trị với nhau và với xã hội, tạo ra sự vận
động cùng chiều theo hướng tác động, thúc đẩy xã hội phát triển; phát huy quyền
làm chủ của nhân dân.
b) Chủ trương xây dựng hệ thống
chính trị
- Xây dựng Đảng
trong hệ thống chính trị.
Trước Đại hội X, Đảng ta xác định: Đảng Cộng
sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đại hội X đã bổ sung
một số nội dung quan trọng: đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai
cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc
Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của dân tộc".
Về phương thức lãnh đạo, Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung phát triển năm
2011) xác định: “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ
thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân,
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị là đổi
mới tổ chức và phương thức hoạt động của các bộ phận cấu thành hệ thống. Trong
đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, vấn đề mấu chốt nhất và
cũng là khó khăn nhất là đổi mới phương thức hoạt động của Đảng, khắc phục cả
hai khuynh hướng thường xảy ra trong thực tế: hoặc là Đảng bao biện, làm thay,
hoặc là buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng.
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta luôn luôn
coi trọng việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính
trị. Nghị quyết Trung ương 5 khoá X về " Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh
đao của Đảng đối với hoạt đông của hệ thống chính trị" đã chỉ rõ các mục
tiêu giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo, nâng cao tính khoa học, năng lực
và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội, sự gắn bó mật
thiết giữa Đảng và nhân dân; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước,
chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội;
phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân; tăng cường kỷ luật, kỷ cương
trong Đảng và trong xã hội; làm cho nước ta phát triển nhanh và bền vững theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
hoạt động của hệ thống chính trị phải được đặt trong tổng thể nhiệm vụ đối mới
và chỉnh đốn Đảng, tiến hành đồng bộ đối với đổi mới các mặt của công tác xây
dựng Đảng, với đổi mới tổ chức và hoạt động của cả hệ thống chính trị, nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; đồng bộ với đổi mới kinh tế,
xây đựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thích ứng với những
đòi hỏi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
của đất nước.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
hoạt động của hệ thống chính trị là công việc hệ trọng, đòi hỏi phải chủ động,
tích cực, có quyết tâm chính trị cao, đồng thời cần thận trọng, có bước đi vững
thắc, vừa làm vừa tổng kết, vừa rút kinh nghiệm, vừa phải quán triệt các nguyên
tắc chung, vừa phải phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ của từng cấp, từng
ngành.
- Xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội là sự khẳng định và thừa nhận Nhà nước pháp quyền là một tất yếu lịch sử.
Nó không phải là sản phẩm riêng của xã hội tư bản chủ nghĩa mà là tinh hoa, sản
phẩm trí tuệ của xã hội loài người, của nền văn minh nhân loại, Việt Nam cần
tiếp thu.
Chúng ta hiểu chế định Nhà nước pháp quyền
không phải là một kiểu nhà nước, một chế độ nhà nước. Trong lịch sử loài người
chỉ có 4 kiểu nhà nước. Nhà nước pháp quyền là cách thức tổ chức phân công
quyền lực nhà nước. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng
theo 5 đặc điểm sau đây:
* Đó là nhà nước của
dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
* Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
* Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ
sở Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối
thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội.
* Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con
người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân,
thực hành dân thủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.
* Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam do một đảng duy nhất lãnh đạo, có sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức thành viên của Mặt trận.
Để việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền cần thực hiện tốt một số biện pháp lớn sau đây:
* Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ
thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ
chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết
định của các cơ quan công quyền.
* Tiếp tục đổi mới tổ thức và hoạt động của
Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế bầu cử nhằm nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội.
Đổi mới quy trình xây dựng luật, giảm mạnh việc ban hành pháp lệnh. Thực hiện
tốt hơn nhiệm vụ quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và chức năng
giám sát tối cao.
* Đẩy mạnh cải cách hành chính đổi mới tổ
chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng cơ quan hành pháp thống
nhất, thông suốt, hiện đại.
* Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong
sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người. Xây
dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm hiến pháp trong hoạt động lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
* Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng
nhân dân và Uỷ ban nhân dân, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của
chính quyền địa phương trong phạm vi được phân cấp.
- Xây dựng Mặt trận
Tố quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội có vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn
kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của
nhân dân, đề xuất các chủ trương, chính sách về kinh tế, văn hoá, xã hội, an
ninh, quốc phòng.
Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các
tổ chức chính trị - xã hội thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội.
Thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Luật Thanh niên, Luật Công đoàn..., quy chế dân chủ ở mọi cấp để Mặt trận, các
tổ chức chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng,
chính quyền và hệ thống chính trị.
Đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các
tổ chức chính trị - xã hội, khắc phục tình trạng hành chính hoá, nhà nước hoá,
phô trương, hình thức; nâng cao thất lượng hoạt động làm tốt công tác dân vận
theo phong cách trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với
dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin.
3.
Đánh giá sự thực hiện đường lối
+ Hệ thống chính trị từng bước được
đổi mới để phù hợp với tình hình và bối cảnh phát triển đất nước, nhất là trong
điều kiện phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế, thúc đẩy công cuộc đổi mới,
đồng thời vẫn giữ được ổn định chính trị. Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ
của các tổ chức trong hệ thống chính trị được xác đinh ngày càng rõ hơnvà được
thể chế hóa bằng các quy định của pháp luật. Phân định rõ hơn vai trò lãnh đạo
của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước, vai trò của mặt trận và các tổ chức chính
trị-xã hội; từng bước đổi mới nội dung, phương thức, lãnh đạo của Đảng đối với
nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chín trị xã hội.
+ Tổ chức bộ máyvà cơ chế hoạt động,
cơ chế phối hợp của các tổ chức trong hệ thống chính trị đã được đổi mới một
bước, phát huy ngày càng tốt hơn vai trò của từng tổ chức. Tổ chức bộ máy và
phương thức hoạt động của Mặt trân Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội từng
bước được đổi mới, bước đầu thực hiện chức năng phản biện xã hội.
+ Nội dung “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ” đã từng bước được cụ thể hóa…
+ Các quan điểm mới về xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa thể hiện trong Cương
lĩnh 2011 đã được thể chế hóa trong Hiến
pháp 2013 và các đạo luật của Nhà nước…
Quốc hội có những đổi mới quan trọng, từ bầu
cử đại biểu Quốc hội đến hoàn thiện cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động;
làm tốt hơn chức năng lập pháp, công tác giám sát và quyết định các vấn đề quan
trọng của đất nước.
Hệ thống pháp luật được đổi mới, sửa đổi, bổ
sung và xây dựng ngày càng đầy đủ và phù hợp hơn, nhất là thể chế kinh tế thị
trường, định hướng XHCN…
-Hạn
chế:
+ Đổi mới hệ thống chính trị có phần lúng
túng, có mặt còn chạm, chưa theo kịp và đáp ứng tốt yêu cầu của những bước phát
triển kinh tế - xã hội. Mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của hệ thống chính
trị chậm được đổi mới. Cơ cấu tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị còn cồng
kềnh, nhiều tầng nấc, chồng chéo nhau, ngày càng phình to, biên chế ngày càng
tăng lên nhưng hiệu quả thấp, còn cứng nhắc về mô hình, cơ cấu tổ chức và
phương thức hoạt động…
+ Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa chưa đáp ứng đầy đủ các nguyên tắc cơ bản: thượng tôn pháp luật, hoạt
động thực sự dân chủ, chăm lo bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân, tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Cơ chế phân công phối hợp thực hiện quyền
lực nhà nước; tổ chức các thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà nước còn có những
điểm chưa hợp lý…
Việc kiểm soat quyền lực trong hoạt động của
các thiết chế trong hệ thống chính trị nhất là trong bộ máy nhà nước chưa được
chế định rõ, còn thiếu nhất quán. Cơ chế bảo vệ pháp luật và tăng cường pháp
chế chưa đầy đủ, còn hạn chế…
Công tác lập pháp còn nhiều bất cập. Hệ thống
pháp luật còn nhiều tầng nấc, thiếu đồng bộ, hiệu lực chưa cao, tính công khai
minh bạch, tính khả thi, ổn định còn hạn chế, nhiều nội dung chưa đáp ứng yêu
cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, chưa phù hợp với thực tiễn…
Tổ chức và hoạt động của Quốc hội và Hội đông
nhân dân các cấp còn có những mặt hạn chế, hiệu quả thực hiện chức năng giám
sat tối cao của Quốc hội chưa cao…
Chế độ công vụ, chế độ thủ trưởng, quyền hạn
và trách nhiệm của nười đứng đầu; trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà
nước… chậm được hoàn thiện.
b) Nguyên nhân
Những kết quả đạt
được là do Đảng
ta nhận thức ngày càng rõ hơn yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN, xây dựng và phát huy nền dân chủ XHCN; đã ban hành nhiều
chủ trương, chính sách đúng đắn và chỉ đạo triển khai thực hiện. Đây là quá
trình phát triển phù hợp với xu thế thời đại, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân;
tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế.
Những hạn chế yếu
kém do cả những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trước hết, vấn đề xây dựng nền dân
chủ, đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong điều
kiện một đảng cầm quyền là những vấn đề lớn, phức tạp, mới, và chưa có tiền lệ.
Công tác nghiên cứu lý luận, và tổng kết thực tiễn về xây dựng nền dân chủ, về
đổi mới hệ thống chính trị, và mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành và cơ chế
vận hành chưa được coi trọng đúng mức, Tronh nhận tyhức lý luận còn biểu hiện
giáo điều, không sat thực tiễn…
Chương VII:
ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN NỀN
VĂN HOÁ
VÀ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI
I - QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ NỘI
DUNG ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HOÁ
Kế thừa kiến thức của các môn học trước,
trong chương trình này Kế thừa kiến thức của các môn học trước, trong chương
này khái niệm văn hóa được dùng theo nghĩa rộng: "Văn hóa Việt Nam là tổng
thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng
tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước", nhưng chủ yếu là dùng theo
nghĩa hẹp: “văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội"; "Văn hóa là hệ
các giá trị,truyền thống, lối sống"; "Văn hóa là năng lực sáng
tạo" của một dân tộc; “văn hóa là bản sắc" của một dân tộc, là cái
phân biệt dân tộc này với các dân tộc khác...
1.
Thời kỳ trước đổi mới
a) Quan điểm, chủ trương về xây dựng
nền văn hóa mới
*Trong những năm
1943 - 1954
Đầu năm 1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng
họp tại Võng La (Đông Anh, Phúc Yên) đã thông qua bản Đề cương văn hoá Việt Nam
do đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh trực tiếp dự thảo. Đây là lần đầu tiên, kể
từ ngày thành lập, Đảng ta họp bàn và có chủ trương kịp thời về văn hoá văn nghệ
Việt Nam vào thời điểm chuẩn bị Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Đề cương xác
định lĩnh vực văn hoá là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hoá)
của cách mạng Việt Nam, và đề ra ba nguyên tắc của nền văn hoá mới: Dân tộc hoá
(chống lại mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa), Đại chúng hoá (chống mọi chủ
trương, hành động làm cho văn hoá phản lại hoặc xa rời quần chúng), Khoa học
hoá (chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa phản tiến bộ, trái khoa học).
Nền văn hoá mới Việt Nam có tính chất dân tộc về hình thức, dân chủ về nội
dung. Có thể coi Đề cương văn hóa Việt Nam là bản Tuyên ngôn, là Cương lĩnh của
Đảng về văn hoá trước Cách mạng Tháng Tám mà ảnh hưởng của nó còn có tác động
sâu rộng đến mãi sau này.
Ngày 3 - 9 - 1945, trong phiên họp đầu tiên
của Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày với các Bộ trưởng 6
nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trong đó 2 nhiệm vụ
cấp bách thuộc về văn hoá. Một là, cùng
với diệt giặc đói phải diệt giặc dốt. Hồ Chí Minh nói: một dân tộc dốt là một
dân tộc yếu, thế mà hơn chín mươi phần trăm đồng bào chúng ta mù chữ, vì vậy,
tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ. Hai là, chế độ thực dân đã hủ hoá dân tộc Việt Nam bằng những thói
xấu, lười biếng, gian xảo, tham ô và những thói xấu khác. Vì vậy, một nhiệm vụ
cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta, làm cho dân tộc chúng ta trở
nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với
nước Việt Nam độc lập. Chủ tịnh Hồ Chí Minh đề nghị: mở một chiến dịch giáo dục
lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện cần, kiệm, liêm, chính. Như vậy,
nhiệm vụ đầu tiên về xây dựng văn hoá của nước Việt Nam độc lập là: chống nạn mù chữ và giáo dục lại tinh thần
nhân dân. Đây là hai nhiệm vụ hết sức khiêm tốn nhưng lại vĩ đại ở tầm
nhìn, độ chính xác và ở tính thời sự của nó.
Cuộc vận động thực hiện Đời sống mới. Đầu năm
1946 Ban Trung ương vận động Đời sống mới được thành lập với sự tham gia của
nhiều nhân vật có uy tín như: Trần Huy Liệu. Dương Đức Hiền, Vũ Đình Hòe,
Nguyễn Tấn Gì Trọng, mà Tổng thư ký là nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Tháng 3 năm
1947 Hồ Chí Minh viết tài liệu Đời sống
mới giải thích rất dễ hiểu những vấn đề thiết thực trong chủ trương văn hóa
quan trọng này, gồm 19 câu hỏi và trả lời. Làm được 19 điều này là thiết thực
giáo dục lại tinh thần của nhân dân vào lúc đó và còn có ý nghĩa cho đến tận
ngày nay.
Đường lối Văn hoá kháng chiến được dần hình
thành tại Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Kháng chiến kiến quốc (tháng 11 - 1945), trong bức thư về Nhiệm vụ văn hoá Việt Nam trong công cuộc
cứu nước và xây dựng nước hiện nay của đồng thí Trường Chinh gửi Chủ tịch
Hồ Chí Minh (ngày 16 - 11 - 1946) và tại báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt
Nam (trình bày trong Hội nghị văn hoá toàn quốc lần thứ hai, tháng 7 - 1948).
Đường lối đó gồm các nội dung: xác định mối quan hệ giữa văn hoá và cách mạng
giải phóng dân tộc, cổ động văn hoá cứu quốc; xây dựng nền văn hoá dân chủ mới
Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng mà khẩu hiệu thiết thực lúc
đó là Dân tộc, Dân chủ (nghĩa là yêu nước và tiến bộ); tích cực bài trừ nạn mù
chữ mở đại học và trung học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách
dạy học nhồi sọ; giáo dục lại nhân dân, cổ động thực hành đời sống mới, phát
triển cái hay trong văn hóa dân tộc; đồng thời bài trừ cái xấu xa hủ bại, ngăn
ngừa sức thâm nhập của văn hoá thực dân, phản động; đồng thời học cái hay, cái
tốt của văn hoá thế gian hình thành đội ngũ trí thức mới đóng góp tích cực cho
công cuộc kháng chiến kiến quốc 9 năm và cho cách mạng Việt Nam.
*Trong những năm
1955 - 1986
Đường lối xây dựng và phát triển văn hoá
trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa được hình thành bắt đầu từ Đại hội
lần thứ III (năm 1960) mà điểm cốt lõi là chủ trương tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa đồng
thời với cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất và cách mạng về khoa học, kỹ thuật,
là chủ trương xây dựng và phát triển nền văn hóa mới, con người mới. Mục tiêu
là làm cho nhân dân thoát nạn mù chữ và thói hư tật xấu do xã hội cũ để lại, có
trình độ văn hóa ngày càng cao, có hiểu biết cần thiết về khoa học, kỹ thuật
tiên tiến để xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa.
Đại hội IV và Đại hội V tiếp tục đường lối
phát triển văn hóa của Đại hội III, xác định nền văn hóa mới là nền văn hóa có
nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân.
Nhiệm vụ văn hóa quan trọng của giai đoạn này là tiến hành cải cách giáo dục
trong cả nước, phát triển mạnh khoa học, văn hóa nghệ thuật,giáo dục tinh thần
làm chủ tập thể, chống tư tưởng tư sản và tàn dư tư tưởng phong kiến, phê phán
tư tưởng tiêu tư sản, xóa bỏ ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa thực dân mới ở
miền Nam.
b) Đánh giá sự thực hiện đường lối
Thành tựu:
Nền văn hoá dân chủ mới - văn hoá cứu quốc,
đã bước đầu được hình thành và đạt nhiều thành tựu trong kháng chiến và kiến
quốc. Đã xoá bỏ dần những mặt lạc hậu, những cái lỗi thời trong di sản văn hoá
phong kiến, trong nền văn hoá nô dịch của thực dân Pháp. Bước đầu xây dựng nền
văn hoá dân chủ mới với tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng. Nhiều triệu
đồng bào mù chữ đã biết đọc, biết viết. Phát triển hệ thống giáo dục, cải cách
phương pháp dạy học, thực hành rộng rãi đời sống mới, bài trừ hủ tục, lạc hậu.
Văn hoá cứu quốc đã động viên nhân dân tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược. Trong những năm 1955 - 1986 công tác tư tưởng và
văn hoá đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
cách mạng cả nước. Một thành tựu tiêu biểu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa là sự
nghiệp giáo dục, văn hoá phát triển với tốc độ cao ngay cả trong những năm có
chiến tranh, phát huy vai trò tích cực trong chiến đấu và sản xuất. Hoạt động
vặn hoá nghệ thuật cũng phát triển trên nhiều mặt với nội dung lành mạnh, đã cổ
vũ quần chúng trong chiến đấu và sản xuất, góp phần xây dựng cuộc sống mới, con
người mới. Trình độ văn hoá chung của xã hội đã được nâng lên một mức đáng kể.
Lối sống mới đã trở thành phổ biến, người với người sống có tình, có nghĩa,
đoàn kết thương yêu nhau.
Thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ không chỉ là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối
quân sự đúng đắn mà còn là thắng lợi của chính sách văn hoá của Đảng, thắng lợi
của chủ nghĩa yêu nước và nhân phẩm Việt Nam, của những giá trị tinh thần cao
quý của con người Việt Nam. Cùng với độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ,
những thành quả về văn hoá là một thành tố của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước
ta.
Hạn chế và nguyên
nhân:
Công tác tư tưởng và văn hoá thiếu sắc bén,
thiếu tính chiến đấu. Việc xây đựng thể chế văn hoá còn chậm. Sự suy thoái về
đạo đức lối sống có chiều hướng phát triển. Đời sống văn học, nghệ thuật còn
những mặt bất cập. Rất ít tác phẩm đạt đỉnh cao tương xứng với sự nghiệp cách
mạng và kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Một số công trình văn hoá vật thể và
phi vật thể truyền thống có giá trị không được quan tâm bảo tồn, lưu giữ, thậm
chí bị phá huỷ, mai một.
Đường lối xây dựng, phát triển văn hóa giai
đoạn 1955 - 1986 bị chi phối bởi tư duy chính trị "nắm vững chuyên chính
vô sản" mà thực chất là nhấn mạnh đấu tranh giai cấp. Đấu tranh “ai thắng
ai" giữa hai con đường, đấu tranh 2 phe đấu tranh ý thức hệ trong lĩnh vực
văn hóa.
Mục tiêu, nội dung cuộc cách mạng tư tưởng
văn hóa giai đoạn này cũng bị quy định bởi cuộc cách mạng quan hệ sản xuất mà
tư tưởng chỉ đạo là triệt để xóa bỏ tư hữu, xóa bỏ bóc lột càng nhanh càng tốt,
là đưa quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đi trước một bước, tách rời trình độ
phát triển thực tế của lực lượng sản xuất.
Chiến tranh cùng với cơ chế quản lý kế hoạch
hoá tập trung, quan liêu, bao cấp và tâm lý bình quân chủ nghĩa đã làm giảm
động lực phát triển văn hoá, giáo dục; kìm hãm năng lực tự do sáng tạo.
2.
Trong thời kỳ đổi mới
a) Quá trình đổi mới tư duy về xây
dựng và phát triển nền văn hoá
Từ Đại hội VI đến Đại hội X, Đảng ta đã hình
thành từng bước nhận thức mới về đặc trưng của nền văn hoá mới mà chúng ta cần
xây dựng; về chức năng, vai trò, vị trí của văn hoá trong phát triển kinh tế -
xã hội và hội nhập quốc tế. Đại hội VI (năm 1986) xác định khoa học - kỹ thuật
là một động lực to lớn đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế - xã hội, có vị
trí then chốt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh năm 1991 (được Đại hội VII thông
qua) lần đầu tiên đưa ra quan niệm nền văn hoá Việt Nam có đặc trưng: tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, thay
cho quan niệm nền văn hoá Việt Nam có nội dung xã hội chủ nghĩa, có tính chất
dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân được nêu ra trước đây. Cương lĩnh chủ
trương xây dựng nền văn hoá mới, tạo ra đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú
và đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ, khẳng định và biểu dương
những giá trị chân chính, bồi dưỡng cái chân, cái thiện, cái mỹ theo quan điểm
tiến bộ. phê phán những cái lỗi thời thấp kém; khẳng định tiếp tục tiến hành
cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá, làm cho thế giới
quan Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chỉ đạo trong đời sống tinh
thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả
các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một
xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình
độ tri thức đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hoá
phản tiến bộ, trái với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao
quý của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. Xác định
giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu.
Đại hội VII, VIII, IX, X, XI, XII và nhiều
nghị quyết Trung ương tiếp theo đã xác định văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội và coi văn hoá vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển. Đây là một tầm nhìn
mới về văn hoá phù hợp với tầm nhìn thẳng của thế giới đương đại.
Đại hội VII (1991) và Đại hội VIII (1996)
khẳng định: khoa học và giáo dục đóng vai
trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc, là một động lực đưa đất nước
thoát ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Do
đó phải coi sự nghiệp giáo dục - đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố
con người, động lực trực tiếp của sự phát triển xã hội.
Nghị quyết Trung ương 5, khoá VIII (tháng 7 -
1998) nêu ra 5 quan điểm cơ bản chỉ đạo quá trình phát triển văn hoá trong thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hội nghị Trung ương 9 khoá IX (tháng
1 - 2004) xác định thêm “phát triển văn hoá đồng bộ với phát triển kinh tế”
tiếp theo, Hội nghị Trung ương 10 khoá IX (tháng 7 - 2004) đặt vấn đề bảo đảm
sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng, chỉnh đốn
Đảng là then chốt với nhiệm vụ không ngừng nâng cao văn hoá - nền tảng tinh
thần của xã hội. Đây chính là bước phát triển quan trọng trong nhận thức của
Đảng về vị trí của văn hóa và công tác văn hoá trong quan hệ với các mặt công
tác khác.
Hội nghị Trung ương 10 khoá IX đã nhận định
về sự biến đổi của văn hoá trong quá trình đổi mới. Cơ chế thị trường và hội
nhập quốc tế đã làm thay đổi mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, thúc đẩy
dân chủ hoá đời sống xã hội, đa dạng hoá thị hiếu và phương thức sinh hoạt văn
hoá. Do đó phạm vi, vai trò của dân chủ hoá - xã hội hoá văn hoá, và của cá
nhân ngày càng tăng lên và mở rộng là những thách thức mới đối với sự lãnh đạo
và quản lý công tác văn hoá của Đảng và Nhà nước.
Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI (tháng
5-2014) dã nêu ra mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể, quan điểm nhiệm vụ, giải
pháp về xây dựng và phát triển văn hóa con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất nước.
b) Quan điểm chỉ đạo và chủ trương
về xây dựng và phát triển nền văn hoá
Kế thừa và phát triển 5 quan điểm cảu Nghị
quyết Trung ương 5 khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI đã nêu ra 5 quan
điểm sau:
Một là, văn hoá là
nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển bền
vững đất nước. Văn hóa phải đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội và
hội nhập quốc tế.
Quan điểm này chỉ rõ chức năng, vị trí, vai
trò đặc biệt quan trọng của văn hoá đối với sự phát triển xã hội.
- Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hôi.
Theo ý kiến của nguyên Tổng giám đốc UNESCO:
Văn hoá phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc
sống (của mỗi cá nhân và các cộng đồng) diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn
ra trong hiện tại; qua hàng bao thế kỷ nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá
trị, truyền thống và lối sống mà trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc
riêng của mình.
Các giá trị nói trên tạo thành nền tảng tinh
thần của xã hội - vì nó được thấm nhuần trong mỗi con người và trong cả cộng
đồng; được truyền lại, tiếp nối và phát huy qua các thế hệ; được vật chất hoá
và khẳng định vững chắc trong cấu trúc xã hội của từng dân tộc (thí dụ: cấu
trúc này ở Việt Nam là cấu trúc Nhà - Làng - Nước) đồng thời nó tác động hàng
ngày đến cuộc sống, tư tưởng, tình cảm của mọi thành viên xã hội bằng môi
trường xã hội - văn hoá (bao gồm văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể).
Vì vậy chúng ta thủ trương làm cho văn hoá
thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để các giá trị văn hoá trở thành
nền tảng tinh thần bền vững của xã hội. Trở thành động lực phát triển kinh tế -
xã hội. Đó cũng là con đường xây dựng con người mới, xây dựng môi trường văn
hoá lành mạnh đủ sức đề kháng và đẩy lùi các tiêu cực xã hội, đẩy lùi sự xâm
nhập của tư tưởng, văn hoá phản tiến bộ. Biện pháp tích cực là đẩy mạnh cuộc
vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá; đẩy mạnh cuộc vận động
xây dựng gia đình văn hoá. phường xã văn hoá, cơ quan, đơn vị văn hoá; nêu gương
người tốt, việc tốt.
- Văn hoá là động lực sự phát triển bền vững.
Nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một
dân tộc thấm sâu trong văn hoá. Sự phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái
mới, tiếp nhận cái mới, tạo ra cái mới, nhưng lại không thể tách khỏi cội nguồn.
Phát triển phải dựa trên cội nguồn, bằng cách phát huy cội nguồn. Cội nguồn đó
của mỗi quốc gia, dân tộc là văn hoá.
Kinh nghiệm đổi mới ở nước ta cũng chứng tỏ
rằng, ngay bản thân sự phát triển kinh tế cũng không chỉ do các nhân tố thuần
tuý kinh tế tạo ra. Nền kinh tế Việt Nam hôm nay đã có một bước tiến đáng kể so
với thời kỳ thực hiện chế độ kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp. Nguyên nhân
không phải chỉ ở sự tiến triển tự nhiên của các nhân tố kinh tế, mà còn do sự
đổi mới tư duy, đổi mới chính sách và chế độ quản lý, còn do sự giải phóng tư
tưởng và bước phát triển mới về trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ khoa học
và công nghệ, cán bộ quản lý và lực lượng lao động. Nghĩa là động lực của sự
đổi mới kinh tế một phần quan trọng nằm trong những giá trị văn hoá đang được
phát huy.
Ngày nay, trong điều kiện của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại, yếu tố quyết định cho sự tăng trưởng kinh tế là
trí tuệ, là thông tin, là ý tưởng sáng tạo và đổi mới không ngừng thì một nước
trở thành giàu hay nghèo không chỉ ở chỗ có nhiều hay ít lao động và tài nguyên
thiên nhiên, mà trước hết là có khả năng phát huy đến mức cao nhất tiềm năng
sáng tạo của nguồn lực con người hay không. Tiềm năng sáng tạo này nằm trong
các yếu tố cấu thành văn hoá, nghĩa là trong tri thức, và khả năng sáng tạo,
trong bản lĩnh tự đổi mới của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng.
Nói cách khác, hàm lượng văn hoá trong các
lĩnh vực của đời sống con người càng cao bao nhiêu thì khả năng phát triển kinh
tế - xã hội càng hiện thực và bền vững bấy nhiêu.
Trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn hoá
dựa vào tiêu chuẩn của cái đúng, cái tốt, cái đẹp để hướng dẫn và thúc đẩy
người lao động không ngừng phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay
nghề, sản xuất ra hàng hoá với số lượng và chất lượng ngày càng cao đáp ứng nhu
cầu của xã hội. Mặt khác, văn hoá sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền
thống, của đạo lý dân tộc để hạn chế xu hướng sùng bái lợi ích vật chất, sùng
bái tiền tệ. Nghĩa là hạn chế xu hướng hàng hoá và đồng tiền "xuất hiện
với tính cách là lực lượng có khả năng xuyên tạc bản chất con người cũng như
những mối liên hệ khác" dẫn tới suy thoái xã hội.
Nền văn hoá Việt Nam đương đại, với những giá
trị mới, sẽ là một tiền đề quan trọng đưa nước ta hội nhập ngày càng sâu hơn và
toàn diện hơn vào nền kinh tế thế giới.
Trong vấn đề bảo vệ môi trường vì sự phát
triển bền vững, văn hoá giúp hạn chế lối sống chạy theo ham muốn quá mức của
"xã hội tiêu thụ'’ dẫn đến chỗ làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường
sinh thái
Văn hoá, nhất là văn hoá phương Đông, cổ vũ
và hướng dẫn cho một lối sống có chừng mực, hài hoà với sức tải của hành tinh
thúng ta. Nó đưa ra mô hình ứng xử thân thiện giữa con người với thiên nhiên,
vì sự phát triển bền vững cho thế hệ hiện nay và tho các thế hệ mai sau.
- Văn hoá là một mục tiêu của phát triển.
Mục tiêu xây dựng một xã hội Việt Nam
"dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh" chính là mục
tiêu văn hóa.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 -
2020 xác định: “phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể,
nguồn lực chủ yếu, là mục tiêu của sự phát triển”. Đồng thời nêu rõ yeu cầu:
“Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, không ngưng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân
dân”. Phát triển hướng tới mục tiêu văn hóa – xã hội mới đảm bảo sự bền vững,
trường tồn.
Thực tế nhiều nước cho thấy mối quan hệ giữa
văn hoá và phát triển là vấn đề bức xúc của mọi quốc gia. Sau khi thoát khỏi
ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, các nước độc lập dân tộc đang trên con
đường dẫn tới ấm no, hạnh phúc. thì việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa văn
hoá và phát triển kinh tế - xã hội lại càng có ý nghĩa quan trọng.
Tuy nhiên, trong nhận thức và hành động, mục
tiêu kinh tế vẫn thường lấn át mục tiêu văn hoá và thường được đặt vào vị trí
ưu tiên trong các kế hoạch, chương trình, chính sách phát triển của nhiều quốc
gia, nhất là các nước nghèo đang phát triển theo con đường công nghiệp hoá.
- Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh
tế, chính trị, xã hội
Để làm cho văn hóa trở thành động lực và mục
tiêu của sự phát triển chứng ta thủ trương phát triển văn hoá phải gắn kết chặt
chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội. Cụ thể là:
Phát triển toàn diện các lĩnh vực vă hóa, xã
hội hài hòa với phát triển kinh tế. Xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn
hóa để văn hóa thưucj sự là nền tảng tinh thần xã hội, là một động lực phát
triển xã hội và hội nhập quốc tế.
Khi xác định mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội phải đồng thời xác định mục tiêu văn hoá, hướng tới xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Phải có chính sách kinh tế trong văn hoá để gắn văn hoá với hoạt
động kinh tế, khai thác tiềm năng kinh tế, tài chính hỗ trợ cho phát triển văn
hoá. Xây dựng chính sách văn hoá trong kinh tế để chủ động đưa các yếu tố văn
hoá thâm nhập vào các hoạt động kinh tế xã hội, xây dựng văn hoá kinh doanh,
đạo đức kinh doanh, văn minh thương nghiệp; xây dựng đội ngũ doanh nhân thời
hội nhập.
- Văn hoá có vai trò đặc biệt quan trong trong
việc bồi dưỡng phát huy nhân tố con người và xây dưng xã hội mới.
Việc phát triển kinh tế - xã hội cần đến
nhiều nguồn lực khác nhau: tài nguyên thiên nhiên, vốn, v.v.. Những nguồn lực
này đều có hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt. Chỉ có tri thức con người mới
là nguồn lực vô hạn, có khả năng tái sinh và tự sinh không bao giờ cạn kiệt.
Các nguồn lực khác sẽ không được sử dụng có hiệu quả nếu không có những con
người đủ trí tuệ và năng lực khai thác chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa.
Năm 1990, UNDP (Chương trình phát triển của
Liên hợp quốc) đưa ra những tiêu chí mới để đánh giá mức độ phát triển của các
quốc gia. Đó là chỉ số phát triển con người, một trong ba chỉ tiêu của cách
tính toán mới này là thành tựu giáo dục (hai chỉ tiêu kia là tuổi thọ bình quân
và mức thu nhập) Chỉ tiêu giáo dục lại được tổng hợp từ hai tiêu chí khác là
tình trạng học vấn của nhân dân và số năm được giáo dục tính bình quân cho mỗi
người.
Theo đó, quốc gia nào đạt thành tựu giáo dục
cao, tức là có vốn trí tuệ toàn dân nhiều hơn thì chứng tỏ xã hội đó phát triển
hơn, có khả năng tăng trưởng dồi dào. "Tài nguyên" con người, cái vốn
con người, nói cho cùng là vốn trí tuệ của dân tộc. Như vậy văn hoá trực tiếp tạo
dựng và nâng cao vốn "tài nguyên người".
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, đi vào công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, Việt Nam chưa có lợi thế về chỉ số phát triển con
người như mong muốn. Tỷ lệ số người biết đọc, biết viết được xếp vào thứ hạng
cao trong khu vực (88%) nhưng nguy cơ tái mù chữ lại đang tăng, đặc biệt là mù
ngoại ngữ, mù tin học.
Hai là nền văn hoá
mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống
nhất trong sự đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các dặc trưng dân
tộc, nhân văn, dân chủ và khao học.
Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội
dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và thủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người. Tiên tiến không chỉ về
nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển
tải nội dung.
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hoá
truyền thống bền vững của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch
sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn,
ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá
nhân-gia đình-làng xã-Tổ quốc; đó là lòng nhân ái, khoan dung, trọng tình
nghĩa, đạo lý, là đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong
ứng xử, tính giản dị trong lối sống... Bản sắc dân tộc còn đậm nét cả trong các
hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo.
Có thể nói bản sắc của một dân tộc là tổng
thể những phẩm chất, tính cách, khuynh hướng cơ bản thuộc về sức mạnh tiềm tàng
và sức sáng tạo giúp cho dân tộc đó giữ vững được tính duy nhất, tính thống
nhất, tính nhất quán so với bản thân mình trong quá trình phát triển. Sức mạnh
và sức sáng tạo này có mối liên hệ gốc rễ, lâu dài và bền vững với môi trường
xã hội - tự nhiên và với quá trình lịch sử mà dân tộc đó đã tồn tại.
Bản sắc dân tộc thể hiện trong tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội: cách tư duy, cách sống, cách dựng nước, giữ nước,
cách sáng tạo trong văn hoá, khoa học, văn học, nghệ thuật. Nhưng được thể hiện
sâu sắc nhất là trong hệ giá trị của dân tộc, nó là cốt lõi của một nền văn
hoá. Hệ giá trị là những gì nhân dân quan tâm, là niềm tin mà nhân dân cho là
thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Khi được chuyển thành các chuẩn mực xã hội, nó
định hướng cho sự lựa chọn trong hành động của cá nhân và cộng đồng. Vì vậy, nó
là cơ sở tinh thần cho sự ổn định xã hội và sự vững vàng của chế độ. Hệ giá trị
có tính ổn định rất lớn và có tính bền vững tương đối có sức mạnh gắn bó mọi
thành viên trong cộng đồng. Trong sự tiến bộ và phát triển của xã hội, các giá
trị này thường không biến mất mà hoá thân vào các giá trị của thời sau, theo
quy luật kế thừa và tái tạo.
Bản sắc dân tộc phát triển theo sự phát triển
của thể chế kinh tế, thể chế xã hội và thể chế chính trị của các quốc gia. Nó
cũng phát triển theo quá trình hội nhập kinh tế thế giới, quá trình giao lưu
văn hoá với các quốc gia khác và sự tiếp nhận tích cực văn hoá, văn minh nhân
loại. Vì vậy, chúng ta chủ trương xây dựng và hoàn thiện các giá trị và nhân
cách con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của
nền văn hoá phải được thấm đượm trong mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo vật
chất, ứng dựng các thành tựa khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo..., sao
cho trong mọi lĩnh vực hoạt động chúng ta có cách tư duy độc lập, có cách làm
vừa hiện đại vừa mang sắc thái Việt Nam. Đi vào kinh tế thị trường, mở rộng
giao lưu quốc tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải tiếp thu những
tinh hoa của nhân loại, song phải luôn luôn phát huy những giá trị truyền thống
và bản sắc dân tộc.
Để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc chúng ta chủ trương vừa bảo vệ bản sắc dân tộc, vừa mở rộng giao
lưu, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết
với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong
văn hoá các dân tộc khác để bắt kịp sự phát triển của thời đại. Chủ động tham
gia hội nhập và giao lưu văn hoá với các quốc gia để xây dựng những giá trị mới
của văn hoá Việt Nam đương đại Xây dựng Việt Nam thành một địa chỉ giao lưu văn
hoá khu vực và quốc tế
Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi kèm với chống
những cái lạc hậu, lỗi thời trong phong tục tập quán và lề thói cũ.
Ba là, Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con
người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo
xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản:
yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
Phát triển văn há vì sự hoàn thiện nhân cách
con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Đây là mối quan hệ biện
chứng.
Trong xây dựng văn hóa trọng tâm là chăm lo
xây dựng con người có nhân cách, lối sống đẹp,với các đặc tính cơ bản: Yêu
nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Đây là những
đặc tính cơ bản nhất của con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
đất nước.
Muốn xây dựng con người có những đặc điểm
trên, cần phải:
- Hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục,
khoa học vào việc xây dựng con người có thế giới quan khoa học, hướng tới
chân - thiện - mỹ.
- Xây dựng và phát huy lối sống "Mỗi
người vì mọi người, mọi người vì mỗi người"; hình thành lối sống có ý thức
tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
- Tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao
năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu niên.
Bốn là, xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò
của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần
chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế.
Mỗi địa phương, cộng đồng, cơ quan, đơn vị,
tổ chức phải là một môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần giáo dục, rèn luyện
con người về nhân cách, lối sống.
Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt
Nam, xây dựng gia đình thực sự là nơi hình thành, nuôi dưỡng nhân cách văn hóa
và giáo dục nếp sống cho con người. Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây
dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh.
Gắn các hoạt động văn hóa với phát triển kinh
tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, với chương trình xây dựng nông thôn
mới, đô thị văn minh.
Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong
văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng; khuyến khích các hoạt động tôn giáo gắn bó với
dân tộc, hướng thiện, nhân đạo, nhân văn, tiến bộ, "tốt đời, đẹp
đạo". Khuyến khích các hoạt động "đền ơn đáp nghĩa", "uống
nước nhớ nguồn", từ thiện, nhân đạo.
Năm là, xây dựng và
phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Mọi người Việt Nam phấn đấu vì dân giàu nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minhdều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển
văn hóa nước nhà. Công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng của khối đại đoàn
kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa dưới
sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Đội ngũ trí thức gắn bó với nhân
dân giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp này. Sự nghiệp xây dựng và phát
triển văn hóa do Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
c) Đánh giá việc thực hiện đường lối
Qua 30 năm đổi mới,
lĩnh vực xây dựng và phát triển văn hóa, con người đã đạt được những kết quả
quan trọng.
Những tiến bộ trong giáo dục đào tạo, khoa
học công nghệ; sự khởi sắc trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ, truyền thông
đại chúng, bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa sự tăng cường các thiết chế văn
hóa cơ sở… làm cho đời sống tinh thần của con người, xã hội phong phú, đa dạng
hơn, mức hưởng thụ văn hóa cảu nhân dân từng bước được nâng lên.
Bầu không khí xã hội dân chủ, cởi mở hơn; dân
trí được nâng cao; tính tích cực cá nhân trong xã hội được phát huy. Những nhân
tố mới, giá trị của văn hóa, con người việt nam thời kỳ CNH, HĐH, hội nhập quốc
tế được định hình trong đời sống. Quyền tự do sáng tạo, quản bá văn hóa, văn
học nghệ thuật, được tôn trọng, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt
tâm linh của nhân dân được quan tâm thực hiện.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa”, “Xây dựng nông thôn mới” và các phong trào xóa đói giảm nghèo, đền ơn
đáp nghĩa… đạt được những kết quả tích cực, tạo môi trường tốt để nuôi dưỡng,
phát huy những giá trị nhân văn của dân tộc. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống
của cộng đồng các dân tộc được phát huy, đồng thời xuất hiện những giá trị văn
hóa mới.
Nguồn lực của nhà nước, của xã hội đầu tư cho
văn hóa được nâng lên, hệ thống thiết chế từ Trung ương đến cơ sở được xây
dựng, từng bước hoàn thiện và phát huy tác dụng.
Giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế về văn
hóa được mở rộng, bước đầu làm phong phú hơn đời sống văn hóa trong nước và
quảng bá đời sống, văn hóa Việt Nam ra nước ngoài.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hóa có tiến
bộ, đội ngũ làm công tác văn hóa có bước trưởng thành
Hạn chế, khuyết
điểm:
So với những thành tựu đạt được về
chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thanhg tựu phát
triển văn hóa, xây dựng con người chưa tương xứng.
Mười năm trở lại đây, văn hóa một số
mặt có chiều hướng xuống cấp.
Lĩnh vực xây dựng con người có nhiều hạn chế,
khuyết điểm.
Sự xuống cấp về văn hóa, đạo đức, suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên diễn biến phức tạp.
Hiện tượng phai nhạt lý tưởng, sống thực
dụng, vị kỷ, vô cảm, vô trách nhiệm, thiếu kỷ luật… chưa được khắc phục…
Đời sống văn hóa tinh thần nhiều nơi còn
nghèo nàn, đơn điệu…
Chất lượng, hiệu quả bảo tồn, phát huy các di
sản còn nhiều hạn chế…
Chất lượng sáng tạo các giá trị văn hóa mới
còn nhiều hạn chế, ít các công trình, tác phẩm có giá trị tư tưởng, nghệ thuật,
khoa học cao… Vẫn còn những sản phẩm chất lượng kém, “phi văn hóa” thậm chí
“phản văn hóa”…
Hiệu quả hội nhập quốc tế về văn hóa còn hạn
chế.
Lãnh đạo, quản lý văn hóa còn nhiều mặt bất
cập…
- Nguyên
nhân
Thành tựu đạt được
trong phát triển văn hóa, xây dựng con người là kết quả tổng hợp của nhiều nhân
tố.
Những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội
trong 30 năm đổi mới; xu thế hòa bình, hợp tác phát triển giữa các quốc gia
trên thê giới…
Nhân dân ta có truyền thống văn hóa và những
phẩm chất đạo đức tốt đẹp…
Trong 30 năm đổi mới, Đảng ta đã ban hành và
lãnh đạo thực hiện nhiều chủ trương chính sách liên quan đến xây dựng, phát
triển văn hóa, con người…
Sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị dưới sự
lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định…
Những yếu kém, bất
cập trong xây
dựng, phát triển văn hóa, con người bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân.
Về khách quan, bên cạnh việc tiếp nhận những
tác động tích cực của phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập
quốc tế, chúng ta phải đối mặt với các tác động tiêu cực của cơ chế thị trường
và hội nhập quốc tế…
Tàn dư lạc hậu, tâm lý, lối sống tiểu nông,
sản xuất nhỏ, tư duy, phong cách trong cơ chế cũ; những thói hư, tật xấu và
những mặt hạn chế của người Việt Nam còn tồn tại dai dẳng, trở thành lực cản…
Về chủ quan, việc xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam là lĩnh vực rộng lớn, nhạy cảm, phức tạp…
Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận về xây dựng phát triển văn hóa, con người chưa được chú trọng đúng mức…
Nhiều chủ trương, quan điểm đúng đắn của Đảng
về xây dựng phát triển văn hóa, con người chậm được thể chế hóa, cụ thể hóa…
II - QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ CHỦ
TRƯƠNG GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI
Các vấn đề xã hội nói trong chương này bao
gồm nhiều lĩnh vực như: việc làm, thu nhập, bình đẳng xã hội, khuyến khích làm
giàu, xóa đói giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe, cung ứng dịch vụ công, an sinh xã
hội, cứu trợ xã hội, chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình v.v...
1.
Thời kỳ trước đổi mới
a) Chủ trương của Đảng về giải quyết
các vấn đề xã hội
Giai đoạn 1945 - 1954.
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám và trong những
năm thực hiện nhiệm vụ “kháng chiến kiến quốc", chính sách xã hội của Đảng
ta được chỉ đạo bởi tư tưởng: chúng ta giành được tự do, độc lập rồi mà dân ta
cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ
giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Do đó, chính sách
xã hội cấp bách lúc này là làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân
có chỗ ở, làm cho dân được học hành. Tiếp sau đó là làm cho người nghèo thì đủ
ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm. Chủ trương này đã
nhanh chóng đi vào cuộc sống và gạt được những hiệu quả thiết thực.
Các vấn đề xã hội được giải quyết trong mô
hình Dân chủ nhân dân: Chính phủ có thủ trương và hướng dẫn để các tầng lớp
nhân dân thủ động và tự tổ chức giải quyết các vấn đề xã hội của chính mình.
Chính sánh tăng gia sản xuất (nhằm tự cấp tự tức), chủ trương tiết kiệm, đồng
cam cộng khổ trở thành phong trào rộng rãi, từ cơ quan chính phủ đến bộ đội,
dân chúng được coi trọng như đánh giặc. Khuyến khích mại thành phần xã hội phát
triển kinh tế theo cơ chế thị trường. Thực hiện chính sách điều hòa lợi ích
giữa chủ và thợ.
Giai đoạn 1955 -
1975
Các vấn đề xã hội được giải quyết trong mô
hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ, trong hoàn cảnh chiến tranh. Chế độ phân phối về
thực chất là theo chủ nghĩa bình quân. Nhà nước và tập thể đáp ứng các nhu cầu
xã hội thiết yếu bằng chế độ bao cấp tràn lan dựa vào viện trợ.
Giai đoạn 1975 - 1985.
Các vấn đề xã hội được giải quyết theo cơ thế
kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp, trong hoàn cảnh đất nước lâm vào
khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng, nguồn viện trợ giảm dần, bị bao vây,
cô lập và cấm vận.
b) Đánh giá việc thực hiện đường lối
Chính sách xã hội trong 9 năm "kháng
chiến, kiến quốc", tiếp sau đó là thời bao cấp tuy có nhiều nhược điểm và
hạn chế nhưng đã bảo đảm được sự ổn định của xã hội đồng thời còn đạt được
thành tựu phát triển đáng tự hào trên một số lĩnh vực như văn hoá, giáo dục, y
tế, lối sống, đạo đức, kỷ cương và an ninh xã hội, hoàn thành nghĩa vụ của hậu
phương lớn đối với tiền tuyến lớn.
Những thành tựu đó nói lên bản chất tốt đẹp
của chế độ mới và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng trong giải quyết các vấn đề xã
hội trong điều kiện chiến tranh kéo dài, kinh tế chậm phát triển.
Hạn chế và nguyên
nhân:
Trong xã hội đã hình thành tâm lý thụ động, ỷ
lại vào Nhà nước và tập thể trong cách giải quyết các vấn đề xã hội; chế độ
phân phối trên thực tế là bình quân - cào bằng không khuyến khích những đơn vị,
cá nhân làm tốt, làm giỏi v.v.. Đã hình thành một xã hội đóng, ổn định nhưng
kém năng động chậm phát triển về nhiều mặt.
Nguyên nhân cơ bản của các hạn chế trên là
chúng ta đặt chưa đúng tầm chính sách xã hội trong quan hệ với chính sách thuộc
các lĩnh vực khác, đồng thời lại áp dụng và duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh
tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp.
2.
Trong thời kỳ đổi mới
a) Quá trình đổi mới nhận thức về
giải quyết các vấn đề xã hội
Tại Đại hội VI lần đầu tiên Đảng ta nâng các
vấn đề xã hội lên tầm chính sách xã hội,
đặt rõ tầm quan trọng của chính sách xã hội đối với chính sách kinh tế và chính
sách ở các lĩnh vực khác. Đại hội cho rằng trình độ phát triển kinh tế là điều
kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội nhưng những mục tiêu xã hội lại là
mục đích của các hoạt động kinh tế. Ngay trong khuôn khổ của hoạt động kinh tế,
chính sách xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động, chất lượng sản
phẩm... Do đó, cần có chính sách xã hội cơ bản, lâu dài phù hợp với yêu cầu khả
năng trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ.
Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với
mục tiêu phát triển kinh tế ở chỗ đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con
người. Phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã
hội, đồng thời thực hiện tốt các chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát
triển kinh tế.
Đại hội VIII của Đảng chủ trương hệ thống
chính sách xã hội phải được hoạch định theo những quan điểm sau đây: Tăng
trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả
khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở
việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng
lực của mình.
- Thực hiện nhiều hình thức phân phối.
- Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với
tích cực xoá đói giảm nghèo.
- Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết
theo tinh thần xã hội hoá.
Đại hội IX của Đảng chủ trương các chính sách
xã hội phải hướng vào phát triển và làm lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công
bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất
lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích
nhân dân làm giàu hợp pháp.
Đại hội X của Đảng thủ trương phải kết hợp
các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh
vực, địa phương.
Trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO, hội
nhập sâu rộng hơn vào hệ thống kinh tế quốc tế, Hội nghị Trung ương 4, khoá X
(tháng 1 - 2007) nhấn mạnh phải giải quyết tốt các vấn đề xã hội nảy sinh trong
quá trình thực thi các cam kết với WTO. Xây dựng cơ chế đánh giá và cảnh báo
định kỳ về tác động của việc gia nhập WTO đối với lĩnh vực xã hội để có biện
pháp xử lý chủ động, đúng đắn, kịp thời.
Đại hội XI của Đảng chủ trương phát triển
toàn diện, mạnh mẽ các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế.
Đại hội XII xác định: Quản lý, phát triển xã
hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
b) Quan điểm về giải quyết các vấn
đề xã hội
Một là, kết hợp các mục tiêu kinh tế với
các mục tiêu xã hội. Kế hoạch phát triển kinh tế phải tính đến mục tiêu phát
triển các lĩnh vực xã hội có liên quan trực tiếp.
Mục tiêu phát triển kinh tế phải tính đến các
tác động và hậu quả xã hội có thể xảy ra để chủ động xử lý.
Phải tạo được sự thống nhất, đồng bộ giữa
chính sách kinh tế và chính sách xã hội.
Sự kết hợp giữa hai loại mục tiêu này phải
được quán triệt ở tất cả các cấp các ngành, các địa phương, ở từng đơn vị kinh
tế cơ sở.
Hai là, xây dựng và hoàn thiện thể chế
gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước và
từng chính sách phát triển.
Trong từng bước và từng chính sách phát triển
(của chính phủ hay của ngành của trung ương hay địa phương), cần đặt rõ và xử
lý hợp lý việc gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã
hội.
Nhiệm vụ "gắn kết" này không dừng
lại như một khẩu hiệu, một lời khuyến nghị mà phải được pháp chế hoá thành các
thể chế có tính cưỡng chế, buộc các chủ thể phải thi hành.
Các cơ quan các nhà hoạch định chính sách
phát triển quốc là phải thấu triệt quan điểm phát triển bền vững, phát triển
"sạch", phát triển hài hòa, không chạy theo số lượng tăng trưởng bằng
mọi giá.
Ba là, chính sách xã hội được thực hiện
trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn bó hữu cơ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa
cống hiến và hưởng thụ.
Chính sách xã hội có vị trí, vai trò độc lập
tương đối so với kinh tế, nhưng không thể tách rời trình độ phát triển kinh tế
cũng không thể dựa vào viện trợ như thời bao cấp. Trong chính sách xã hội phải
gắn bó giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và hưởng thụ. Đó là một yêu
cầu của công bằng xã hội và tiến bộ xã hội; xoá bỏ quan điểm bao cấp, cào bằng;
chấm dứt cơ chế xin - cho trong chính sách xã hội.
Bốn là, coi trọng chỉ tiêu GDP bình quân
đầu người gắn với chỉ tiêu phát triển con người (HDI), và chỉ tiêu phát triển
các lĩnh vực xã hội.
Quan điểm này khẳng định mục tiêu cuối cùng
và cao nhất của sự phát triển phải là vì con người, vì một xã hội dân giàu,
nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Phát triển phải bền vững, không chạy theo
số lượng tăng trưởng.
c) Chủ trương giải quyết các vấn đề
xã hội
Một là, khuyến khích mọi người dân làm
giàu theo pháp luật thực hiện có hiệu quả mục tiêu xoá đói, giảm nghèo.
Tạo cơ hội, điều kiện cho mọi người tiếp cận
bình đẳng các nguồn lực phát triển.
Tạo động lực làm giàu trong đông đảo dân cư
bằng tài năng, sáng tạo của bản thân, trong khuôn khổ pháp luật và đạo đức cho
phép.
Xây dựng, và thực hiện có kết quả cao chương
trình xoá đói giảm nghèo; đề phòng tái đói, tái nghèo; nâng cao dần chuẩn đói
nghèo khi mức sống chung tăng lên.
Hai là, bảo đảm cung ứng dịch vụ công
thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân, tạo việc làm và thu nhập, chăm sóc sức
khoẻ cộng đồng.
Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng;
phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm.
Đa dạng hoá các loại hình cứu trợ xã hội, tạo
nhiều việc làm ở trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu lao động.
Thực hiện chính sách ưu đãi xã hội.
Đổi mới chính sách tiền lương; phân phối thu
nhập xã hội công bằng, hợp lý.
Ba là, phát triển hệ thống y tế công
bằng và hiệu quả.
Hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, quan tâm
chăm sóc y tế tốt hơn đối với các đối tượng chính sách; phát triển các dịch vụ
y tế công nghệ cao, các dịch vụ y tế ngoài công lập.
Bốn là, xây dựng chiến lược quốc gia về
nâng cao sức khoẻ và cải thiện giống nòi.
Quan tâm chăm sóc sức khoẻ sinh sản. Giảm
nhanh tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng.
Đẩy mạnh công tác bảo vệ giống nòi, kiên trì
phòng chống HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội.
Năm là, thực hiện tốt các chính sách dân
số và kế hoạch hoá gia đình.
Giảm tốc độ tăng dân số, bảo đảm quy mô và cơ
cấu dân số hợp lý.
Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc; bảo đảm bình đẳng giới; chống nạn bạo hành trong quan hệ gia đình.
Sáu là, chú trọng các chính sách ưa đãi
xã hội.
Bảy là, đổi mới cơ chế quản lý và phương
thức cung ứng các dịch vụ công cộng.
d) Đánh giá sự thực hiện đường lối
Sau 30 năm đổi mới, việc giải quyết các vấn
đề xã hội đã đạt được nhiều thành tựu
quan trọng sau đây:
Về lao động – việc
làm: Các chính
sách về lao động và việc làm của Nhà nước đã chuyển biến theo hướng ngày càng
phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN… Bộ Luật Lao động được
sửa đổi nhiều lần qua các năm (2002, 2006, 2007, 2012..)
Về giảm nghèo bền
vững: Trong 30
năm qua, Đảng và nhà nước ta luôn nhất quán về chinh sách giảm nghèo bền vững
đi đôi với khuyên khích làmgiàu hợp pháp…
Chăm sóc sức khỏe
nhân dân có nhiều
tiến bộ.
Chính sách ưu đãi
người có công được
Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm.
Về chính sách an
sinh xã hội: xây
dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội toàn diện và đa dạng, ngày càng mở
rộng hiệu quả. Phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm, như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế, bảo hiểm thất nghiệp…
Tuy nhiên việc giải quyết các vấn đề xã hội
vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, những
bức xúc xã hội có chiều hướng gia tăng.
Một số chính sách xã hội chậm đổi mới, chưa
sát thực tiễn, thiếu cơ sở khao học…
Phân hóa giàu nghèo có chiều hướng gia tăng…
Giảm nghèo thiếu bền vững…
Một số bức xúc xã hội chậm được giải quyết…
Một số vấn đề phát sinh trong lĩnh vực tôn
giáo, lợi dụng tôn giáo để chống phá Đảng, nhà nước, chưa giải quyết kịp thời
thỏa đáng…
- Nguyên nhân:
Những thành tựu nêu
trên có nhiều nguyên nhân: Các chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước giải quyết các vấn đề xã
hội cơ bản là đúng đắn, hợp lòng dân. Đã động viên khai thác các nguồn lực
trong nhân dân cùng với nhà nước và sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế để giải
quyết các vấn đề xã hội. Đảng, Nhà nước, mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị xã hội đã quan tâm và chú trọng giải quyết các vấn đề xã hội.
Những hạn chế do nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan, song nguyên nhân chủ quan là chính.
Là một nước nông nghiệp vốn nghèo nàn lạc
hậu, thường xuyên bị thiên tai, lại trải qua 3o năm chiến tranh, để lại nhiều
hậu quả nặng nề, cho nên các vấn đề xã hội không thể giải quyết triệt để trong
một thời gian ngắn.
Nhận thức của nhiều cấp ủy đảng và chính
quyền về các vấn đề xã hội, chính sách xã hội chưa đầy đủ và sâu sắc…
Chính sách xã hội chậm đổi mới so với chính
sách kinh tế…
Nhu cầu nguồn lực để giải quyết các vấn đề xã
hội rất lớn nhưng khả năng đáp ứng của đất nước còn rất hạn hẹp, lại sử dụng
chưa hiệu quả, phân tán, lãng phí, thậm chí tiêu cực…
Chương VIII:
ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI
Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công,
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập. Trong điều kiện trực tiếp lãnh
đạo chính quyền, Đảng đã hoạch định đường lối đối ngoại, với các nội dung:
Mục tiêu đối ngoại
của Việt Nam là
góp phần "đưa nước nhà đến sự độc lập hoàn toàn và vĩnh viễn".
Về nguyên tắc đối
ngoại, nền ngoại
giao Việt Nam lấy nguyên tắc của Hiến chương Đại Tây Dương làm nền tảng. Về
phương châm đối ngoại, nền ngoại giao của nước Việt Nam mới quán triệt quan
điểm độc lập, tự chủ, tự lực tự cường.
Trong những năm 1945 - 1946, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, hoạt động đối ngoại đã mở ra cục diện đấu tranh ngoại giao góp phần
bảo vệ nền độc lập dân tộc và chính quyền cách mạng non trẻ. Đồng thời đặt cơ
sở cho việc xây dựng quan hệ với Liên hợp quốc và một số nước khác, qua đó nâng
cao hình ảnh, uy tín của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1946 - 1975), hoạt động đối ngoại,
đấu tranh ngoại giao trở thành một bộ phận quan trọng của hai cuộc kháng chiến.
Với đường lối đối ngoại đúng đắn, Đảng ta đã xây dựng được một mặt trận nhân
dân thế giới rộng rãi, đoàn kết và ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược. Mặt trận
đó bao gồm: các nước xã hội chủ nghĩa. Các nước độc lập dân tộc các lực lượng
yêu chuộng hoà bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới, trong đó có cả một bộ
phận nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ. Cách mạng Việt Nam đã tập hợp được một lực
lượng quốc tế mạnh mẽ góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đến
thắng lợi hoàn toàn.
I. ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI THỜI KỲ TỪ
NĂM 1975 ĐẾN NĂM 1986
1.
Hoàn cảnh lịch sử
a) Tình hình thế giới
Từ thập kỷ 70, thế kỷ XX, sự tiến bộ nhanh
thắng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã thúc đẩy lực lượng sản xuất
thế giới phát triển mạnh; Nhật Bản và Tây âu vươn lên trở thành hai trung tâm
lớn của kinh tế thế giới; xu thế chạy đua phát triển kinh tế đã dẫn đến cục
diện hoà hoãn giữa các nước lớn.
Với thắng lợi của cách mạng Việt Nam (năm
1975) và các nước Đông Dương, hệ thống xã hội chủ nghĩa đã mở rộng phạm vi,
phong trào cách mạng the giới phát triển mạnh. Đảng ta nhận định: Hệ thống các
nước xã, hội chủ nghĩa đã và đang lớn mạnh không ngừng; phong trào độc lập dân
tộc và phong trào cách mạng của giai cấp công nhân đang trên đà phát triển mạnh
liệt. Tuy nhiên, từ giữa thập kỷ 70 của thế kỷ XX, tình hình kinh tế - xã hội ở
các nước xã hội chủ nghĩa xuất hiện sự trì trệ và mất ổn định.
Tình hình khu vực Đông Nam Á cũng có những
chuyển biến mới. Sau năm 1975. Mỹ rút quân khỏi Đông Nam Á, khối quân sự SEATO
tan rã; tháng 2 - 1976, các nước ASEAN ký Hiệp
ước thân thiên và hợp tác ở Đông Nam Á (Hiệp ước Bali), mở ra cục diện hoà
bình, hợp tác trong khu vực.
b) Tình hình trong nước
Thuận lơi, Sau khi miền Nam được hoàn toàn
giải phóng, Tổ quốc hoà bình, thống nhất, cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội với
khí thế của một dân tộc vừa giành được thắng lợi vĩ đại. Công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội đã đạt được một số thành tựu quan trọng. Đây là những thuận lợi
rất cơ bản của cám mạng nước ta
Khó khăn: Trong khi nước ta đang phải tập
trung khắc phục hậu quả nặng nề của ba mươi năm chiến tranh, lại phải đối phó
với chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Bên cạnh đó, các thế
lực thù địch sử dụng những thủ đoạn thâm độc chống phá cách mạng Việt Nam. Đại
hội lần thứ V của Đảng (tháng 3 - 1982) nhận định thước ta đang ở trong tình
thế vừa có hoà bình vừa phải đương đầu
với một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt". Ngoài ra, do tư tưởng
chủ quan, nóng vội, muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một thời gian
ngắn, đã dẫn đến những khó khăn về kinh tế - xã hội.
Những thuận lợi, khó khăn từ tình hình thế
giới và trong nước ở giai đoạn này đã ảnh hưởng to lớn đến công cuộc xây dựng,
phát triển đất nước và tác động tới việc hoạch định đường lối đối ngoại của
Đảng.
2.
Nội dung đường 1ối đối ngoại của Đảng
Đại hội lần thứ IV của Đảng (12 - 1976) xác
định nhiệm vụ đối ngoại là "Ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận
lợi để nhanh chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh, xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước ta".
Trong quan hệ với các nước, Đại hội IV chủ
trương củng cố và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với tất
cả các nước xã hội chủ nghĩa; bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào -
Campuchia; sẵn sàng thiết lập phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các
nước trong khu vực; thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường giữa Việt Nam với
tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có
lợi.
Từ giữa năm 1978, Đảng đã điều chỉnh một số
chủ trương, chính sách đối ngoại như: chú trọng củng cố, tăng cường hợp tác về
mọi mặt với Liên Xô - coi quan hệ với Liên Xô là hòn đá tảng trong chính sách
đối ngoại của Việt Nam; nhấn mạnh yêu cầu ra sức bảo vệ mối quan hệ đặc biệt
Việt - Lào trong bối cảnh vấn đề Campuchia đang diễn biến phức tạp; chủ trương
góp phần xây dựng khu vực Đông Nam Á hoà bình, tự do, trung lập và ổn định; đề
ra yêu cầu mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
Đại hội lần thứ V của Đảng xác định: công tác
đối ngoại phải trở thành một mặt trận chủ động, tích cực trong đấu tranh nhằm
làm thất bại chính sách của các thế lực hiếu chiến mưu toan chống phá cách mạng
nước ta.
Về quan hệ với các nước, Đảng ta tiếp tục
nhấn mạnh đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô là nguyên tắc, là chiến
lược và luôn luôn là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; xác
định quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào - Campuchia có ý nghĩa sống còn đối với
vận mệnh của ba dân tộc; kêu gọi các nước ASEAN hãy cùng các nước Đông Dương
đối thoại và thương lượng để giải quyết các trở ngại, nhằm xây dựng Đông Nam Á
thành khu vực hoà bình và ổn định; chủ trương khôi phục quan hệ bình thường với
Trung Quốc trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình; chủ trương thiết
lập và mở rộng quan hệ bình thường về mặt nhà nước, về kinh tế, văn hoá, khoa
học, kỹ thuật với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị.
Thực tế cho thấy, ưu tiên trong chính sách
đối ngoại của Việt Nam giai đoạn (1975 - 1986) là xây dựng quan hệ hợp tác toàn
diện với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa; củng cố và tăng cường đoàn kết
hợp tác với Lào và Campuchia; mở rộng quan hệ hữu nghị với các nước không liên
kết và các nước đang phát triển; đấu tranh với sự bao vây, cấm vận của các thế
lực thù địch.
3.
Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân
a) Kết quả và ý nghĩa
Trong 10 năm trước đổi mới, quan hệ đối ngoại
của Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa được tăng cường, trong đó đặc biệt
là với Liên Xô. Ngày 29 - 6 - 1978, Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ kinh
tế (khối SEV). Viện trợ hàng năm và kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam với Liên
Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác trong khối SEV đều tăng. Ngày 31 - 11 - 1978,
Việt Nam ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác
toàn diện với Liên Xô.
Từ năm 1975 đến năm 1977, nước ta đã thiết
lập thêm quan hệ ngoại giao với 23 nước; ngày 15 - 9 - 1976, Việt Nam tiếp nhận
ghế thành viên chính thức Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF); ngày 21 - 9 - 1976, tiếp
nhận ghế thành viên chính thức Ngân hàng Thế giới (WB); ngày 23 - 9 - 1976, gia
nhập Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB); ngày 20 - 9 - 1977, tiếp nhận ghế thành
viên tại Liên hợp quốc; tham gia tích cực các hoạt động trong Phong trào không
liên kết... Kể từ năm 1977, một số nước tư bản mở quan hệ hợp tác kinh tế với
Việt Nam.
Với các nước khác thuộc khu vực Đông Nam Á:
Cuối năm 1976, Philíppin và Thái Lan là nước cuối cùng trong tổ chức ASEAN
thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Những kết qua đối ngoại trên đây có ý nghĩa
rất quan trọng đối với cách mạng Việt Nam. Sự tăng cường hợp tác toàn diện với
các nước xã hội chủ nghĩa và mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với cả các nước
ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa đã tranh thủ được nguồn viện trợ đáng kể, góp
phần khôi phục đất nước sau chiến tranh; việc trở thành thành viên chính thức
của Quỹ Tiền tệ quốc tế, Ngân hàng Thế giới. Ngân hàng Phát triển Châu Á và
việc trở thành thành viên chính thức của Liên hợp quốc, tham gia tích cực vào
các hoạt động của Phong trào không liên kết, đã tranh thủ được sự ủng hộ, hợp
tác của các nước, các tổ chức quốc tế, đồng thời phát huy được vai trò của nước
ta trên trường quốc tế. Việc thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước còn lại
trong tổ chức ASEAN đã tạo thuận lợi để triển khai các hoạt động đối ngoại
trong giai đoạn sau, nhằm xây dựng Đông Nam Á trở thành khu vực hoà bình, hữu
nghị và hợp tác.
b) Hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả nêu trên, nhìn tổng
quát, từ năm 1975 đến năm 1986, quan hệ quốc tế của Việt Nam gặp những khó khăn
trở ngại lớn. Nước ta bị bao vây, cô lập, trong đó đặc biệt là từ cuối thập kỷ
70 thế kỷ XX, lấy cớ "Sự kiện Campuchia" các nước ASEAN và một số
nước khác thực hiện bao vây, cấm vận Việt Nam...
Nguyên nhân dẫn đến những khó khăn trên, là
do trong quan hệ đối ngoại giai đoạn này chúng ta chưa nắm bắt được xu thế
chuyển từ đối đầu sang hoà hoãn và chạy đua kinh tế trên thế giới. Do đó, đã
không tranh thủ được các nhân tố thuận lợi trong quan hệ quốc tế phục vụ cho
công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh; không kịp thời đổi
mới quan hệ đối ngoại cho phù hợp với tình hình.
Những hạn chế về đối ngoại của Việt Nam giai
đoạn (1975 - 1986) suy cho cùng đều xuất phát từ nguyên nhân cơ bản đã được Đại
hội lần thứ VI của Đảng chỉ ra là "bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ
và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan".
II. ĐƯỜNG
LỐI ĐỐI NGOẠI, HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1.
Hoàn cảnh lịch sử và quá trình hình thành đường lối
a) Hoàn cảnh lịch sử
- Tình hình thế giới
từ giữa thập kỷ 80 thế kỷ XX
Từ giữa những năm 1980, cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ (đặc biệt là công nghệ thông tin) tiếp tục phát triển mạnh mẽ,
tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các quốc gia, dân tộc.
Các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng
sâu sắc. Đến năm 1991, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ dẫn đến những
biến đổi to lớn về quan hệ quốc tế. Trật tự thế giới được hình thành từ sau
Chiến tranh thế giới thứ hai trên cơ sở hai khối đối lập do Liên Xô và Hoa Kỳ
đứng đầu (trật tự thế giới hai cực) tan rã, mở ra thời kỳ hình thành một trật
tự thế giới mới.
Trên phạm vi thế giới, những cuộc chiến tranh
cục bộ, xung đột, tranh chấp vẫn còn, nhưng xu thế chung của thế giới là hoà
bình và hợp tác phát triển.
Các quốc gia, các tổ chức và lực lượng chính
trị quốc tế thực hiện điều chỉnh chiến lược đối nội, đối ngoại và phương thức
hành động cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ bên trong và đặc điểm của thế giới.
Xu thế chạy đua phát triển kinh tế khiến các
nước, nhất là những nước đang phát triển đã đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện
chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế; mở rộng và tăng cường liên
kết, hợp tác với các nước phát triển để tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ, mở
rộng thị trường, học tập kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh.
Các nước đổi mới tư duy về quan niệm sức
mạnh, vị thế quốc gia. Thay thế cách đánh giá cũ, chủ yếu dựa vào sức mạnh quân
sự bằng các tiêu chí tổng hợp, trong đó sức mạnh kinh tế được đặt ở vị trí quan
trọng hàng đầu.
Xu thế toàn cầu hoá
và tác động của nó:
Dưới góc độ kinh tế, toàn cầu hoá là quá trình lực lượng sản xuất và quan hệ
kinh tế quốc tế phát triển vượt qua các rào cản bởi biên giới quốc gia và khu
vực, lan tỏa ra phạm vi toàn cầu. Trong đó hàng hoá, vốn, tiền tệ, thông tin,
lao động... vận động thông thoáng, sự phân công lao động mang tính quốc tế;
quan hệ kinh tế giữa các quốc gia, khu vực đan xen nhau, hình thành mạng lưới
quan hệ đa chiều.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng (tháng 1-2011) nhận định: “Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học –
công nghệ phát triển mạnh mẽ thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và
kinh tế tri thức”. Đại hội XII (tháng 1-2016) nhận định: “Quá trình toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh
và sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước nhất là giữa các nước lớn ngày càng
tăng”.
Những tác động tích
cực của toàn cầu hoá:
trên cơ sở thị trường được mở rộng trao đổi hàng hoá tăng mạnh đã thúc đẩy phát
triển sản xuất của các nước; nguồn vốn, khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý
cùng các hình thức đầu tư, hợp tác khác mang lại lợi ích cho các bên tham gia
hợp tác. Mặt khác, toàn cầu hoá làm tăng tính tuỳ thuộc lẫn nhau, nâng cao sự
hiểu biết giữa các quốc gia, thuận lợi cho việc xây dựng môi trường hoà bình,
hữu nghị và hợp tác giữa các nước.
Những tác động tiêu
cực của toàn cầu hoá:
xuất phát từ việc các nước công nghiệp phát triển thao túng, chi phối quá trình
toàn cầu hoá tạo nên sự bất bình đẳng trong quan hệ quốc tế và làm gia tăng sự
phân cực giữa nước giàu và nước nghèo. Đại hội lần thứ IX của Đảng chỉ rõ:
"Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều
nước tham gia; xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn tư bản
xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có
mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh". Đại hội XI của Đảng nhận
định: “Toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức
biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen
phức tạp”.
Thực tế cho thấy rằng, các nước muốn tránh
khỏi nguy cơ bị biệt lập, tụt hậu, kém phát triển thì phải tích cực, chủ động
tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, đồng thời phải có bản lĩnh cân nhắc một
cách cẩn trọng các yếu tố bất lợi để vượt qua.
Dự báo tình hình thế giới trong những năm tới,
Đại hội XII của Đảng nhận định:
Trên thế giới, trong những năm tới tình hình sẽ
còn nhiều diễn biến rất phức tạp, nhưng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp
tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
tiếp tục được đẩy mạnh. Hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh và sự tùy thuộc lẫn nhau
giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn ngày càng tăng. Cuộc cách mạng khoa
học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin tiếp tục phát triển mạnh mẽ,
thúc đẩy sự phát triển nhảy vọt trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách
thức đối với mọi quốc gia.
Tình hình chính trị - an ninh thế giới thay
đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp, khó lường; tình trạng xâm phạm chủ
quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo,
can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng,... tiếp tục
diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực.
Cục diện thế giới theo xu hướng đa cực, đa
trung tâm diễn ra nhanh hơn. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác,
thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, tác động mạnh đến cục
diện thế giới và các khu vực. Những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan,
chủ nghĩa cường quyền áp đặt, chủ nghĩa thực dụng ngày càng nổi lên trong quan
hệ quốc tế. Các thể chế đa phương đứng trước những thách thức lớn. Các nước
đang phát triển, nhất là những nước vừa và nhỏ đang đứng trước những cơ hội và
khó khăn, thách thức lớn trên con đường phát triển. Trong bối cảnh đó, tập hợp
lực lượng, liên kết, cạnh tranh, đấu tranh giữa các nước trên thế giới và khu
vực vì lợi ích của từng quốc gia tiếp tục diễn ra rất phức tạp.
Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính,
an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu,
thiên tai, dịch bệnh có nhiều diễn biến phức tạp. Cộng đồng quốc tế phải đối
phó ngày càng quyết liệt hơn với các thách thức an ninh truyền thống, phi
truyền thống, đặc biệt là an ninh mạng và các hình thái chiến tranh kiểu mới.
Kinh tế thế giới phục hồi chậm, gặp nhiều khó
khăn, thách thức và còn có nhiều biến động khó lường. Các quốc gia tham gia
ngày càng sâu vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Biến động của giá cả
thế giới, sự bất ổn về tài chính, tiền tệ và vấn đề nợ công tiếp tục gây ra
những hiệu ứng bất lợi đối với nền kinh tế thế giới. Tương quan sức mạnh kinh
tế giữa các quốc gia, khu vực đang có nhiều thay đổi. Hầu hết các nước trên thế
giới đều điều chỉnh chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới thể chế kinh
tế, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ để phát triển. Cạnh tranh kinh tế,
thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, thị trường, công nghệ, nhân lực
chất lượng cao giữa các nước ngày càng gay gắt. Xuất hiện nhiều hình thức liên
kết kinh tế mới, các định chế tài chính quốc tế, khu vực, các hiệp định kinh tế
song phương, đa phương thế hệ mới.
Tình hình khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương từ những năm 1990, có nhiều chuyển biến mới: Trước hết, trong khu vực tuy vẫn tồn tại những bất ổn, như vấn đề
hạt nhân, vấn đề tranh chấp lãnh hải thuộc vùng biển Đông và việc một số nước
trong khu vực tăng cường vũ trang, nhưng Châu Á - Thái Bình Dương vẫn được đánh
giá là khu vực ổn định; hai là Châu Á - Thái Bình Dương có tiềm lực lớn và năng
động về phát triển kinh tế. Xu thế hoà bình và hợp tác trong khu vực phát triển
mạnh.
Châu Á - Thái Bình
Dương trong đó có khu vực Đông Nam Á, tiếp tục
là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa kinh tế - chính trị chiến lược
ngày càng quan trọng trên thế giới. Đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh tranh
chiến lược giữa một số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn. Tranh chấp lãnh thổ,
chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông tiếp tục diễn ra gay gắt,
phức tạp. ASEAN trở thành cộng đồng, tiếp tục phát huy vai trò quan trọng trong
duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác, liên kết kinh tế trong khu vực,
nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức cả bên trong và bên ngoài”.
Yêu cầu nhiệm vụ của
cách mạng Việt Nam:
Sự bao vây, chống phá của các thế lực thù địch
đối với Việt Nam từ nửa cuối thập kỷ 1970 thế kỷ XX tạo nên tình trạng căng
thẳng, mất ổn định trong khu vực và gây khó khăn cản trở cho sự phát triển của
cách mạng Việt Nam, là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng
kinh tế - xã hội nghiêm trọng ở nước ta. Vì vậy, vấn đề giải toả tình trạng đối
đầu, thù địch, phá thế bị bao vây, cấm vận tiến tới bình thường hoá và mở rộng
quan hệ hợp tác với các nước, tạo môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung xây
dựng kinh tế là nhu cầu cần thiết và cấp bách đối với nước ta.
Mặt khác, do hậu quả nặng nề của chiến tranh
và các khuyết điểm chủ quan, nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng nghiêm
trọng. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và
trên thế giới là một trong những thách thức lớn đối với cách mạng Việt Nam. Vì
vậy, nhu cầu chống tụt hậu về kinh tế đặt ra gay gắt. Để thu hẹp khoảng cách phát
triển giữa nước ta với các quốc gia khác, ngoài việc phát huy tối đa các nguồn
lực trong nước, cần phải tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, trong đó việc mở
rộng và tăng cường hợp tác kinh tế với các nước và tham gia vào cơ chế hợp tác
đa phương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Những đặc điểm, xu thế quốc tế và yêu cầu,
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam nêu trên là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam xác
định quan điểm và hoạch định chủ trương, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới.
b) Các giai đoạn hình thành, phát
triển đường lối
Giai đoạn 1986 - 1996. Xác lập đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng (tháng 12 - 1986), trên cơ sở nhận thức đặc điểm nối bật của thế giới là
cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ, đẩy nhanh quá trình
quốc tế hoá lực lượng sản xuất. Đảng ta nhận định: "xu thế mở rộng phân
công, hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế - xã hội khác
nhau, cũng là những điều kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội của nước ta". Từ đó, Đảng chủ trương phải biết kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới và đề ra yêu cầu mở rộng
quan hệ hợp tác kinh tế với các nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa, với các
nước cộng nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên
nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi.
Triển khai chủ trương của Đảng, tháng 12 - 1987,
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành. Đây là lần đầu tiên Nhà nước
ta tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
- mở cửa để thu hút nguồn vốn, thiết bị và kinh nghiệm tố chức quản lý sản
xuất. kinh doanh phục vụ công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
Tháng 5 - 1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số
13 về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại
trong tình hình mới, khẳng định mục tiêu chiến lược và lợi ích cao nhất của
Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hoà bình đề tập trung sức xây
dựng và phát triển kinh tế. Bộ Chính trị đề ra chủ trương kiên quyết chủ động chuyển
cuộc đấu tranh từ tình trạng đối đầu sang đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn
tại hoà bình; lợi dụng sự phát triển của cách mạng khoa học - kỹ thuật và xu
thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới để tranh thủ vị trí có lợi nhất trong
phân công lao động quốc tế; kiên quyết mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, ra sức
đa dạng hoá quan hệ đối ngoại.
Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị đánh dấu sự
đổi mới tư duy quan hệ quốc tế và chuyển
hướng toàn bộ chiến lược đối ngoại của Đảng ta. Sự chuyển hướng này đã đặt
nền móng hình thành đường lối đối ngoại độc lập tư chủ, rộng mở đa dạnghoá, đa
phương hoá quan hệ quốc tế.
Trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, từ năm 1989,
Đảng chủ trương xoá bỏ tình trạng độc quyền trong sản xuất và kinh doanh xuất
nhập khẩu. So với chủ trương của Đại hội V "Nhà nước độc quyền ngoại
thương và Trung ương thống nhất quản lý công tác ngoại thương", thì đây là
bước đồi mới đầu tiên trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại của Việt Nam. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6 - 1991) đề ra chủ trương "hợp
tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính
trị - xã hội khác nhau, trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình"
với phương châm "Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong công đồng
thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển".
Đại hội VII đã đổi mới chính sách đối ngoại
với các đối tác cụ thể với Lào và Campuchia, thực hiện đổi mới phương thức hợp
tác, chú trọng hiệu quả trên tinh thần bình đẳng. Với Trung Quốc, Đảng chủ
trương thúc đẩy bình thường hoá quan hệ, từng bước mở rộng hợp tác Việt -
Trung. Trong quan hệ với khu vực, chủ trương phát triển quan hệ hữu nghị với
các nước Đông Nam Á và Châu Á - Thái Bình Dương, phấn đấu cho một Đông Nam Á
hoà bình, hữu nghị và hợp tác. Đối với Hoa Kỳ, Đại hội nhấn mạnh yêu cầu thúc
đẩy quá trình bình thường hoá quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ.
Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội lần thứ VII của Đảng thông qua,
đã xác định quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế
giới là một trong những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng.
Các Hội nghị Trung ương (khoá VII) tiếp tục
cụ thể hoá quan điểm của Đại hội VII về lĩnh vực đối ngoại. Trong đó, Hội nghị
lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá VII (tháng 6 - 1992) nhấn mạnh yêu cầu
đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế. Mở rộng cửa để tiếp thu vốn, công
nghệ, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài, tiếp cận thị trường thế giới, trên cơ
sở bảo đảm an ninh quốc gia, bảo vệ tài nguyên, môi trường, hạn chế đến mức tối
thiểu những mặt tiêu cực phát sinh trong quá trình mở cửa.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ
khoá VII (tháng 1 -1994) chủ trương triển khai mạnh mẽ và đồng bộ đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, rộng mở đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ đối ngoại,
trên cơ sở tư tưởng chỉ đạo là: giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và chủ
nghĩa xã hội đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt phù hợp với vị
trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam cũng như diễn biến của tình
hình thế giới và khu vực phù hợp với đặc điểm từng đối tượng.
Như vậy, quan điểm, chủ trương đối ngoại rộng
mở được đề ra từ Đại hội Đảng lần thứ VI, sau đó được các Nghị quyết Trung ương
từ khoá VI đến khoá VII phát triển đã hình thành đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế.
Giai đoạn 1996 - 2011: Bổ sung và phát triển
đường lối đối ngoại theo phương thâm chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế
Đại hội lần thứ VIII của Đảng (tháng 6 - 1996)
khẳng định tiếp tục mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt với các nước,
các trung tâm kinh tế, chính trị khu vực và quốc tế. Đồng thời chủ trương xây
dựng nền kinh tế mở "và đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới".
Đại hội VIII xác định rõ hơn quan điểm đối
ngoại với các nhóm đối tác như: ra sức tăng cường quan hệ với các nước láng
giềng và các nước trong tổ chức ASEAN; không ngừng củng cố quan hệ với các nước
bạn bè truyền thống; coi trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm
kinh tế - chính trị thế giới; đoàn kết với các nước đang phát triển, với Phong
trào không liên kết; tham gia tích cực và đóng góp cho hoạt động của các tổ
chức quốc tế, các diễn đàn quốc tế.
So với Đại hội VII, chủ trương đối ngoại của
Đại hội VIII có các điểm mới: một là: chủ trương mở rộng quan hệ với các đảng
cầm quyền và các đảng khác; hai là: quán triệt yêu cầu mở rộng quan hệ đối
ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ; ba là: lần đầu tiên,
trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Đảng đưa ra chủ trương thử nghiệm để tiến tới
thực hiện đầu tư ra nước ngoài.
Cụ thể hoá quan điểm của Đại hội VIII, Nghị
quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương, khoá VIII (tháng 12 - 1997),
chỉ rõ: trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách
thu hút các nguồn lực bên ngoài: Nghị quyết đề ra chủ trương tiến hành khẩn
trương, vững chắc việc đàm phán hiệp định Thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và
WTO.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
(tháng 4 - 2001), Đảng nhấn mạnh chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực. Lần đầu tiên, Đảng nêu rõ
quan điểm về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm
lực kinh tế đủ mạnh. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải đi đôi với chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại,
kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp phát triển đất
nước".
Cảm nhận đầy đủ "lực" và
"thế" của đất nước sau 15 năm đổi mới, Đại hội IX đã phát triển phương
châm của Đại hội VII là: "Việt Nam muốn
là bạn với các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập
và phát triển" thành "Việt Nam sẵn
sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn
đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển", chủ trương Xây dựng quan hệ đối
tác được đề ra ở Đại hội IX đánh dấu bước phát triển về chất tiến trình quan hệ
quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Tháng 11 - 2001, Bộ Chính trị ra Nghị quyết
07 về hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị
quyết đề ra 9 nhiệm vụ cụ thể và 6 biện pháp tổ chức thực hiện quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế. Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khoá IX
(ngày 5 - 1 - 2004) nhấn mạnh yêu cầu chuẩn bị tốt các điều kiện trong nước để
sớm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO); kiên quyết đấu tranh với mọi
biểu hiện của các lợi ích cục bộ làm kìm hãm tiến trình hội nhập kinh tế quốc
tế.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
(tháng 4 - 2006). Đảng nêu quan điểm: thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại
độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở,
đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Đồng thời đề ra chủ trương
"chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế".
Chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế
là hoàn toàn chủ động quyết định đường lối, chính sách hội nhập kinh tế quốc
tế, không để rơi vào thế bị động; phân tích lựa chọn phương thức hội nhập đúng,
dự báo được những tình huống thuận lợi và khó khăn khi hội nhập kinh tế quốc
tế.
Tích cực hội nhập
tinh tế quốc tế
là khẩn trương chuẩn bị, điều chỉnh, đổi mới bên trong, từ phương thức lãnh
đạo, quản lý đến hoạt động thực tiễn; từ trung ương đến địa phương, doanh
nghiệp; khẩn trương xây dựng lộ trình, kế hoạch, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật,
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế, tích cực, nhưng
phải thận trọng, vững chắc.
Đại hội XI (1-2011) nhận định: “
Đại hội XII tiếp tục khẳng định: “
2.
Nội dung đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế
a) Mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng
chỉ đạo
Trong các văn kiện liên quan đến lĩnh vực đối
ngoại, Đảng ta đều chỉ rõ cơ hội và thách thức của việc mở rộng quan hệ hợp tác
quốc tế, trên cơ sở đó Đảng xác định mục tiêu nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo công
tác đối ngoại.
- Cơ hội và thách thức.
Về cơ hội, xu thế hòa bình, hợp tác phát
triển và xu thế toàn cầu hoá kinh tế tạo thuận lợi cho nước ta mở rộng quan hệ
đối ngoại, hợp tác phát triển kinh tế. Mặt khác, thắng lợi của sự nghiệp đổi
mới đã nâng cao thế và lực của nước ta trên trường quốc tế, tạo tiền đề mới cho
quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế.
Về thách thức: Những vấn đề toàn cầu như phân
hoá giàu nghèo, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia... gây tác động bất lợi đối
với nước ta.
Nền kinh tế Việt Nam phải chịu sức ép cạnh
tranh gay gắt trên cả ba cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia; những biến
động trên thị trường quốc tế sẽ tác động nhanh và mạnh hơn đến thị trường trong
nước, tiềm ẩn nguy cơ gây rối loạn, thậm chí khủng hoảng kinh tế - tài chính.
Ngoài ra, lợi dụng toàn cầu hoá, các thế lực
thù địch sử dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền" chống phá chế độ chính
trị và sự ổn định, phát triển của nước ta.
Những cơ hội và thách thức nêu trên có mối
quan hệ/ tác động qua lại. có thể chuyển hoá lẫn nhau. Cơ hội không tự phát huy
tác dụng mà tuỳ thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội. Tận dụng tốt cơ hội sẽ tạo
thế và lực mới để vượt qua thách thức, tạo ra cơ hội lớn hơn. Ngược lại, nếu
không nắm bắt, tận dụng thì cơ hội có thể bị bỏ lỡ, thách thức sẽ tăng lên, lấn
át cơ hội, cản trở sự phát triển. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng tác
động đến đâu còn tuỳ thuộc vào khả năng và nỗ lực của chúng ta. Nếu tích cực
chuẩn bị, có biện pháp đối phó hiệu quả, vươn lên nhanh trước sức ép của các
thách thức thì không những sẽ vượt qua được thách thức, mà còn có thể biến
thách thức thành động lực phát triển.
- Mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại.
Lấy việc giữ vững môi trường hoà bình, ổn
định; tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, để phát triển
kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc. Mở rộng đối ngoại và hội nhập
kinh tế quốc tế là để tạo thêm nguồn lực đáp ứng yêu cầu phát triển của đất
nước; kết hợp nội lực với các nguồn lực từ bên ngoài tạo thành nguồn lực tổng hợp
để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh; phát huy vai trò và nâng cao vị thế của Việt
Nam trong quan hệ quốc tế; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân
dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Tư tưởng chỉ đạo.
Trong quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế
quốc tế phải quán triệt đầy đủ, sâu sắc các quan điểm:
Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây
dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời thực
hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng của Việt Nam.
Giữ vững độc lập tự chủ, tự cường đi đôi với
đẩy mạnh đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại.
Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong
quan hệ quốc tế; cố gắng thúc đẩy mặt hợp tác, nhưng vẫn phải đấu tranh dưới
hình thức và mức độ thích hợp với từng đối tác; đấu tranh để hợp tác; tránh
trực diện đối đầu, tránh để bị đẩy vào thế cô lập
Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh
thổ trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị xã hội. Coi trọng quan hệ
hoà bình, hợp tác với khu vực; chủ động tham gia các tổ chức đa phương, khu vực
và toàn cầu.
Kết hợp đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà
nước và đối ngoại nhân dân. Xác định hội nhập kinh tế quốc tế là công việc của
toàn dân.
Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế - xã hội;
giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc; bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế.
Phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài; xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ; tạo ra và sử dụng có hiệu quả các lợi thế so sánh của đất nước trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Trên cơ sở thực hiện các cam kết gia nhập
WTO, đẩy nhanh nhịp độ cải cách thể chế, cơ chế, chính sách kinh tế phù hợp với
chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước.
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng,
đồng thời phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh khối
đại đoàn kết toàn dân trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
b) Một số chủ
trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế
Trong các văn kiện của Đảng liên quan đến đối
ngoại, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khoá X (tháng 2 - 2007) đã
đề ra một số chủ trương, chính sách lớn như:
- Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập
đi vào chiều sâu ổn định, bền vững. Hội nhập sâu sắc và đầy đủ vào nền kinh tế
thế giới, nước ta sẽ có địa vị bình đẳng với các thành viên khác khi tham gia
vào việc hoạch định chính sinh thương mại toàn cầu, thiết lập một trật tự kinh
tế mới công bằng hơn; có điều kiện thuận lợi để đấu tranh bảo vệ quyền lợi
doanh nghiệp Việt Nam trong các cuộc tranh chấp thương mại với các nước khác,
hạn chế được những thiệt hại trong hội nhập kinh tế quốc tế.
- Chủ đông và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế theo lộ trình phù hợp. Chủ động và tích cực xác định lộ trình hội nhập hợp
lý, trong đó cần tận dụng các ưu đãi mà WTO dành cho các nước đang phát triển
và kém phát triển; chủ động và tích cực nhưng phải hội nhập từng bước, dần dần
mở cửa thị trường theo một lộ trình hợp lý.
- Bổ sung và hoàn thiên hệ thống pháp luật và
thể chế kinh tếphù hợp với các nguyên tắc, quy định của WTO. Bảo đảm tính đồng
bộ của hệ thống pháp luật, đa dạng hoá các hình thức sở hữu, phát triển kinh tế
nhiều thành phần; thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện
các loại thị trường; xây dựng các sắc thuế công bằng, thống nhất, đơn giản,
thuận tiện cho mọi chủ thể kinh doanh.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu
quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước. Kiên quyết loại bỏ nhanh các thủ tục hành
thính không còn phù hợp; đẩy mạnh phân cấp gắn với tăng cường trách nhiệm và
kiểm tra, giám sát; thực hiện công khai, minh bạch mọi chính sách, cơ thế quản
lý.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia,
doanh nghiệp và sản phẩm trong hội nhập kinh tế quốc tế.Nâng cao năng lực điều
hành của Chính phủ; tích cực thu hút đầu tư nước ngoài để nâng cao sức cạnh
tranh của nền kinh tế; các doanh nghiệp điều chỉnh quy mô và cơ cấu sản xuất
trên cơ sở xác định đúng đắn chiến lược sản phẩm và thị trường; điều chỉnh quy
hoạch phát triển, nhanh chóng có biện pháp nâng cao sức cạnh tranh của một số
sản phẩm.
- Giải quyết tốt các vần đề văn hoá xã hội và
môi trường trong quá trình hội nhập: Bảo vệ và phát huy các giá trị văn hoá dân
tộc trong quá trình hội nhập; xây dựng cơ chế kiểm soát và chế tài xử lý sự xâm
nhập của các sản phẩm và dịch vụ văn hoá không lành mạnh, gây phương hại đến sự
phát triển đất nước, văn hoá và con người Việt Nam; kết hợp hài hoà giữa giữ
gìn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống với tiếp thu có chọn lọc các
giá trị văn hoá tiên tiến trong quá trình giao lưu với các nền văn hoá bên
ngoài.
- Xây dựng và vận hành có hiệu quả mạng lưới
an sinh xã hội như giáo dục, bảo hiểm, y tế; đẩy mạnh công tác xoá đói, giảm
nghèo; có các biện pháp cấm, hạn thế nhập khẩu những mặt hàng có hại cho môi
trường, tăng cường hợp tác quốc tế trên lĩnh vực bảo vệ môi trường.
- Giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh
trong quá trình hội nhập: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân
vững mạnh; có các phương án chống lại âm mưu "diễn biến hoà bình" của
các thế lực thù địch.
- Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của
Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. chính tri đối ngoại và kinh tế
đối ngoại. Tạo cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động đối ngoại của Đảng,
ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân nhằm tăng cường hiệu quả của hoạt
động đối ngoại. Các hoạt động đối ngoại song phương và đa phương cần hướng mạnh
vào việc phục vụ đắc lực nhiệm vụ mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế. Tích cực tham gia đấu tranh vì một hệ thống quan hệ
kinh tế quốc tế bình đẳng, công bằng, cùng có lợi.
- Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng,
sự quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại. Tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng, tập trung xây dựng cơ sở đảng trong các doanh nghiệp và xây dựng giai
cấp công nhân trong điều kiện mới; đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, trọng tâm là cải cách hành chính.
3. Thành tựu, ý
nghĩa, hạn chế và nguyên nhân
a) Thành tựu và ý nghĩa
Hơn 20 năm thực hiện đường lối mở rộng quan
hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta đã đạt được những kết quả:
Một là, phá thế bao vây, cấm vận của các
thế lực thù địch, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi tho sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Việc tham gia ký Hiệp định Pari (ngày 23 - 10
- 1991) về một giải pháp toàn diện cho vấn đề Campuchia, đã mở ra tiền đề để
Việt Nam thúc đẩy quan hệ với khu vực và cộng đồng quốc tế.
Việt Nam đã bình thường hoá quan hệ với Trung
Quốc (ngày 10 - 11 - 1991); tháng 11 - 1992 Chính phủ Nhật Bản quyết định nối
lại viện trợ ODA cho Việt Nam; bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ (ngày 11 - 7
- 1995).
Tháng 7 - 1995 Việt Nam gia nhập ASEAN. đánh
dấu sự hội nhập của nước ta với khu vực Đông Nam Á.
Hai là giải quyết hoà bình các vấn đề biên giới, lãnh
thổ, biển đảo với các nước liên quan.
Đã đàm phán thành công với Malaixia về giải
pháp "gác tranh chấp, cùng khai thác" ở vùng biển chồng lấn giữa hai
nước. Thu hẹp diện tranh chấp vùng biển giữa ta và các nước ASEAN. Đã ký với
Trung Quốc: Hiệp ước về phân định biên giới trên bộ, Hiệp định phân định Vịnh
Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác về nghề cá.
Ba là, mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng
đa phương hoá, đa dạng hoá.
Lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam có quan
hệ chính thức với tất cả các nước lớn, kể cả 5 nước Uỷ viên Thường trực Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc; tất cả các nước lớn đều coi trọng vai trò của việt
Nam ở Đông Nam Á. Đã ký Hiệp định chung về hợp tác với EU (năm 1995); năm 1999
ký thoả thuận với Trung Quốc khung khổ quan hệ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác
toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai"; tháng 5 - 2008 thiết lập
quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc; ngày 13 - 7
- 2001, ký kết Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ, tuyên bố về
quan hệ đối tác chiến lược với Nga (năm 2001); khung khổ quan hệ đối tác tin
cậy và ổn định lâu dài với Nhật Bản (năm 2002).
Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với
169 nước trong tổng số hơn 200 nước trên thế giới.
Tháng 10 - 2007, Đại hội đồng Liên hợp quốc
đã bầu Việt Nam làm uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2008 - 2009.
Bốn là, tham gia các tổ chức kinh tế
quốc tế.
Năm 1993, Việt Nam khai thông quan hệ với các
tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như: Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế
giới (WB). Ngân hàng Phát triển Châu(ADB); sau khi gia nhập ASEAN (tháng 7 - 1995)
Việt Nam đã tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); tháng 3 - 1996. tham
gia Diễn đàn hợp tác Á - ÂU (ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập; tháng 11
- 1998, gia nhập tổ chức Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương
(APEC); ngày 11 - 1 - 2007, Việt Nam được kết nạp làm thành viên thứ 150 của Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO).
Năm là, thu hút đầu tư nước ngoài, mở
rộng thị trường, tiếp thu khoa học công nghệ và kỹ năng quản lý.
Về mở rộng thị trường: Nước ta đã tạo dựng
được quan hệ kinh tế thương mại với trên 180 quốc gia và vùng lãnh thổ trong đó
có 74 nước áp dụng quy chế tối huệ quốc; thiết lập và ký kết hiệp định thương
mại hai chiều với gần 90 nước và vùng lãnh thổ. Nếu năm 1986 kim ngạch xuất
khẩu chỉ đạt 789 triệu USD, đến năm 2007 đạt 48 tỷ USD; năm 2008 đạt khoảng
62,9 tỷ USD.
Việt Nam đã thú hút được khối lượng lớn đầu
tư nước ngoài. Năm 2007, thu hút đầu lư nước ngoài của Việt Nam đạt 20,3 tỷ
USD; năm 2008 đạt khoảng 65 tỷ USD.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo cơ hội để
nước ta tiếp cận những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên
thế giới. Nhiều công nghệ hiện đại, dây chuyền sản xét tiên tiến được sử dụng
đã tạo nên bước phát triển mới trong các ngành sản xuất. Đồng thời, thông qua
các dự án liên doanh hợp tác với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp
nhận được nhiều kinh nghiệm quản lý sản xuất hiện đại.
Sáu là, từng bước đưa hoạt động của các
doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh.
Trong quá trình hội nhập, nhiều doanh nghiệp
đã đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, nâng cao năng suất và chất lượng, không
ngừng vươn lên trong cạnh tranh để ton tại và phát triển.
Tư duy làm ăn mới, lấy hiệu quả sản xuất kinh
doanh làm thước đo và đội ngũ các nhà doanh nghiệp mới năng động, sáng tạo có
kiến thức quản lý đang hình thành. Những kết quả trên đây có ý nghĩa rất quan
trọng: đã tranh thủ được các nguồn lực bên ngoài kết hợp với các nguồn lực
trong nước hình thành sức mạnh tổng hợp góp phần đưa đến những thành tựu kinh
tế to lớn. Góp phần giữ vững và củng cố độc lập, tự chủ, định hướng xã hội thủ
nghĩa; giữ vững an ninh quốc gia và bản sắc văn hoá dân tộc; nâng cao vị thế và
phát huy vai trò nước ta trên trường quốc tế.
b) Hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình
thực hiện đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế cũng bộc lộ những hạn
chế:
Trong quan hệ với các nước, nhất là các nước
lớn, chúng ta còn lúng túng, bị động. Chưa xây dựng được quan hệ lợi ích đan
xen, tuỳ thuộc lẫn nhau với các nước.
Một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm
được đổi mới so với yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế;
hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh, không đồng bộ, gây khó khăn trong việc thực
hiện các cam kết của các tổ chức kinh tế quốc tế.
Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và
dài hạn về hội nhập kinh tế quốc tế và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện
các cam kết.
Doanh nghiệp nước ta hầu hết quy mô nhỏ, yếu
kém cả về quản lý và công nghệ. Trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, trình độ
trang thiết bị lạc hậu; kết cấu hạ tầng và các ngành dịch vụ cơ bản phục vụ sản
xuất kinh doanh đều kém phát triển và có chi phí cao hơn các nước khác trong
khu vực.
Đội ngũ cán bộ lĩnh vực đối ngoại nhìn chung
chưa đáp ứng được nhu cầu cả về số lượng và chất lượng, cán bộ doanh nghiệp ít
hiệu biết về luật pháp quốc tế, về kỹ thuật kinh doanh.
Quá trình thực hiện đường lối đối ngoại, hội
nhập kinh tế quốc tế từ năm 1986 đến năm 2008, mặc dù còn những hạn chế, nhưng
thành tựu là cơ bản, có ý nghĩa rất quan trọng: góp phần đưa đất nước ra khỏi
khủng hoảng kinh tế xã hội, nền kinh tế Việt Nam có bước phát triển mới; thế và
lực của Việt Nam được nâng cao trên thương trường và chính trường quốc tế. Các
thành tựu đối ngoại trong hơn 20 năm qua đã chứng minh đường lối đối ngoại, hội
nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đồi mới là đúng đắn và
sáng tạo.
MỤC
LỤC
Chú dẫn của và xuất bản
Lời nói đầu
Chương mở đầu
ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
I – ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN
CỨU
II - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ Ý
NGHĨA CỦA VIỆC HỌC TẬP MÔN HỌC
Chương 1
SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
I - HOÀN CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
II – HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG VÀ
CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
Chương 2
ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930 - 1945)
ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930 - 1945)
I – CHỦ TRƯƠNG ĐẤU TRANH TỪ NĂM
1930 ĐẾN NĂM 1939
II – CHỦ TRƯƠNG ĐẤU TRANH TỪ NĂM
1939 ĐẾN NĂM 1945
Chương 3
ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1945 - 1975)
ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1945 - 1975)
I – ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG, BẢO VỆ
CHÍNH QUYỀN VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 - 1954)
II – ĐƯỜNG LỐI
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC, THỐNG NHẤT TỔ QUỐC (1954 - 1975)
Chương 4
ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HOÁ
ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HOÁ
I - CÔNG NGHIỆP HÓA THỜI KỲ TRƯỚC
ĐỔI MỚI
II - CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Chương 5
ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
I - QUÁ TRÌNH
ĐỔI MỚI NHẬN THỨC VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
II – TIẾP TỤC
HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNHHƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA
Chương 6
ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
I – ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ THỜI KỲ TRƯỚC ĐỔI MỚI (1945 - 1989)
II – ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Chương 7
ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN NÊN VĂN HOÁ VÀ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ
ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN NÊN VĂN HOÁ VÀ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ
I - QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ NỘI
DUNG ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HOÁ
II - QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ CHỦ TRƯƠNG
GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI
Chương 8
ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI
ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI
I – ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI THỜI KỲ TỪ
NĂM 1975 ĐẾN NĂM 1986
II – ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI, HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ THỜI KỲ ĐỔI MỚI
---//---
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
GIÁO TRÌNH
ĐƯỜI LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia
ĐƯỜI LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia
Chịu trách nhiệm nội dung:
TS. HOÀNG PHONG HÀ
TS. HOÀNG PHONG HÀ
In xong và nộp lưu chiểu tháng 4 năm 2016.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét