TÀI LIỆU
GIỚI THIỆU, QUÁN TRIỆT,
TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN
NỘI DUNG CƠ BẢN CÁC
NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ LẦN THỨ NĂM BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG KHÓA XII
---
A- Phần I: Khái quát
về Hội nghị Trung ương 5 khóa XII
Thực
hiện chương trình làm việc toàn khóa, từ ngày 5 đến ngày 10/5/2017, tại Thủ đô
Hà Nội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã họp Hội nghị lần thứ năm để
thảo luận, thông qua Nghị quyết Hội nghị gồm ba nghị quyết chuyên đề và một số
nội dung quan trọng sau:
- Thứ nhất, Nghị quyết số
10-NQ/TW ngày 03/6/2017 về phát triển kinh tế tư nhân trở
thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
- Thứ hai, Nghị quyết số
11-NQ/TW ngày 03/6/2017 về hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Thứ ba, Nghị quyết số 12-NQ/TW
ngày 03/6/2017 về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh
nghiệp nhà nước.
Ngoài 03
Nghị quyết nêu trên, tại Hội nghị này, Ban Chấp hành Trung ương đã bàn và thông
qua Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm
2016 gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; xem xét thi hành kỷ luật cán bộ và một số vấn đề quan trọng khác.
B- Phần II: Nội dung, quan điểm cơ bản của Đảng
trong các nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII
(Trong
quá trình truyền đạt, giới thiệu, tuyên truyền, phổ biến Nghị quyết, cùng với những
nội dung cơ bản, cốt lõi của Nghị quyết, báo cáo viên cần nghiên cứu kỹ các chỉ
thị, nghị quyết đã ban hành; đồng thời, gắn với Nghị quyết Đại hội XVIII Đảng bộ
tỉnh và các chương trình, đề án của tỉnh, nghị quyết đại hội đảng các cấp; tình
hình thực tiễn của địa phương, đơn vị, ngành mình những vấn đề có liên quan đến
Nghị quyết).
I- Nghị quyết số
10-NQ/TW ngày 03/6/2017 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực
quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Sự cần thiết ban
hành Nghị quyết
Trong
hơn 30 năm đổi mới và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, Đảng ta luôn quan tâm phát triển và coi trọng các thành phần kinh tế,
trong đó có kinh tế tư nhân, bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc
dân. Để phát triển kinh tế tư nhân, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 14-NQ/TW ngày 18-3-2002 “Về tiếp tục
đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư
nhân” (sau đây viết tắt là Nghị quyết số 14-NQ/TW). Qua 15 năm thực hiện, Nghị
quyết số 14-NQ/TW đã góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển
nhanh và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế, đồng thời góp phần
hình thành, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để phát
huy hơn nữa vai trò của kinh tế tư nhân, trên cơ sở tổng kết Nghị quyết số
14-NQ/TW, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã ban hành
Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3-6-2017 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một
động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cấu
trúc của Nghị quyết gồm 4 phần chính sau:
- Tình hình và nguyên nhân.
- Quan điểm chỉ đạo và mục tiêu.
- Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu.
- Tổ chức thực hiện.
1- Tình hình và
nguyên nhân
Ban Chấp hành Trung
ương nhận định:
Sau hơn 30 năm đổi mới, nhận thức của chúng ta về vị trí, vai trò của kinh tế
tư nhân đã có những bước tiến quan trọng. Từ chỗ coi nhẹ đã thừa nhận kinh tế
tư nhân “là một trong những động lực” và đến nay “là một động lực quan trọng” để
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 15 năm
qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành và lãnh đạo tổ chức thực hiện nhiều chủ
trương, chính sách, biện pháp quan trọng về khuyến khích và tạo điều kiện để
kinh tế tư nhân phát triển. Vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày càng được nhận
thức rõ hơn và đánh giá đúng hơn.
Kinh tế tư nhân ngày càng phát triển, đóng
góp lớn hơn trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất
kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, cơ cấu lại nền kinh tế, tăng thu ngân sách nhà
nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội, giải
quyết các vấn đề xã hội. Tỉ trọng trong GDP của khu vực kinh tế tư nhân, bao gồm
cả kinh tế cá thể duy trì ổn định khoảng 39 - 40%. Trong giai đoạn 3003 - 2015,
tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của kinh tế tư nhân là 10,2%/năm; thu hút khoảng
85% lực lượng lao động của nền kinh tế, năm 2015, doanh nghiệp tư nhân thu hút
7.476 nghìn lao động, tăng hơn 2 lần so với năm 2002.
Bước đầu đã hình thành được một số tập đoàn
kinh tế tư nhân có quy mô lớn, hoạt động đa ngành, có khả năng cạnh tranh tốt
hơn trên thị trường trong nước và quốc tế; đội ngũ doanh nhân ngày càng lớn mạnh,
từng bước nâng cao trách nhiệm đối với người lao động, cộng đồng, xã hội và đạo
đức, văn hoá trong kinh doanh.
Phương thức quản lý của Nhà nước đối với kinh
tế tư nhân ngày càng phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Vai trò lãnh đạo của Đảng,
hoạt động giám sát phản biện, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người lao động và
người sử dụng lao động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị -
xã hội các cấp đối với khu vực kinh tế tư nhân được nâng lên. Các hiệp hội
ngành nghề thực hiện ngày càng tốt hơn vai trò cầu nối giữa cộng đồng doanh
nhân, doanh nghiệp với các cấp quản lý nhà nước; giúp doanh nghiệp nắm bắt kịp thới
các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thúc đẩy sản xuất
kinh doanh, ứng dụng khoa học - công nghệ và phát triển thị trường.
Số lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên
trong các doanh nghiệp tăng lên qua từng năm. Tính đến ngày 30/6/2015, có
10.188 tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước (chủ yếu
doanh nghiệp tư nhân), chiếm 1,74% tổng số doanh nghiệp, với trên 134 nghìn đảng
viên, trong đó khoảng 2.300 đảng viên là chủ doanh nghiệp của tư nhân (trong thời
gian thí điểm, từ tháng 1/2013 - 3/2016 đã kết nạp được 415 chủ doanh nghiệp tư
nhân vào Đảng.
Tuy nhiên, kinh tế
tư nhân cũng đã bộc lộ một số những hạn chế, yếu kém chủ yếu sau: Tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư
nhân có xu hướng giảm trong những năm gần đây. Xuất phát điểm phát triển và
năng lực nội tại của kinh tế tư nhân nhìn chung còn thấp; chủ yếu vẫn là kinh tế
hộ, cá thể. Phần lớn doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ, trình độ công nghệ thấp
và chậm đổi mới; trình độ quản trị, năng lực tài chính, năng suất lao động, hiệu
quả kinh doanh, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh còn yếu kém; chủ yếu tham
gia ở phân khúc thị trường có giá trị gia tăng thấp. Tình trạng vi phạm pháp luật,
gian lận thượng mại, trốn thuế, nợ thuế, cạnh tranh không lành mạnh, gây ô nhiễm
môi trường, không bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm, không quan tâm bảo đảm lợi
ích của người lao động... diễn biến phức tạp, có nơi, có lúc rất nghiêm trọng.
Khuôn khổ pháp lý và các cơ chế, chính sách khuyến khích kinh tế tư nhân phát
triển còn chưa đồng bộ và bất cập. Nhiều quy định của pháp luật, cơ chế, chính sách
chưa được thực hiện nghiêm.
Những hạn chế, yếu
kém nêu trên có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ yếu là: Chưa có sự thống nhất cao về lý
luận và nhận thức đối với phát triển kinh tế tư nhân; thể chế về phát triển
doanh nghiệp, doanh nhân còn nhiều bất cập. Chưa tạo được bước đột phá trong đổi
mới, hoàn thiện thể chế kinh tế tư nhân và cải thiện môi trường đầu tư, kinh
doanh. Hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước còn nhiều hạn chế. Việc thực hiện
nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về phát triển
kinh tế tư nhân đạt hiệu quả chưa cao và còn chưa nghiêm túc. Xuất phát điểm
phát triển và năng lực nội tại của kinh tế tư nhân thấp.
2- Quan điểm, định
hướng chỉ đạo và mục tiêu
2.1- Quan điểm, định hướng chỉ đạo
Gồm 6 quan điểm, cụ thể:
Thứ nhất, phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh
theo cơ chế thị trường là một yêu cầu khách quan, vừa cấp thiết, vừa lâu dài
trong quá trình hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta; là một phương sách quan trọng để giải phóng sức sản
xuất; huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển.
Thứ hai, kinh tế tư nhân là một động lực
quan trọng để phát triển kinh tế. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với
kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ. Khuyến
khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững,
đa dạng với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng, quy mô, chất lượng và tỷ trọng
đóng góp trong GDP.
Thứ ba, xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo
mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh và đúng định hướng.
Phát huy mặt tích cực có lợi cho đất nước của kinh tế tư nhân, đồng thời tăng
cường kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm soát, thực hiện công khai, minh bạch,
ngăn chặn, hạn chế mặt tiêu cực, nhất là phòng, chống mọi biểu hiện của
"chủ nghĩa tư bản thân hữu”, quan hệ "lợi ích nhóm", thao túng
chính sách, cạnh tranh không lành mạnh để trục lợi bất chính.
Thứ tư, kinh tế tư nhân được phát triển ở
tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Phát huy phong trào khởi
nghiệp và đổi mới sáng tạo; nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ
và vừa. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để các hộ kinh doanh tự nguyện
liên kết hình thành các hình thức tổ chức hợp tác hoặc hoạt động theo mô hình
doanh nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và
tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước có đủ khả năng tham gia mạng
sản xuất và chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu.
Thứ năm, khuyến khích kinh tế tư nhân tham
gia góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hóa hoặc Nhà
nước thoái vốn. Thúc đẩy phát triển mọi hình thức liên kết sản xuất kinh doanh,
cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo mạng sản xuất, chuỗi giá trị thị trường giữa
kinh tế tư nhân với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài nhằm tiếp nhận, chuyển giao, tạo sự lan tỏa rộng rãi về công
nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng và mở rộng thị
trường tiêu thụ.
Thứ sáu, chăm lo bồi dưỡng, giáo dục, nâng
cao nhận thức chính trị, tinh thần tự lực, tự cường, lòng yêu nước, tự hào, tự
tôn dân tộc, gắn bó với lợi ích của đất nước và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội của các chủ doanh nghiệp. Phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng
vững mạnh, có ý thức chấp hành pháp luật, trách nhiệm với xã hội và kỹ năng
lãnh đạo, quản trị cao; chú trọng xây dựng văn hóa doanh nghiệp, đạo đức doanh
nhân.
2.2- Mục tiêu:
- Mục tiêu tổng
quát: Phát triển
kinh tế tư nhân lành mạnh, hiệu quả, bền vững, thực sự là một động lực quan trọng
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần không ngừng
nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm quốc
phòng, an ninh, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
- Các mục tiêu cụ thể:
gồm 3 mục tiêu
(1) Chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả
kinh doanh trong khu vực kinh tế tư nhân. Phấn đấu đến năm 2020 có ít nhất 1
triệu doanh nghiệp; đến năm 2025 có hơn 1,5 triệu doanh nghiệp và đến năm 2030
có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp;
(2) Tốc độ tăng trưởng kinh tế tư nhân cao
hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Phấn đấu tăng tỉ trọng đóng góp của
khu vực kinh tế tư nhân vào GDP để đến năm 2020 là khoảng 50%, năm 2025 khoảng
55%, đến năm 2030 là khoảng 60 - 65%;
(3) Bình quân giai đoạn 2016 - 2025, năng suất
lao động tăng khoảng 4 - 5%/năm. Thu hẹp khoảng cách về trình độ công nghệ, chất
lượng nhân lực và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với nhóm dẫn đầu ASEAN
4; nhiều doanh nghiệp của khu vực tư nhân có hoạt động đổi mới, sáng tạo, tham
gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị trong nước, khu vực và toàn cầu.
3- Nhiệm vụ và giải
pháp chủ yếu
Gồm 5 nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, thống nhất
cao về nhận thức, tư tưởng, hành động trong triển khai các chủ trương, chính
sách về phát triển kinh tế tư nhân
Nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị
và các tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội về khuyến khích, tạo
mọi điều kiện phát triển kinh tế tư nhân, về chức năng của Nhà nước và thị trường
trong nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập.
Tổng kết một số mô hình doanh nghiệp tư nhân ở
nước ta hiện nay để có cơ sở lãnh đạo, chỉ đạo. Phát huy thế mạnh và tiềm năng
to lớn của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế - xã hội phải đi đôi với khắc
phục triệt để những mặt trái phát sinh trong quá trình phát triển kinh tế tư
nhân.
Phòng, chống có hiệu quả các biểu hiện suy
thoại về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”
trong xây dựng và tổ chức thực hiện chủ trương, cơ chế, chính sách đối với kinh
tế tư nhân.
Hai là, tạo lập môi
trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển kinh tế tư nhân
Triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp ổn
định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát ở mức hợp lý, đẩy nhanh quá trình cơ cấu
lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và thực hiện ba đột phá chiến
lược. Phối hợp đồng bộ giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài khoá và các
chính sách kinh tế vĩ mô khác. Đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng,
hạn chế sự gia tăng nợ công, lấn át đầu tư của khu vực tư nhân.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút đầu tư
tư nhân và bảo đảm hoạt động của kinh tế tư nhân theo cơ chế thị trường: Tôn trọng,
bảo đảm quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản hợp pháp, quyền và nghĩa vụ
dân sự của các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật. Mọi biện pháp khuyến
khích, hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân phải phù hợp với nguyên tắc thị trường
và thúc đẩy tính tự chủ, cạnh tranh của kinh tế tư nhân, không biến các cơ chế,
chính sách hỗ trợ thành bao cấp, phục vụ “nhóm lợi ích” dưới mọi hình thức.
Mở rộng khả năng tham gia thị trường và thúc
đẩy cạnh tranh bình đẳng. Rà soát, xoá bỏ các cơ chế, chính sách tạo ra bất
bình đẳng giữa kinh tế tư nhân và các thành phần kinh tế khác, giữa các chủ thể
của kinh tế tư nhân, nhất là trong cạnh tranh và tiếp cận nguồn lực xã hội, các
yếu tố sản xuất, cơ hội kinh doanh, tham gia thị trường, mà trọng tâm là đất
đai, vốn, nguồn lực của Nhà nước. Tăng cường tính minh bạch đối với độc quyền
nhà nước, độc quyền doanh nghiệp và kiểm soát độc quyền kinh doanh, bảo đảm cạnh
tranh lành mạnh trên thị trường. Xoá bỏ các chính sách hành chính can thiệp trực
tiếp vào thị trường và sản xuất kinh doanh, nhất là giá cả hàng hoá, dịch vụ.
Tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân tham gia
vào quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước thông qua góp vốn, mua cổ phần để
hình thành các tổ chức sản xuất kinh doanh hỗn hợp, có năng lực tài chính, quy
mô hoạt động lớn, công nghệ và quản trị hiện đại, nhất là sớm phát triển các tập
đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu có khả năng cạnh tranh ở thị trường trong nước
và quốc tế.
Phát triển nhanh hệ thống cơ sở hạ tầng đồng
bộ, hiện đại nhằm hỗ trợ sản xuất kinh doanh và tạo điều kiện thuận lợi cho kinh
tế tư nhân tiếp cận, sử dụng thuận lợi, bình đẳng với chi phí hợp lý, bảo đảm
tính công khai, minh bạch.
Khẩn trương hoàn thiện cơ chế, chính sách,
pháp luật về đất đai, quản lý tài nguyên và môi trường tạo điều kiện thuận lợi
cho kinh tế tư nhân tiếp cận đất đai, các nguồn tài nguyên một cách minh bạch,
bình đẳng theo cơ chế thị trường, phục vụ sản xuất kinh doanh
Ba là, hỗ trợ kinh tế
tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hoá công nghệ và phát triển nguồn nhân lực,
nâng cao năng suất lao động
Khuyến khích kinh tế tư nhân đầu tư vào các
hoạt động nghiên cứu, phát triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ tiên tiến,
thúc đẩy đổi mới, sáng tạo nhằm nâng cao năng suất lao động.
Đẩy mạnh thực hiện chiến lược quốc gia về
phát triển nguồn nhân lực với hệ thống chính sách, giải pháp đồng bộ. Tiếp tục
đẩy mạnh xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Chú trọng
xây dựng, nâng cao văn hoá doanh nghiệp và đạo đức doanh nhân.
Khuyến khích, động viên và lan toả tinh thần,
ý chí khởi nghiệp, kinh doanh và đổi mới, sáng tạo trong toàn xã hội, nhất là cộng
đồng doanh nghiệp; xây dựng thương hiệu và chữ tín trong kinh doanh...
Bốn là, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước
Xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn và phát triển
đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ chuyên môn nghiệp vụ tốt, tư tưởng chính
trị vững vàng, trách nhiệm cao và liêm chính.
Tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác giám
sát, thanh tra, kiểm tra, trách nhiệm giải trình của các bộ, ngành, chính quyền
địa phương các cấp đối với việc chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân nhưng phải bảo đảm không làm ảnh
hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh và tạo gánh nặng tâm lý đối với người
dân và doanh nghiệp. Phòng, chống, xoá bỏ mọi biểu hiện của “chủ nghĩa tư bản
thân hữu”, quan hệ “lợi ích nhóm” trong xây dựng và thực thi pháp luật, cơ chế,
chính sách đối với kinh tế tư nhân.
Nâng cao năng lực tổ chức
quản lý nhà nước về kinh tế tư nhân. Đẩy mạnh cải cách hành chính mà trọng tâm
là tạo bước đột phá trong cải cách thủ tục hành chính. Đơn giản hoá, rút ngắn
thời gian xử lý các thủ tục hành chính, nhất là về thành lập doanh nghiệp, đăng
ký kinh doanh, cấp phép, thuế, xuất khẩu, nhập khẩu, giải quyết tranh chấp, tố
tụng, xét xử, thi hành án dân sự, kinh tế, phá sản.
Hoàn thiện và công khai, minh bạch hệ thống
thông tin kinh tế - xã hội, cơ sở dữ liệu văn bản quy phạm pháp luật, các quy
hoạch, kế hoạch, chiến lược phát triển, cơ chế, chính sách quản lý để tạo điều
kiện cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận khai thác và sử dụng.
Năm là, đổi mới nội
dung, phương thức và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp đối
với kinh tế tư nhân
Đổi mới nội dung, phương
thức lãnh đạo của Đảng và hiệu quả hoạt động của các tổ chức đảng trong khu vực
kinh tế tư nhân phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tăng cường chỉ đạo công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, tạo sự
thống nhất cao trong hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân. Có giải pháp
thực hiện chủ trương phát triển đảng trong khu vực kinh tế tư nhân. Coi trọng
công tác sơ kết, tổng kết việc thực hiện các chủ trương của Đảng về phát triển
kinh tế tư nhân; bảo đảm giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương của Đảng trong khu vực
kinh tế tư nhân.
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ,
các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong phát triển
kinh tế tư nhân.
4- Tổ chức thực hiện
Giao cho Quốc hội, Chính phủ; các ban, bộ, ngành, địa phương, đơn
vị lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết.
Các cấp ủy xây dựng kế hoạch hành động thực hiện nghị quyết với
các nhiệm vụ, giải pháp, lộ trình phù hợp và phân công trách nhiệm cụ thể cho
các cơ quan, đơn vị thực hiện.
II- Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017 về hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Sự cần thiết ban hành Nghị quyết
Qua hơn 30 năm đổi mới, nhất là từ khi thực hiện Nghị quyết Trung
ương 6 khóa X, Đảng ta luôn quan tâm tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận,
rút ra các bài học kinh nghiệm, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển,
góp phần quan trọng đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành quốc
gia có thu nhập trung bình, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an
sinh xã hội, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, bảo vệ môi trường sinh
thái, củng cố quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu quả đối ngoại, hội nhập quốc tế.
Thực hiện Chương trình làm việc
toàn khóa của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Bộ Chính trị đã thành lập
Ban Chỉ đạo, giao Ban Kinh tế Trung ương là cơ quan thường trực giúp Ban Chỉ đạo
tiến hành tổng kết và xây dựng Đề án “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa” (trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung
ương 6 khóa X).
Mục tiêu của Đề án là tổng kết 10 năm (2008 - 2017) thực hiện chủ
trương, chính sách của Đảng về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa; kiến nghị, đề xuất các chủ trương, chính sách và giải pháp lớn
nhằm thực hiện có kết quả Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về hoàn thiện đồng bộ
hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu
chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế đến năm
2020 và năm 2030.
Trên cơ sở Đề án “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa”, tại Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, Ban Chấp hành Trung ương
đã thống nhất ban hành Nghị quyết số 11 -NQ/TW ngày 3-6-2017 về hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cấu trúc của Nghị quyết gồm 4
phần chính sau:
- Tình hình và nguyên nhân.
- Quan điểm chỉ đạo và mục
tiêu.
- Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu.
- Tổ chức thực hiện.
1- Về tình hình và
nguyên nhân
Trung ương nhận định: Mười năm qua (2008 - 2017), việc
thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khoá X và các chủ trương, quan điểm của Đảng
về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã góp phần
quan trọng từng bước định hình nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành quốc gia có thu nhập
trung bình; phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,
bảo đảm an sinh xã hội, phát triển y tế, giáo dục, văn hoá, xã hội, không ngừng
nâng cao đời sống của nhân dân, bảo vệ môi trường sinh thái, chủ động ứng phó với
biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách ngày
càng hoàn thiện và phù hợp hơn với luật pháp quốc tế. Từ khi ban hành Nghị quyết
Trung ương 6 khóa X đến nay, Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành
191 bộ luật, luật, pháp lệnh; trong đó, có khoảng 120 (chiếm hơn 60%) bộ luật,
luật, pháp lệnh liên quan trực tiếp tới hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình
thành đồng bộ hơn, gắn kết với thị trường khu vực và thế giới. Hội nhập kinh tế
quốc tế ngày càng sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, từng bước
thích ứng với nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu. Đến nay, Việt
Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới, tích cực tham gia
xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN, tham gia và ký kết 9 hiệp định thương mại tự
do song phương và đa phương khác; thiết lập quan hệ kinh tế, thương mại với hơn
220 quốc gia, vùng lãnh thổ và là thành viên của 70 tổ chức khu vực và quốc tế.
Tuy nhiên, hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện còn chậm, thiếu
kiên quyết. Hệ thống
luật pháp, cơ chế, chính sách chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu
đổi mới mô hình tăng trưởng. Cơ cấu lại nền kinh tế, thực hiện ba đột phá chiến
lược, hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả chưa cao. Một số loại thị trường chậm
hình thành và phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc, kém hiệu quả, nhất là
các thị trường quyền sử dụng đất, khoa học - công nghệ, lao động, dịch vụ y tế,
giáo dục - đào tạo… Thị trường bất động sản phát triển không bền vững. Thị trường
tài chính phát triển thiếu cân bằng và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Thị trường chứng
khoán chưa thực sự trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế;
Thể chế bảo đảm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội còn nhiều bất cập. Môi
trường đầu tư, kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, mức độ minh bạch, ổn định
chưa cao. Việc tiếp cận các nguồn lực xã hội chưa bình đẳng giữa các chủ thể
kinh tế, quyền sở hữu tài sản, nhất là quyền của người góp vốn chưa được bảo đảm
thực thi đầy đủ. Việc cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước và thoái vốn nhà nước
còn chậm, hiệu quả kinh doanh của phần lớn doanh nghiệp nhà nước còn thấp, nhiều
dự án đầu tư kém hiệu quả, thua lỗ, thất thoát, không thể phục hồi. Kinh tế tập
thể chậm phát triển; sản xuất nông nghiệp vẫn chủ yếu theo mô hình kinh tế hộ
nhỏ lẻ, phân tán. Phần lớn kinh tế tư nhân là các hộ cá thể, các doanh nghiệp
quy mô nhỏ và siêu nhỏ, phát triển còn manh mún. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài hoạt động chủ yếu trong các ngành sử dụng nhiều lao động, khai thác tài
nguyên; ít liên kết, chuyển giao công nghệ và quản trị tiên tiến cho các doanh
nghiệp trong nước. Đổi mới khu vực sự nghiệp công và xã hội hoá cung cấp dịch vụ
công còn chậm.
Những hạn chế, yếu
kém nêu trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan, song nguyên nhân chủ quan
là chủ yếu. Trong
đó năng lực xây dựng và thực thi thể chế còn nhiều bất cập, năng lực phân tích,
dự báo còn hạn chế. Cơ chế thực thi và phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương
kém hiệu lực, hiệu quả. Công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán và xử
lý vi phạm hiệu quả còn thấp.
2- Về quan điểm chỉ
đạo và mục tiêu
2.1- Về quan điểm chỉ đạo: Có 5 quan điểm chỉ đạo:
Thứ nhất, xây dựng hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ chiến lược, là khâu đột
phá quan trọng, tạo động lực để phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững;
đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững.
Thứ hai, nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận
dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn kết hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá và bảo vệ môi trường, đồng
thời bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, an ninh chính trị, trật tự,
an toàn xã hội.
Thứ ba, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình phát triển liên tục; kế thừa có chọn lọc
thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại và kinh nghiệm từ thực tiễn
đổi mới ở nước ta; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, nhưng phải đảm
bảo giữa vững độc lập, chủ quyền quốc gia, an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội.
Thứ tư, hoàn thiện thể chế kinh tế phải đi
đôi với đổi mới, hoàn thiện bộ máy tổ chức, cán bộ của toàn hệ thống chính trị;
xác định rõ và thực hiện đúng vị trí, vai trò, chức năng và mối quan hệ giữa
Nhà nước, thị trường và xã hội phù hợp với kinh tế thị trường; bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa; giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ năm, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị. Đổi
mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu
quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và của
toàn xã hội trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
2.2- Mục tiêu:
- Mục tiêu tổng quát: Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo tiền đề vững chắc cho việc xây dựng
thành công và vận hành đồng bộ, thông suốt mô hình hoàn chỉnh nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; góp phần huy động tối đa và sử dụng có hiệu
quả nhất mọi nguồn lực để thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững vì
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
- Mục
tiêu cụ thể đến
năm 2020: Phấn đấu hoàn thiện một bước đồng
bộ hơn hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các
chuẩn mực phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Cơ
bản bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước
và thị trường; sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát
triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo
vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững. Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
- Mục tiêu đến năm 2030: Hoàn thiện đồng bộ và vận hành có hiệu quả thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
3- Nhiệm vụ và giải
pháp chủ yếu
Gồm 6 nhiệm vụ, giải pháp sau:
3.1- Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
- Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành
đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước; là nền
kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
- Tính
hiện đại và hội nhập quốc tế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta thể hiện ở chỗ: Kế thừa có chọn lọc những thành tựu phát triển
kinh tế thị trường của nhân loại, kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn 30 năm đổi
mới; có hệ thống pháp luật, các thiết chế, cơ chế, chính sách và các yếu tố thị
trường, các loại thị trường đầy đủ, đồng bộ, vận hành thông suốt, gắn kết chặt
chẽ với thị trường và các nền kinh tế trên thế giới; vai trò, chức năng của Nhà
nước và thị trường được xác định, thực hiện phù hợp với thông lệ, nguyên tắc,
chuẩn mực phổ biến của thế giới đương đại.
Định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế từng
bước được xác lập và tăng cường thông qua sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, lấy con người làm trung tâm, vì mọi người
và do con người; phát huy đầy đủ vai trò làm chủ của nhân dân, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Nhà nước
đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế; tạo môi trường
cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách
và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy
sản xuất, kinh doanh phát triển và bảo vệ tài nguyên, môi trường. Thị trường
đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát
triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước
được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.
- Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Kinh tế nhà nước,
kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển một nền kinh
tế độc lập, tự chủ. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp
tác, cạnh tranh cùng phát triển theo pháp luật. Khuyến khích làm giàu hợp pháp.
Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời
theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.
3.2- Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu,
phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp
* Hoàn thiện thể chế
về sở hữu
- Thể chế
hoá đầy đủ quyền tài sản (quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt và hưởng
lợi từ sử dụng tài sản) của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được quy định trong
Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm công khai, minh bạch về nghĩa vụ và trách nhiệm
trong thủ tục hành chính nhà nước và dịch vụ công để quyền tài sản được giao dịch
thông suốt; bảo đảm hiệu lực thực thi và bảo vệ có hiệu quả quyền sở hữu tài sản.
- Hoàn
thiện pháp luật về đất đai để huy động và sử dụng hiệu quả đất đai, khắc phục
tình trạng sử dụng đất lãng phí, đẩy mạnh việc dồn điền đổi thửa. Xác lập các
thể chế thuận lợi cho việc mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông
nghiệp phù hợp với từng khu vực, chuyển nhượng hoặc cho thuê quyền sử dụng đất,
góp cổ phần bằng quyền sử dụng đất nhằm thúc đẩy tích tụ và tập trung ruộng đất,
tạo điều kiện phát triển nông nghiệp hàng hoá quy mô lớn, áp dụng công nghệ
cao, phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, đồng thời bảo đảm việc làm
và đời sống của nông dân.
* Hoàn thiện thể chế
phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp
- Thực
hiện nhất quán một mặt bằng pháp lý và điều kiện kinh doanh cho các doanh nghiệp,
không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế. Mọi doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế đều hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh
tranh theo pháp luật. Xây dựng các cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi
thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng
cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế
quốc tế, bảo đảm tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế đất nước.
- Hoàn
thiện pháp luật về đầu tư, kinh doanh, xoá bỏ các rào cản đối với hoạt động đầu
tư kinh doanh; bảo đảm quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh tế đã được
Hiến pháp quy định. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; giảm cơ bản gánh nặng
chi phí trung gian, bất hợp lý đối với doanh nghiệp. Hoàn thiện các quy định
liên quan đến khởi nghiệp để khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho
hoạt động khởi nghiệp theo các quy định pháp luật.
- Hoàn
thiện thể chế về cạnh tranh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh; xử lý dứt điểm tình
trạng chồng chéo các quy định về điều kiện kinh doanh; khắc phục tình trạng ban
hành trái thẩm quyền các quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh. Tăng cường
tính minh bạch về độc quyền nhà nước. Xoá bỏ các chính sách can thiệp hành
chính trực tiếp, bao cấp của Nhà nước đối với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế.
3.3- Hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ
các yếu tố thị trường và các loại thị trường
* Hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ
các yếu tố thị trường
- Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường;
bảo đảm tính đúng, tính đủ và công khai, minh bạch các yếu tố hình thành giá
hàng hoá, dịch vụ công thiết yếu. Không lồng ghép các chính sách xã hội trong
giá hàng hoá, dịch vụ. Chuyển từ cơ chế cấp phát sang đặt hàng, từ hỗ trợ cho
các đơn vị cung cấp dịch vụ sang hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng thụ hưởng.
Hoàn thiện các quy định pháp luật về phí, lệ phí theo hướng chuyển sang áp dụng
giá dịch vụ phù hợp với cơ chế thị trường. Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng, phát huy đúng và đầy đủ vai trò chủ thể của người
tiêu dùng, các hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong nền kinh tế.
- Cải cách mạnh mẽ chính sách tài chính về đất đai theo hướng đơn
giản, ổn định, công khai, minh bạch và công bằng. Nghiên cứu, hoàn thiện pháp
luật về thuế tài sản, nhất là về đất đai, bất động sản. Bảo đảm minh bạch
thông tin về thị trường quyền sử dụng đất. Xác định giá trị quyền sử dụng đất
theo cơ chế thị trường thông qua đấu giá, đấu thầu các dự án có sử dụng đất,
thoả thuận mua bán trên thị trường; áp dụng phổ biến việc xác định giá trị quyền
sử dụng đất thông qua các tổ chức thẩm định giá độc lập, chuyên nghiệp. Rà
soát, điều chỉnh khung giá quyền sử dụng đất phù hợp với thị trường ở từng địa
phương. Tăng cường áp dụng phương thức cho thuê đất.
- Thực hiện bình đẳng trong tiếp cận các yếu tố đầu vào của các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Hoàn thiện và thực thi có hiệu quả
các quy định của pháp luật về công khai, minh bạch trong tiếp cận các nguồn lực
công, mua sắm và đầu tư công. Tăng cường tính minh bạch đối với độc quyền nhà
nước; kiểm soát, ngăn chặn, xoá bỏ độc quyền doanh nghiệp. Hoàn thiện thể chế
phân bổ nguồn lực theo cơ chế thị trường vào những ngành, lĩnh vực và địa bàn đạt
hiệu quả cao, có tác động lan toả. Hoàn thiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp
theo cơ chế thị trường, thể chế bảo vệ nhà đầu tư, quyền sở hữu và quyền tài sản;
không hình sự hoá các mối quan hệ kinh tế và dân sự.
* Hoàn thiện thể chế
để phát triển đồng bộ, vận hành thông suốt các thị trường
- Thị
trường hàng hoá, dịch vụ: Đẩy mạnh phát triển thị trường hàng hoá, dịch vụ, gồm
cả xuất nhập khẩu, thị trường trong nước và biên mậu; phát triển hạ tầng thương
mại. Thực hiện tự do hoá thương mại phù hợp với các cam kết quốc tế. Phát triển
mạnh các phương thức giao dịch thị trường hiện đại. Xây dựng và thực hiện các
tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá, vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường phù hợp
với yêu cầu trong nước và cam kết quốc tế, bảo vệ hợp lý thị trường trong nước,
không để bị nước ngoài thâu tóm, thao túng.
Phát triển các thị trường dịch vụ, nhất là
các dịch vụ có hàm lượng tri thức và công nghệ cao. Hình thành khung pháp lý
cho phát triển những thị trường mới, nhất là về công nghiệp môi trường, công
nghiệp văn hoá...
- Thị trường tài chính:
Thực hiện có hiệu quả chủ trương cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công
để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững. Đổi mới cơ chế phân bổ, sử
dụng ngân sách nhà nước, quản lý tài sản công. Đẩy mạnh hợp tác công - tư. Tiếp
tục đổi mới chính sách thuế. Phát triển cân bằng, đồng bộ thị trường tài chính.
Đẩy mạnh hoạt động và nâng cao hiệu quả của thị trường chứng khoán, thị trường
trái phiếu để trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng cho nền
kinh tế; xây dựng đầy đủ khung khổ pháp lý để thị trường mua bán nợ được hình
thành và hoạt động có hiệu quả theo cơ chế thị trường. Phát triển thị trường bảo
hiểm. Phát triển mạnh các thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán, tư vấn thuế,
thẩm định giá hỗ trợ cho hoạt động của các tổ chức, cá nhân và góp phần nâng
cao tính minh bạch của thị trường.
- Thị
trường tiền tệ: Rà soát, sửa đổi pháp luật bảo đảm thực hiện chính sách tiền tệ
theo mục tiêu kiểm soát lạm phát, phối hợp có hiệu quả giữa chính sách tiền tệ,
chính sách tài khoá và các chính sách khác để ổn định kinh tế vĩ mô và cân đối
lớn về tài chính - tiền tệ của nền kinh tế. Điều hành lãi suất phù hợp với diễn
biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và thị trường tiền tệ. Điều hành tỉ giá linh hoạt
theo tín hiệu thị trường. Tăng tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước trong điều
hành chính sách tiền tệ. Hoàn thiện khung khổ pháp lý về tái cơ cấu các tổ chức
tín dụng và xử lý nợ xấu, bảo đảm nguyên tắc thị trường; bảo vệ quyền lợi của
người gửi tiền và người cho vay; bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng. Xử lý dứt
điểm các tổ chức tín dụng yếu kém và tình trạng đầu tư chéo, sở hữu chéo trong
lĩnh vực ngân hàng. Nâng cao năng lực tài chính, quản trị, điều hành phù hợp với
chuẩn mực quốc tế; phát triển nhanh dịch vụ tài chính, ngân hàng.
- Thị
trường khoa học, công nghệ: Đổi mới, phát triển mạnh mẽ và đồng bộ thị trường
khoa học, công nghệ. Tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Có chính sách hỗ
trợ, khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, phát triển,
chuyển giao công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất kinh
doanh. Xác định doanh nghiệp là lực lượng chính trong phát triển và ứng dụng
khoa học, công nghệ.
- Thị
trường bất động sản và quyền sử dụng đất: Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế,
chính sách để phát triển và vận hành thông suốt thị trường bất động sản nhằm sử
dụng tiết kiệm, có hiệu quả đất đai và tài sản, kết cấu hạ tầng trên đất. Xây dựng
thể chế và các mô hình phù hợp để gắn kết quá trình công nghiệp hoá với đô thị
hoá và xây dựng nông thôn mới. Xây dựng chính sách xã hội về nhà ở.
Tập trung xây dựng thể chế, hoàn thiện khung
pháp lý phát triển thị trường sơ cấp, thứ cấp về quyền sử dụng đất, kể cả đất
nông nghiệp; bảo đảm thị trường quyền sử dụng đất hoạt động công khai, minh bạch,
có trật tự. Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường cho thuê đất
nông nghiệp. Nghiên cứu hoàn thiện khung khổ pháp lý về thuế sử dụng tài sản,
nhất là về sử dụng đất đai.
- Thị
trường lao động: Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển đồng bộ, liên
thông thị trường lao động cả về quy mô, chất lượng lao động và cơ cấu ngành nghề;
có cơ chế, chính sách để định hướng dịch chuyển lao động, phân bổ hợp lý lao động
theo vùng. Lao động di cư và gia đình được tiếp cận bình đẳng các dịch vụ xã hội.
3.4- Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng
kinh tế với bảo đảm phát triển bền vững, tiến bộ và công bằng xã hội, quốc
phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu
- Tích cực thực hiện Chương trình nghị sự
2030 về phát triển bền vững của Liên hợp quốc; từng bước triển khai chiến lược tăng
trưởng xanh. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế nhanh và bền vững với phát triển
xã hội bền vững, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, tạo cơ hội cho mọi thành
viên trong xã hội tham gia bình đẳng và thụ hưởng công bằng thành quả từ quá
trình phát triển. Phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, thống nhất;
huy động sự tham gia của các thành phần xã hội vào thực thi chính sách an sinh
xã hội, khuyến khích người dân tham gia tự bảo đảm an sinh xã hội, tập trung
nguồn lực thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững.
- Hoàn
thiện khuôn khổ pháp lý, nâng cao năng lực thực thi thể chế và tăng cường hiệu
quả cơ chế giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường, phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.
- Hoàn
thiện thể chế về kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Có
cơ chế huy động các nguồn lực xã hội tham gia phát triển kinh tế các vùng biên
giới trên đất liền, trên biển và hải đảo; phát triển các khu kinh tế - quốc
phòng. Phát triển mạnh các ngành kinh tế biển gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền
quốc gia và nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo. Hoàn thiện cơ chế, chính
sách đặc thù đối với doanh nghiệp quốc phòng, an ninh, gắn kết chặt chẽ giữa
công nghiệp quốc phòng, an ninh với công nghiệp dân sinh trong tổng thể chính
sách công nghiệp quốc gia.
- Xây dựng
thể chế liên kết vùng, hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế vùng trên cơ sở
phát huy lợi thế so sánh của từng địa phương. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để
phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, ưu tiên phát triển các vùng kinh tế
động lực, đồng thời có chính sách hỗ trợ các vùng còn nhiều khó khăn; thu hẹp
khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, địa phương; xây dựng một số đặc
khu kinh tế - hành chính với thể chế vượt trội để tạo cực tăng trưởng và thử
nghiệm thể chế phát triển vùng có tính đột phá. Chính phủ quy định mô hình điều
phối liên kết vùng, xác định địa phương đầu tàu và nhiệm vụ của từng địa phương
trong vùng.
3.5- Hoàn thiện thể chế đẩy mạnh, nâng cao hiệu
quả hội nhập kinh tế quốc tế
- Triển
khai và thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá XII về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia
các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
- Rà soát, điều chỉnh, bổ sung hệ thống pháp
luật và các thể chế liên quan đáp ứng yêu cầu thực hiện các cam kết quốc tế.
Xây dựng và hoàn thiện cơ chế phối hợp điều hành giữa các bộ, ngành, địa phương
trong thực thi các cam kết hội nhập và tiếp cận thị trường. Đổi mới công tác
xúc tiến thương mại và đầu tư, cung cấp thông tin, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển
thị trường, nhất là thị trường xuất khẩu. Nâng cao năng lực phòng ngừa, giải
quyết tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế.
- Thực hiện nhất quán chủ trương đa phương
hoá, đa dạng hoá trong hợp tác kinh tế quốc tế, không để lệ thuộc vào một số ít
thị trường. Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tiềm lực của các doanh nghiệp
trong nước. Xây dựng và thực hiện các cơ chế phù hợp với thông lệ quốc tế để phản
ứng nhanh nhạy trước các diễn biến bất lợi trên thị trường thế giới, bảo vệ lợi
ích quốc gia - dân tộc, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong nước.
3.6- Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, vai
trò xây dựng và thực hiện thể chế kinh tế của Nhà nước; phát huy quyền làm chủ
của nhân dân trong hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
* Đổi mới nội dung
và phương thức lãnh đạo của Đảng về kinh tế - xã hội.
- Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chủ
trương phát triển kinh tế - xã hội của Đảng. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận và việc xây dựng, ban hành nghị quyết của
Đảng về phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao năng lực và hiệu quả công tác
tham mưu về kinh tế - xã hội ở các cấp, các ngành.
- Tăng cường lãnh đạo việc thể chế hoá và việc
tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước về kinh tế - xã hội.
- Tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết thực hiện đường lối, chủ
trương, nghị quyết của Đảng; phát hiện và giải quyết đúng đắn, kịp thời các vấn
đề lớn, quan trọng về kinh tế - xã hội của đất nước.
* Nâng cao năng lực
xây dựng và thực hiện thể chế của Nhà nước
- Nhà nước
thể chế hoá nghị quyết của Đảng, xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật; tăng
cường sự phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa cơ quan lập pháp, cơ quan hành
pháp và cơ quan tư pháp; xoá bỏ cơ chế xin - cho; bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô,
môi trường đầu tư, kinh doanh; khắc phục các khiếm khuyết của thị trường; tiếp
tục đẩy mạnh cải cách hành chính. Đổi mới phương thức quản lý nhà nước về kinh
tế; thực hiện đúng và đầy đủ chức năng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
Điều hành nền kinh tế không chỉ bảo đảm mục tiêu ngắn hạn mà còn hướng tới thực
hiện các mục tiêu trung và dài hạn. Đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch phù hợp
với cơ chế thị trường. Nâng cao năng lực phân tích, dự báo. Đổi mới công tác thống
kê phù hợp với thông lệ quốc tế. Bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật;
nâng cao hiệu quả công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán và xử lý
nghiêm những hành vi vi phạm pháp luật.
- Nghiên
cứu, rà soát, đổi mới việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Nâng cao chất
lượng văn bản pháp luật, bảo đảm tính minh bạch, tính nhất quán và dự đoán được
của pháp luật.
- Rà
soát, cơ cấu lại bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả; từng
bước tách chức năng xây dựng chính sách và hành chính công với chức năng quản
lý, điều tiết thị trường và thực hiện quyền sở hữu vốn nhà nước.
- Đẩy mạnh
cải cách tư pháp. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả của các thiết chế giải
quyết tranh chấp dân sự, kinh doanh, thương mại, trọng tâm là các hoạt động hòa
giải, trọng tài thương mại và tòa án nhân dân các cấp, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của người dân và doanh nghiệp.
* Phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, sự tham gia của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội,
xã hội - nghề nghiệp.
- Thể chế hóa các quy định của Hiến pháp về
quyền con người, quyền công dân, quyền và nghĩa vụ của MTTQ Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp.
- Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội
của MTTQ Việt Nam
và các tổ chức chính trị - xã hội.
- Tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức xã hội
- nghề nghiệp tham gia vào các chương trình, dự án hỗ trợ doanh nghiệp của
Chính phủ, thúc đẩy các hình thức liên kết doanh nghiệp, cung cấp các dịch vụ hỗ
trợ doanh nghiệp thâm nhập, phát triển thị trường.
3.7- Một số nhiệm vụ cần tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
Giai đoạn từ nay đến năm 2020, cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện 5 nhiệm vụ quan trọng sau:
Một là, hoàn thiện thể chế về huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực và thể chế về phân phối kết quả làm ra để giải phóng sức sản xuất,
tạo động lực và nguồn lực cho tăng trưởng, phát triển, bảo đảm tiến bộ, công bằng
xã hội, quốc phòng, an ninh.
Hai là, hoàn thiện thể chế về cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; có
chính sách đột phá tháo gỡ những vướng mắc, tạo thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp
phát triển trên cơ sở đẩy mạnh đồng bộ cải cách hành chính và cải cách tư pháp.
Xây dựng thể chế làm căn cứ xử lý dứt điểm, hiệu quả các tồn tại, yếu kém đã
tích tụ trong nền kinh tế nhiều năm qua, đặc biệt là việc xử lý các tập đoàn
kinh tế, tổng công ty nhà nước, các dự án, công trình đầu tư công không hiệu quả,
thua lỗ kéo dài; cơ cấu lại các tổ chức tín dụng yếu kém gắn với xử lý nợ xấu.
Ba là, hoàn thiện thể chế về phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ,
giáo dục - đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao,
tranh thủ những cơ hội và thành tựu của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đổi
mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động, chất lượng và sức cạnh
tranh của nền kinh tế.
Bốn là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nền kinh tế và năng lực kiến
tạo sự phát triển của Nhà nước, đặc biệt là năng lực, hiệu quả thể chế hoá đường
lối, chủ trương của Đảng và tổ chức thực hiện luật pháp, chính sách của Nhà nước.
Năm là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, hoàn thiện thể chế kiểm
soát quyền lực, tinh giản bộ máy, biên chế, xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực,
phẩm chất đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của
toàn hệ thống chính trị.
4- Tổ chức thực hiện
Giao cho Quốc hội, Chính phủ; các ban, bộ, ngành, địa phương, đơn
vị lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết.
Các cấp ủy Đảng xây dựng chương trình, kế hoạch hành động thực hiện
nghị quyết với lộ trình và phân công trách nhiệm cụ thể.
III- Nghị quyết
số 12-NQ/TW ngày 03/6/2017 về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả
doanh nghiệp nhà nước
Sự cần thiết ban
hành Nghị quyết
Trong hơn 30 năm qua, Đảng ta luôn quan tâm đến việc đổi mới, nâng
cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Đặc biệt, năm 2001, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Nghị quyết chuyên đề “Về tiếp tục sắp
xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước”. Tiếp đó,
qua các kỳ Đại hội, Đảng đã có nhiều nghị quyết, kết luận bổ sung, phát triển nội
dung này. Các ngành, các cấp đã nghiêm túc tổ chức thực hiện các Nghị quyết của
Đảng, đạt nhiều kết quả tích cực. Chính phủ có chương trình hành động, kế hoạch
đồng bộ, cụ thể và chỉ đạo quyêt liệt, sâu sát, định kỳ sơ kết, tổng kết. Tuy vậy,
kết quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước cho đến nay chưa đáp ứng yêu cầu. Đại
hội XII của Đảng đã nhận định: “Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả,
chưa thể hiện được vai trò là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nưóc”; đồng thời
đề ra yêu cầu và giải pháp tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu
quả doanh nghiệp nhà nước.
Để thực hiện yêu cầu của Đại hội XII, cần tổng kết, xác định những kết
quả đạt được, những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân, kiến nghị, đề xuất các chủ
trương, chính sách, giải pháp lớn nhằm cụ thể hóa và thực hiện có kết quả Nghị
quyết Đại hội XII của Đảng về cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh
nghiệp nhà nước trong giai đoạn tới; Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương khóa XII ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 3-6-2017 về tiếp tục cơ cấu
lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
Mục tiêu của Nghị quyết là
đánh giá việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng về sắp xếp cơ cấu lại,
đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở tổng
kết 15 năm (2001 - 2016) thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa IX, quyết định
các chủ trương, chính sách và giải pháp lớn nhằm thực hiện Nghị quyết Đại hội
XII của Đảng, đẩy mạnh cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp
nhà nước trong giai đoạn đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.
Cấu trúc của Nghị quyết gồm 4 phần chính sau:
- Tình hình và nguyên nhân.
- Quan điểm chỉ đạo và mục
tiêu.
- Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu.
- Tổ chức thực hiện.
1- Về tình hình và
nguyên nhân
Trung ương nhận định: Thời gian qua, mặc dù còn nhiều hạn
chế, yếu kém cần khắc phục, nhưng nhìn tổng thể, doanh nghiệp nhà nước (bao gồm
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước và doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ cổ phần, vốn
góp chi phối) đã nỗ lực vươn lên trong sản xuất, kinh doanh, không ngừng đổi mới,
đạt được nhiều kết quả. Cùng với cơ chế, chính sách của Nhà nước, doanh nghiệp
nhà nước là công cụ quan trọng để bảo đảm thực hiện có hiệu quả các chính sách ổn
định vĩ mô, đối phó với những biến động thị trường, kiềm chế lạm phát; đóng góp
lớn trong xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế; là nguồn thu lớn của ngân sách nhà nước; đóng góp
quan trọng thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và thực hiện chính sách bảo đảm
an sinh xã hội. Doanh nghiệp nhà nước có đóng góp thu ngân sách lớn nhất so với
các thành phần kinh tế khác. Tỉ trọng doanh thu doanh nghiệp nhà nước trong tổng
thu ngân sách nhà nước đạt 19,3% (giai đoạn 2006 - 2010) và 22% (giai đoạn 2011
- 2015). Nộp ngân sách nhà nước của doanh nghiệp nhà nước năm 2015 đạt 246.038
tỉ đồng; trong đó các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước chiếm 86% nộp
ngân sách nhà nước của khu vực doanh nghiệp nhà nước. Cơ cấu doanh nghiệp nhà
nước được đẩy mạnh, số lượng doanh nghiệp nhà nước đã được thu gọn hơn, hiệu quả
hoạt động, năng lực cạnh tranh được nâng lên. The số liệu của Bộ Tài chính, 350
doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm
2015 đều tăng hơn so với những năm trước khi cổ phần hóa: vốn điều lệ tăng 72%,
tổng tài sản tăng 39%, doanh thu tăng 29%, lợi nhuận trước thuế tăng 49%, nộp
ngân sách tăng 27%, thu nhập bình quân của người lao động tăng 33%. Quản lý nhà
nước đối với doanh nghiệp nhà nước được điều chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị
trường.
Bên cạnh kết quả đã
đạt được, cơ chế, chính sách về doanh nghiệp nhà nước chưa phù hợp. Doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự
cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác;
chưa thực hiện được vai trò là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước; hiệu quả
kinh doanh và đóng góp của phần lớn doanh nghiệp nhà nước còn thấp, chưa tương
xứng với nguồn lực Nhà nước đầu tư; nhiều doanh nghiệp và dự án đầu tư kém hiệu
quả, nợ nần, thua lỗ, thất thoát, không thể phục hồi. Mô hình quản trị doanh
nghiệp nhà nước chậm được đổi mới, kém hiệu quả, không phù hợp với các thông lệ,
chuẩn mực quốc tế. Việc cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước và thoái vốn nhà nước
triển khai chậm. Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước còn nhiều hạn chế,
tiêu cực và có một số khó khăn, vướng mắc; thể chế chậm được giải quyết, nhất
là thể chế định giá đất đai, tài sản.
Công tác cán bộ, chính sách tiền lương của
doanh nghiệp nhà nước còn bất cập; trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp
nhà nước chưa rõ ràng. Việc tách chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp
nhà nước và chức năng của cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh
nghiệp nhà nước thực hiện chậm.
Công tác quản lý nhà nước, thanh tra, kiểm
tra, kiểm toán còn chồng chéo, hiệu lực, hiệu quả kém. Cơ chế quản lý, giám sát
và việc thực hiện quyền, trách nhiệm của cơ quan và người đại diện chủ sở hữu
nhà nước còn nhiều yếu kém. Tham nhũng và tiêu cực trong doanh nghiệp nhà nước
còn lớn; những doanh nghiệp thua lỗ, dự án kém hiệu quả chậm được xử lý. Việc đổi
mới phương thức hoạt động của các tổ chức đảng, tổ chức chính trị - xã hội
trong doanh nghiệp chưa theo kịp yêu cầu đổi mới, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà
nước.
Những hạn chế, yếu kém
nói trên chủ yếu là do: Nhận thức về vai trò, vị trí của kinh tế nhà nước và doanh nghiệp nhà
nước, về yêu cầu và giải pháp cơ cấu lại, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
quả doanh nghiệp nhà nước còn chưa đầy đủ; một số vấn đề chưa rõ, còn ý kiến khác
nhau nhưng chậm được tổng kết, kết luận. Việc tổ chức thực hiện và thể chế hoá
các chủ trương, chính sách của Đảng còn nhiều yếu kém, bất cập. Chủ quan, nóng
vội trong việc triển khai thực hiện thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế đa
ngành; lúng túng trong việc xác định cơ quan đại diện chủ sở hữu. Kỷ cương, kỷ
luật trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước không nghiêm. Thể chế
quản lý, quản trị doanh nghiệp nhà nước yếu kém, tạo kẽ hở để hình thành nhóm lợi
ích, thao túng hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, tham nhũng, lãng phí; thiếu
cơ chế kiểm soát quyền lực. Công tác bồi dưỡng, đào tạo, đánh giá, bổ nhiệm cán
bộ trong các doanh nghiệp nhà nước còn nhiều hạn chế. Công tác thanh tra, giám
sát, kiểm toán của các cơ quan quản lý nhà nước chưa phát huy được hiệu lực, hiệu
quả. Mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của các tổ chức đảng và tổ chức
chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp nhà nước sau cổ
phần hoá còn bất cập, chậm thay đổi.
2- Quan điểm chỉ đạo
và mục tiêu
2.1- Về quan điểm chỉ đạo: Gồm 6
quan điểm sau:
- Doanh
nghiệp nhà nước (là doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc giữ
cổ phần, vốn góp chi phối, tổ chức và hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần
hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn) là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh
tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng
xã hội. Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu,
những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh, những lĩnh vực mà doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư.
- Doanh
nghiệp nhà nước phải thật sự hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả
kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu; tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh
bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định pháp
luật. Bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp
nhà nước. Tách bạch nhiệm vụ kinh doanh với nhiệm vụ cung cấp hàng hoá và dịch
vụ công ích của doanh nghiệp nhà nước.
- Nâng
cao chất lượng, hiệu quả, năng lực canh tranh của doanh nghiệp nhà nước để làm
tốt vai trò dẫn dắt phát triển các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác,
bảo đảm doanh nghiệp Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt trong phát
triển kinh tế - xã hội.
- Cơ cấu lại, đổi mới doanh nghiệp nhà nước
là phân bổ lại có hiệu quả các nguồn lực nhà nước theo cơ chế thị trường; là
quá trình thường xuyên, liên tục với phương thức thực hiện và lộ trình hợp lý.
Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng kiên quyết cổ phấn
hoá, bán vốn tại những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm hoặc không cần giữ
cổ phần, vốn góp chi phối, kể cả những doanh nghiệp đang kinh doanh có hiệu quả,
đồng thời xử lý triệt để, bao gồm cả phá sản doanh nghiệp nhà nước yếu kém.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám
sát, kiểm tra, kiểm soát đối với hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; không để
xảy ra tình trạng thất thoát, lãng phí vốn, tài sản nhà nước. Tách bạch, phân định
rõ chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản lý nhà nước,
chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Tăng cường đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ, năng lực quản trị và phẩm chất đạo đức để kiện toàn đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp
nhà nước.
- Đổi mới phương thức và nâng cao năng lực
lãnh đạo của các tổ chức đảng ;phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam
và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc giám sát đối với việc cơ cấu lại,
đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
2.2- Về mục tiêu:
- Mục tiêu tổng quát: Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao
hiệu quả doanh nghiệp nhà nước trên nền tảng công nghệ hiện đại, năng lực đổi mới
sáng tạo, quản trị theo chuẩn mực quốc tế nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực xã hội và bảo toàn, phát triển vốn nhà nước tại doanh nghiệp, bảo
đảm vai trò của doanh nghiệp nhà nước là một lực lượng vật chất quan trọng của
kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội.
- Mục tiêu đến năm
2020:
+ Cơ cấu lại, đổi mới doanh nghiệp nhà nước
giai đoạn 2017 - 2020 trên cơ sở các tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhà nước,
doanh nghiệp có vốn nhà nước thuộc các ngành, lĩnh vực. Hầu hết doanh nghiệp
nhà nước kinh doanh có cơ cấu sở hữu hỗn hợp, chủ yếu là doanh nghiệp cổ phần.
Phấn đấu hoàn thành thoái vốn tại các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ,
tham gia góp vốn.
+ Tập trung xử lý dứt điểm các tập đoàn kinh
tế, tổng công ty nhà nước thua lỗ, các dự án, công trình đầu tư không hiệu quả,
thua lỗ kéo dài.
+ Phấn đấu đáp ứng các chuẩn mực quốc tế về
quản trị doanh nghiệp; nâng cao một bước quan trọng hiệu quả kinh doanh, chất
lượng sản phẩm, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước.
+ Hoàn thiện mô hình quản lý, giám sát doanh
nghiệp nhà nước và vốn, tài sản của Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp. Chậm nhất
đến năm 2018, thành lập một cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với
doanh nghiệp nhà nước và cổ phần, vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp.
- Mục tiêu đến năm
2030:
+ Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước kinh
doanh có cơ cấu sở hữu hỗn hợp, chủ yếu là doanh nghiệp cổ phần.
+ Trình độ công nghệ, kỹ thuật sản xuất của
các doanh nghiệp nhà nước hiện đại tương đương với khu vực; đáp ứng đầy đủ chuẩn
mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp; hình thành đội ngũ quản lý chuyên nghiệp,
có trình độ cao, phẩm chất đạo đức tốt.
+ Củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế
nhà nước hiện có với quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu
vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.
3- Nhiệm vụ và giải
pháp chủ yếu
Gồm 5 nhiệm vụ, giải pháp sau:
3.1- Đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước
Trên cơ sở rà soát, xác định rõ số lượng và
phạm vi ngành, lĩnh vực có doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước.
Đẩy mạnh cổ phần hoá, thoái vốn đối với các doanh nghiệp có vốn nhà nước theo
nguyên tắc: Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết
yếu, những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh, những lĩnh vực mà doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư; tối đa hoá giá trị bán vốn
nhà nước. Tập trung xử lý dứt điểm các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp,
các dự án, công trình đầu tư không hiệu quả, thua lỗ kéo dài, kể cả bằng biện
pháp giải thể, phá sản. Bảo đảm vốn, tài sản của Nhà nước và giá trị doanh nghiệp
được định giá đầy đù, hợp lý, công khai, minh bạch. Nghiêm cấm và xử lý nghiêm
minh các trường hợp định giá thấp tài sản, vốn của Nhà nước và giá trị doanh
nghiệp không đúng quy định của pháp luật để trục lợi, gây thất thoát tài sản, vốn
nhà nước.
3.2- Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để
doanh nghiệp nhà nước thật sự vận hành theo cơ chế thị trường
Doanh nghiệp nhà nước phải đáp ứng các chuẩn
mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp; thật sự hoạt động theo cơ chế thị trường,
tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật, bảo đảm công khai, minh bạch
và trách nhiệm giải trình. Tách bạch nhiệm
vụ kinh doanh và nhiệm vụ chính trị, công ích của doanh nghiệp nhà nước. Doanh
nghiệp nhà nước kinh doanh hoạt động hoàn toàn theo cơ chế thị trường nhằm mục
tiêu lợi nhuận. Việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, xã hội do Nhà nước giao được
triển khai theo cơ chế Nhà nước đặt hàng, lựa chọn cạnh tranh, công khai; xác định
rõ giá thành, chi phí thực hiện, trách nhiệm và quyền lợi của Nhà nước, doanh
nghiệp nhà nước.
Xóa bỏ các chính sách can thiệp hành chính trực
tiếp, bao cấp dành cho doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước, nhất là
các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước phải đi đầu trong ứng dụng công nghệ,
kỹ thuật hiện đại, sử dụng tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường; hạn chế
tình trạng sản xuất kinh doanh khép kín, cục bộ, không minh bạch trong doanh
nghiệp nhà nước.
3.3- Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của
hệ thống quản trị và nâng cao năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ quản lý
doanh nghiệp nhà nước
Xây dựng và áp dụng khung quản trị doanh nghiệp
với các nguyên tắc phù hợp với chuẩn mực quốc tế tại các doanh nghiệp nhà nước,
nhất là đối với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Thiết lập các hệ thống quản
trị, kiểm soát nội bộ có hiệu quả trong việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn
và xử lý vi phạm pháp luật, rủi ro, xung đột lợi ích, “lợi ích nhóm”, “sân sau”,
lạm dụng chức vụ, quyền hạn, tiêu cực, tham nhũng. Người đứng đầu doanh nghiệp
nhà nước chịu trách nhiệm trực tiếp trước pháp luật và Nhà nước về toàn bộ hoạt
động của doanh nghiệp.
Ban kiểm soát, kiểm soát viên phải thực sự là
công cụ giám sát hữu hiệu của chủ sở hữu, hoạt động độc lập và không chịu sự
lãnh đạo, chỉ đạo hoặc chi phối về lợi ích của hội đồng thành viên, hội đồng quản
trị và ban điều hành của doanh nghiệp. Thực hiện cơ chế tiền lương, tiền thưởng,
thù lao của người lao động và người quản lý doanh nghiệp nhà nước phù hợp với
cơ chế thị trường, có tính cạnh tranh cao dựa trên cơ sở kết quả sản xuất kinh
doanh. Tách người quản lý doanh nghiệp nhà nước khỏi chế độ viên chức, công chức,
sắp xếp, tinh gọn và nâng cao hiệu quả tổ chức bộ máy, biên chế của doanh nghiệp
nhà nước; cơ cấu lại, bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ; tăng cường bồi dưỡng, đào tạo,
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực lãnh đạo và tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống của cán bộ doanh nghiệp nhà nước. Bảo đảm tính minh bạch,
công khai và trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là về
tài chính, đầu tư, mua sắm, sử dụng vốn của Nhà nước, công tác cán bộ, giao dịch
với người có liên quan đến người quản lý.
3.4- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước đối với doanh nghiệp nhà nước
Hoàn thiện chức năng quản lý của Nhà nước đối
với doanh nghiệp nhà nước. Rà soát, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ
chế, chính sách về doanh nghiệp nhà nước. Tăng cường công tác chỉ đạo, tiếp tục
đổi mới, nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm
toán, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước.
Hoàn thiện tổ chức quản lý để thực hiện chức năng Nhà nước là chủ sở hữu đối với
doanh nghiệp nhà nước; bảo đảm quyền tự chủ của doanh nghiệp nhà nước trong hoạt
động theo nguyên tắc thị trường; khẩn trương hoàn thiện mô hình quản lý, giám
sát doanh nghiệp và vốn, tài sản của Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp. Khẩn
trương thành lập một cơ quan chuyên trách của Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu
đối với doanh nghiệp nhà nước.
3.5- Đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả
lãnh đạo của tổ chức đảng; phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp tại doanh nghiệp
nhà nước
- Đổi mới mô hình tổ chức và phương thức
lãnh đạo của tổ chức đảng tại doanh nghiệp nhà nước. Đảng lãnh đạo
thông qua tổ chức đảng và đảng viên trong doanh nghiệp nhà nước. Nâng cao hiệu
quả và vai trò lãnh đạo toàn diện của tổ chức đảng tại doanh nghiệp nhà
nước trong việc chấp hành chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, xây dựng và thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, sử dụng, bảo toàn
và phát triển vốn của Nhà nước, công tác chính trị, tư tưởng, công tác
cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng
phí; lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội trong doanh nghiệp, phát huy dân
chủ cơ sở. Quy định rõ trách nhiệm của cấp uỷ, người đứng đầu tổ chức đảng trong
doanh nghiệp nhà nước khi để xảy ra thua lỗ, tổn thất trong hoạt động và
vi phạm chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Triển khai thực hiện nghiêm túc Quy định số
69-QĐ/TW ngày 13/02/2017 của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ
chức bộ máy của đảng uỷ cấp trên cơ sở trong doanh nghiệp nhà nước và doanh
nghiệp có vốn nhà nước chi phối.
- Bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất giữa các quy
định của Đảng với các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về công tác tổ chức
và cán bộ dựa trên nguyên tắc: Đảng lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và thống
nhất quản lý cán bộ trong doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế,
tổng công ty nhà nước.
- Lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt sâu sắc,
tuyên truyền sâu rộng, nâng cao nhận thức trong hệ thống chính trị và sự
đồng thuận trong xã hội về quan điểm, mục tiêu, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu
quả doanh nghiệp nhà nước. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận
đầy đủ thông tin và tham gia giám sát hoạt động của doanh nghiệp nhà
nước.
- Phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động của doanh
nghiệp nhà nước và công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp
nhà nước, nhất là đối với việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao
hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
- Đổi mới, hoàn thiện mô hình tổ chức và nâng
cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội tại doanh nghiệp nhà
nước. Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội -
nghề nghiệp trong quá trình triển khai thực hiện chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về doanh nghiệp nhà nước; bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động trong doanh nghiệp
nhà nước.
4- Tổ chức thực hiện
Giao cho Quốc hội, Chính phủ; các ban, bộ, ngành, địa phương, đơn
vị lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết.
Các cấp ủy Đảng xây dựng chương trình, kế hoạch hành động thực hiện
nghị quyết với lộ trình và phân công cụ thể trách nhiệm cho các cơ quan, đơn vị
thực hiện phù hợp với điều kiện cụ thể.
------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét