Thứ Năm, 13 tháng 7, 2017

TÀI LIỆU HỌC TẬP QUÁN TRIỆT CÁC NGHỊ QUYẾT TW5 KHÓA XII

TÀI LIỆU
GIỚI THIỆU, QUÁN TRIỆT, TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN
NỘI DUNG CƠ BẢN CÁC NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ LẦN THỨ NĂM BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG KHÓA XII
---
         
A- Phần I: Khái quát về Hội nghị Trung ương 5 khóa XII
          Thực hiện chương trình làm việc toàn khóa, từ ngày 5 đến ngày 10/5/2017, tại Thủ đô Hà Nội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã họp Hội nghị lần thứ năm để thảo luận, thông qua Nghị quyết Hội nghị gồm ba nghị quyết chuyên đề và một số nội dung quan trọng sau:
- Thứ nhất, Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Thứ hai, Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017 về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Thứ ba, Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 03/6/2017 về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
Ngoài 03 Nghị quyết nêu trên, tại Hội nghị này, Ban Chấp hành Trung ương đã bàn và thông qua Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm 2016 gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; xem xét thi hành kỷ luật cán bộ và một số vấn đề quan trọng khác.

B- Phần II: Nội dung, quan điểm cơ bản của Đảng trong các nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII
(Trong quá trình truyền đạt, giới thiệu, tuyên truyền, phổ biến Nghị quyết, cùng với những nội dung cơ bản, cốt lõi của Nghị quyết, báo cáo viên cần nghiên cứu kỹ các chỉ thị, nghị quyết đã ban hành; đồng thời, gắn với Nghị quyết Đại hội XVIII Đảng bộ tỉnh và các chương trình, đề án của tỉnh, nghị quyết đại hội đảng các cấp; tình hình thực tiễn của địa phương, đơn vị, ngành mình những vấn đề có liên quan đến Nghị quyết).
I- Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Sự cần thiết ban hành Nghị quyết
Trong hơn 30 năm đổi mới và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn quan tâm phát triển và coi trọng các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân, bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Để phát triển kinh tế tư nhân, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 14-NQ/TW ngày 18-3-2002 “Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân” (sau đây viết tắt là Nghị quyết số 14-NQ/TW). Qua 15 năm thực hiện, Nghị quyết số 14-NQ/TW đã góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển nhanh và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế, đồng thời góp phần hình thành, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để phát huy hơn nữa vai trò của kinh tế tư nhân, trên cơ sở tổng kết Nghị quyết số 14-NQ/TW, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3-6-2017 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cấu trúc của Nghị quyết gồm 4 phần chính sau:
- Tình hình và nguyên nhân.
- Quan điểm chỉ đạo và mục tiêu.
- Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu.
- Tổ chức thực hiện.
1- Tình hình và nguyên nhân
Ban Chấp hành Trung ương nhận định: Sau hơn 30 năm đổi mới, nhận thức của chúng ta về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân đã có những bước tiến quan trọng. Từ chỗ coi nhẹ đã thừa nhận kinh tế tư nhân “là một trong những động lực” và đến nay “là một động lực quan trọng” để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 15 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành và lãnh đạo tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp quan trọng về khuyến khích và tạo điều kiện để kinh tế tư nhân phát triển. Vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày càng được nhận thức rõ hơn và đánh giá đúng hơn.
Kinh tế tư nhân ngày càng phát triển, đóng góp lớn hơn trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, cơ cấu lại nền kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội. Tỉ trọng trong GDP của khu vực kinh tế tư nhân, bao gồm cả kinh tế cá thể duy trì ổn định khoảng 39 - 40%. Trong giai đoạn 3003 - 2015, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của kinh tế tư nhân là 10,2%/năm; thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, năm 2015, doanh nghiệp tư nhân thu hút 7.476 nghìn lao động, tăng hơn 2 lần so với năm 2002.
Bước đầu đã hình thành được một số tập đoàn kinh tế tư nhân có quy mô lớn, hoạt động đa ngành, có khả năng cạnh tranh tốt hơn trên thị trường trong nước và quốc tế; đội ngũ doanh nhân ngày càng lớn mạnh, từng bước nâng cao trách nhiệm đối với người lao động, cộng đồng, xã hội và đạo đức, văn hoá trong kinh doanh.
Phương thức quản lý của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân ngày càng phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Vai trò lãnh đạo của Đảng, hoạt động giám sát phản biện, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người lao động và người sử dụng lao động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp đối với khu vực kinh tế tư nhân được nâng lên. Các hiệp hội ngành nghề thực hiện ngày càng tốt hơn vai trò cầu nối giữa cộng đồng doanh nhân, doanh nghiệp với các cấp quản lý nhà nước; giúp doanh nghiệp nắm bắt kịp thới các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, ứng dụng khoa học - công nghệ và phát triển thị trường.
Số lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên trong các doanh nghiệp tăng lên qua từng năm. Tính đến ngày 30/6/2015, có 10.188 tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước (chủ yếu doanh nghiệp tư nhân), chiếm 1,74% tổng số doanh nghiệp, với trên 134 nghìn đảng viên, trong đó khoảng 2.300 đảng viên là chủ doanh nghiệp của tư nhân (trong thời gian thí điểm, từ tháng 1/2013 - 3/2016 đã kết nạp được 415 chủ doanh nghiệp tư nhân vào Đảng.
Tuy nhiên, kinh tế tư nhân cũng đã bộc lộ một số những hạn chế, yếu kém chủ yếu sau: Tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư nhân có xu hướng giảm trong những năm gần đây. Xuất phát điểm phát triển và năng lực nội tại của kinh tế tư nhân nhìn chung còn thấp; chủ yếu vẫn là kinh tế hộ, cá thể. Phần lớn doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ, trình độ công nghệ thấp và chậm đổi mới; trình độ quản trị, năng lực tài chính, năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh còn yếu kém; chủ yếu tham gia ở phân khúc thị trường có giá trị gia tăng thấp. Tình trạng vi phạm pháp luật, gian lận thượng mại, trốn thuế, nợ thuế, cạnh tranh không lành mạnh, gây ô nhiễm môi trường, không bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm, không quan tâm bảo đảm lợi ích của người lao động... diễn biến phức tạp, có nơi, có lúc rất nghiêm trọng. Khuôn khổ pháp lý và các cơ chế, chính sách khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển còn chưa đồng bộ và bất cập. Nhiều quy định của pháp luật, cơ chế, chính sách chưa được thực hiện nghiêm.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ yếu là: Chưa có sự thống nhất cao về lý luận và nhận thức đối với phát triển kinh tế tư nhân; thể chế về phát triển doanh nghiệp, doanh nhân còn nhiều bất cập. Chưa tạo được bước đột phá trong đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế tư nhân và cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước còn nhiều hạn chế. Việc thực hiện nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế tư nhân đạt hiệu quả chưa cao và còn chưa nghiêm túc. Xuất phát điểm phát triển và năng lực nội tại của kinh tế tư nhân thấp.
2- Quan điểm, định hướng chỉ đạo và mục tiêu
2.1- Quan điểm, định hướng chỉ đạo
Gồm 6 quan điểm, cụ thể:
Thứ nhất, phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh theo cơ chế thị trường là một yêu cầu khách quan, vừa cấp thiết, vừa lâu dài trong quá trình hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta; là một phương sách quan trọng để giải phóng sức sản xuất; huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển.
Thứ hai, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững, đa dạng với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng, quy mô, chất lượng và tỷ trọng đóng góp trong GDP.
Thứ ba, xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh và đúng định hướng. Phát huy mặt tích cực có lợi cho đất nước của kinh tế tư nhân, đồng thời tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm soát, thực hiện công khai, minh bạch, ngăn chặn, hạn chế mặt tiêu cực, nhất là phòng, chống mọi biểu hiện của "chủ nghĩa tư bản thân hữu”, quan hệ "lợi ích nhóm", thao túng chính sách, cạnh tranh không lành mạnh để trục lợi bất chính.
Thứ tư, kinh tế tư nhân được phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Phát huy phong trào khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo; nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để các hộ kinh doanh tự nguyện liên kết hình thành các hình thức tổ chức hợp tác hoặc hoạt động theo mô hình doanh nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước có đủ khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu.
Thứ năm, khuyến khích kinh tế tư nhân tham gia góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hóa hoặc Nhà nước thoái vốn. Thúc đẩy phát triển mọi hình thức liên kết sản xuất kinh doanh, cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo mạng sản xuất, chuỗi giá trị thị trường giữa kinh tế tư nhân với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm tiếp nhận, chuyển giao, tạo sự lan tỏa rộng rãi về công nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng và mở rộng thị trường tiêu thụ.
Thứ sáu, chăm lo bồi dưỡng, giáo dục, nâng cao nhận thức chính trị, tinh thần tự lực, tự cường, lòng yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, gắn bó với lợi ích của đất nước và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của các chủ doanh nghiệp. Phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng vững mạnh, có ý thức chấp hành pháp luật, trách nhiệm với xã hội và kỹ năng lãnh đạo, quản trị cao; chú trọng xây dựng văn hóa doanh nghiệp, đạo đức doanh nhân.
2.2- Mục tiêu:
- Mục tiêu tổng quát: Phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh, hiệu quả, bền vững, thực sự là một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
- Các mục tiêu cụ thể: gồm 3 mục tiêu
(1) Chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh doanh trong khu vực kinh tế tư nhân. Phấn đấu đến năm 2020 có ít nhất 1 triệu doanh nghiệp; đến năm 2025 có hơn 1,5 triệu doanh nghiệp và đến năm 2030 có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp;
(2) Tốc độ tăng trưởng kinh tế tư nhân cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Phấn đấu tăng tỉ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP để đến năm 2020 là khoảng 50%, năm 2025 khoảng 55%, đến năm 2030 là khoảng 60 - 65%;
(3) Bình quân giai đoạn 2016 - 2025, năng suất lao động tăng khoảng 4 - 5%/năm. Thu hẹp khoảng cách về trình độ công nghệ, chất lượng nhân lực và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với nhóm dẫn đầu ASEAN 4; nhiều doanh nghiệp của khu vực tư nhân có hoạt động đổi mới, sáng tạo, tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị trong nước, khu vực và toàn cầu.
3- Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu
Gồm 5 nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, thống nhất cao về nhận thức, tư tưởng, hành động trong triển khai các chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế tư nhân
Nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội về khuyến khích, tạo mọi điều kiện phát triển kinh tế tư nhân, về chức năng của Nhà nước và thị trường trong nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập.
Tổng kết một số mô hình doanh nghiệp tư nhân ở nước ta hiện nay để có cơ sở lãnh đạo, chỉ đạo. Phát huy thế mạnh và tiềm năng to lớn của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế - xã hội phải đi đôi với khắc phục triệt để những mặt trái phát sinh trong quá trình phát triển kinh tế tư nhân.
Phòng, chống có hiệu quả các biểu hiện suy thoại về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong xây dựng và tổ chức thực hiện chủ trương, cơ chế, chính sách đối với kinh tế tư nhân.
Hai là, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển kinh tế tư nhân
Triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát ở mức hợp lý, đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và thực hiện ba đột phá chiến lược. Phối hợp đồng bộ giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài khoá và các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng, hạn chế sự gia tăng nợ công, lấn át đầu tư của khu vực tư nhân.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút đầu tư tư nhân và bảo đảm hoạt động của kinh tế tư nhân theo cơ chế thị trường: Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản hợp pháp, quyền và nghĩa vụ dân sự của các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật. Mọi biện pháp khuyến khích, hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân phải phù hợp với nguyên tắc thị trường và thúc đẩy tính tự chủ, cạnh tranh của kinh tế tư nhân, không biến các cơ chế, chính sách hỗ trợ thành bao cấp, phục vụ “nhóm lợi ích” dưới mọi hình thức.
Mở rộng khả năng tham gia thị trường và thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng. Rà soát, xoá bỏ các cơ chế, chính sách tạo ra bất bình đẳng giữa kinh tế tư nhân và các thành phần kinh tế khác, giữa các chủ thể của kinh tế tư nhân, nhất là trong cạnh tranh và tiếp cận nguồn lực xã hội, các yếu tố sản xuất, cơ hội kinh doanh, tham gia thị trường, mà trọng tâm là đất đai, vốn, nguồn lực của Nhà nước. Tăng cường tính minh bạch đối với độc quyền nhà nước, độc quyền doanh nghiệp và kiểm soát độc quyền kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. Xoá bỏ các chính sách hành chính can thiệp trực tiếp vào thị trường và sản xuất kinh doanh, nhất là giá cả hàng hoá, dịch vụ.
Tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân tham gia vào quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước thông qua góp vốn, mua cổ phần để hình thành các tổ chức sản xuất kinh doanh hỗn hợp, có năng lực tài chính, quy mô hoạt động lớn, công nghệ và quản trị hiện đại, nhất là sớm phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu có khả năng cạnh tranh ở thị trường trong nước và quốc tế.
Phát triển nhanh hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại nhằm hỗ trợ sản xuất kinh doanh và tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân tiếp cận, sử dụng thuận lợi, bình đẳng với chi phí hợp lý, bảo đảm tính công khai, minh bạch.
Khẩn trương hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về đất đai, quản lý tài nguyên và môi trường tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân tiếp cận đất đai, các nguồn tài nguyên một cách minh bạch, bình đẳng theo cơ chế thị trường, phục vụ sản xuất kinh doanh
Ba là, hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hoá công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động
Khuyến khích kinh tế tư nhân đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu, phát triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ tiên tiến, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo nhằm nâng cao năng suất lao động.
Đẩy mạnh thực hiện chiến lược quốc gia về phát triển nguồn nhân lực với hệ thống chính sách, giải pháp đồng bộ. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Chú trọng xây dựng, nâng cao văn hoá doanh nghiệp và đạo đức doanh nhân.
Khuyến khích, động viên và lan toả tinh thần, ý chí khởi nghiệp, kinh doanh và đổi mới, sáng tạo trong toàn xã hội, nhất là cộng đồng doanh nghiệp; xây dựng thương hiệu và chữ tín trong kinh doanh...
Bốn là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
Xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ chuyên môn nghiệp vụ tốt, tư tưởng chính trị vững vàng, trách nhiệm cao và liêm chính.
Tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, trách nhiệm giải trình của các bộ, ngành, chính quyền địa phương các cấp đối với việc chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân nhưng phải bảo đảm không làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh và tạo gánh nặng tâm lý đối với người dân và doanh nghiệp. Phòng, chống, xoá bỏ mọi biểu hiện của “chủ nghĩa tư bản thân hữu”, quan hệ “lợi ích nhóm” trong xây dựng và thực thi pháp luật, cơ chế, chính sách đối với kinh tế tư nhân.
Nâng cao năng lực tổ chức quản lý nhà nước về kinh tế tư nhân. Đẩy mạnh cải cách hành chính mà trọng tâm là tạo bước đột phá trong cải cách thủ tục hành chính. Đơn giản hoá, rút ngắn thời gian xử lý các thủ tục hành chính, nhất là về thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh, cấp phép, thuế, xuất khẩu, nhập khẩu, giải quyết tranh chấp, tố tụng, xét xử, thi hành án dân sự, kinh tế, phá sản.
Hoàn thiện và công khai, minh bạch hệ thống thông tin kinh tế - xã hội, cơ sở dữ liệu văn bản quy phạm pháp luật, các quy hoạch, kế hoạch, chiến lược phát triển, cơ chế, chính sách quản lý để tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận khai thác và sử dụng.
Năm là, đổi mới nội dung, phương thức và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp đối với kinh tế tư nhân
Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng và hiệu quả hoạt động của các tổ chức đảng trong khu vực kinh tế tư nhân phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng cường chỉ đạo công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, tạo sự thống nhất cao trong hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân. Có giải pháp thực hiện chủ trương phát triển đảng trong khu vực kinh tế tư nhân. Coi trọng công tác sơ kết, tổng kết việc thực hiện các chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân; bảo đảm giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương của Đảng trong khu vực kinh tế tư nhân.
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong phát triển kinh tế tư nhân.

4- Tổ chức thực hiện
Giao cho Quốc hội, Chính phủ; các ban, bộ, ngành, địa phương, đơn vị lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết.
Các cấp ủy xây dựng kế hoạch hành động thực hiện nghị quyết với các nhiệm vụ, giải pháp, lộ trình phù hợp và phân công trách nhiệm cụ thể cho các cơ quan, đơn vị thực hiện.
II- Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017 về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
 Sự cần thiết ban hành Nghị quyết
Qua hơn 30 năm đổi mới, nhất là từ khi thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa X, Đảng ta luôn quan tâm tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, rút ra các bài học kinh nghiệm, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển, góp phần quan trọng đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an sinh xã hội, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, bảo vệ môi trường sinh thái, củng cố quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu quả đối ngoại, hội nhập quốc tế.
 Thực hiện Chương trình làm việc toàn khóa của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Bộ Chính trị đã thành lập Ban Chỉ đạo, giao Ban Kinh tế Trung ương là cơ quan thường trực giúp Ban Chỉ đạo tiến hành tổng kết và xây dựng Đề án “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa X).
Mục tiêu của Đề án là tổng kết 10 năm (2008 - 2017) thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; kiến nghị, đề xuất các chủ trương, chính sách và giải pháp lớn nhằm thực hiện có kết quả Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế đến năm 2020 và năm 2030.
Trên cơ sở Đề án “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, tại Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, Ban Chấp hành Trung ương đã thống nhất ban hành Nghị quyết số 11 -NQ/TW ngày 3-6-2017 về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
 Cấu trúc của Nghị quyết gồm 4 phần chính sau:
- Tình hình và nguyên nhân.
- Quan điểm chỉ đạo và mục tiêu.
- Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu.
- Tổ chức thực hiện.
1- Về tình hình và nguyên nhân
Trung ương nhận định: Mười năm qua (2008 - 2017), việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khoá X và các chủ trương, quan điểm của Đảng về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã góp phần quan trọng từng bước định hình nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành quốc gia có thu nhập trung bình; phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, phát triển y tế, giáo dục, văn hoá, xã hội, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, bảo vệ môi trường sinh thái, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách ngày càng hoàn thiện và phù hợp hơn với luật pháp quốc tế. Từ khi ban hành Nghị quyết Trung ương 6 khóa X đến nay, Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành 191 bộ luật, luật, pháp lệnh; trong đó, có khoảng 120 (chiếm hơn 60%) bộ luật, luật, pháp lệnh liên quan trực tiếp tới hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành đồng bộ hơn, gắn kết với thị trường khu vực và thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, từng bước thích ứng với nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu. Đến nay, Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới, tích cực tham gia xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN, tham gia và ký kết 9 hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương khác; thiết lập quan hệ kinh tế, thương mại với hơn 220 quốc gia, vùng lãnh thổ và là thành viên của 70 tổ chức khu vực và quốc tế.
Tuy nhiên, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện còn chậm, thiếu kiên quyết. Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng. Cơ cấu lại nền kinh tế, thực hiện ba đột phá chiến lược, hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả chưa cao. Một số loại thị trường chậm hình thành và phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc, kém hiệu quả, nhất là các thị trường quyền sử dụng đất, khoa học - công nghệ, lao động, dịch vụ y tế, giáo dục - đào tạo… Thị trường bất động sản phát triển không bền vững. Thị trường tài chính phát triển thiếu cân bằng và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Thị trường chứng khoán chưa thực sự trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế; Thể chế bảo đảm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội còn nhiều bất cập. Môi trường đầu tư, kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, mức độ minh bạch, ổn định chưa cao. Việc tiếp cận các nguồn lực xã hội chưa bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế, quyền sở hữu tài sản, nhất là quyền của người góp vốn chưa được bảo đảm thực thi đầy đủ. Việc cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước và thoái vốn nhà nước còn chậm, hiệu quả kinh doanh của phần lớn doanh nghiệp nhà nước còn thấp, nhiều dự án đầu tư kém hiệu quả, thua lỗ, thất thoát, không thể phục hồi. Kinh tế tập thể chậm phát triển; sản xuất nông nghiệp vẫn chủ yếu theo mô hình kinh tế hộ nhỏ lẻ, phân tán. Phần lớn kinh tế tư nhân là các hộ cá thể, các doanh nghiệp quy mô nhỏ và siêu nhỏ, phát triển còn manh mún. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động chủ yếu trong các ngành sử dụng nhiều lao động, khai thác tài nguyên; ít liên kết, chuyển giao công nghệ và quản trị tiên tiến cho các doanh nghiệp trong nước. Đổi mới khu vực sự nghiệp công và xã hội hoá cung cấp dịch vụ công còn chậm.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan, song nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Trong đó năng lực xây dựng và thực thi thể chế còn nhiều bất cập, năng lực phân tích, dự báo còn hạn chế. Cơ chế thực thi và phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương kém hiệu lực, hiệu quả. Công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán và xử lý vi phạm hiệu quả còn thấp.
2- Về quan điểm chỉ đạo và mục tiêu
2.1- Về quan điểm chỉ đạo: Có 5 quan điểm chỉ đạo:
Thứ nhất, xây dựng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ chiến lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo động lực để phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững; đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững.
Thứ hai, nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn kết hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá và bảo vệ môi trường, đồng thời bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Thứ ba, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình phát triển liên tục; kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại và kinh nghiệm từ thực tiễn đổi mới ở nước ta; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, nhưng phải đảm bảo giữa vững độc lập, chủ quyền quốc gia, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Thứ tư, hoàn thiện thể chế kinh tế phải đi đôi với đổi mới, hoàn thiện bộ máy tổ chức, cán bộ của toàn hệ thống chính trị; xác định rõ và thực hiện đúng vị trí, vai trò, chức năng và mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội phù hợp với kinh tế thị trường; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ năm, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị. Đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.2- Mục tiêu:
- Mục tiêu tổng quát: Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo tiền đề vững chắc cho việc xây dựng thành công và vận hành đồng bộ, thông suốt mô hình hoàn chỉnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; góp phần huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả nhất mọi nguồn lực để thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
- Mục tiêu cụ thể đến năm 2020: Phấn đấu hoàn thiện một bước đồng bộ hơn hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các chuẩn mực phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Cơ bản bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường; sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững. Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
- Mục tiêu đến năm 2030: Hoàn thiện đồng bộ và vận hành có hiệu quả thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
3- Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu
Gồm 6 nhiệm vụ, giải pháp sau:
3.1- Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước; là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
- Tính hiện đại và hội nhập quốc tế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thể hiện ở chỗ: Kế thừa có chọn lọc những thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại, kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn 30 năm đổi mới; có hệ thống pháp luật, các thiết chế, cơ chế, chính sách và các yếu tố thị trường, các loại thị trường đầy đủ, đồng bộ, vận hành thông suốt, gắn kết chặt chẽ với thị trường và các nền kinh tế trên thế giới; vai trò, chức năng của Nhà nước và thị trường được xác định, thực hiện phù hợp với thông lệ, nguyên tắc, chuẩn mực phổ biến của thế giới đương đại.
Định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế từng bước được xác lập và tăng cường thông qua sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, lấy con người làm trung tâm, vì mọi người và do con người; phát huy đầy đủ vai trò làm chủ của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển và bảo vệ tài nguyên, môi trường. Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.
- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng phát triển theo pháp luật. Khuyến khích làm giàu hợp pháp. Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.
3.2- Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp
* Hoàn thiện thể chế về sở hữu
- Thể chế hoá đầy đủ quyền tài sản (quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt và hưởng lợi từ sử dụng tài sản) của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm công khai, minh bạch về nghĩa vụ và trách nhiệm trong thủ tục hành chính nhà nước và dịch vụ công để quyền tài sản được giao dịch thông suốt; bảo đảm hiệu lực thực thi và bảo vệ có hiệu quả quyền sở hữu tài sản.
- Hoàn thiện pháp luật về đất đai để huy động và sử dụng hiệu quả đất đai, khắc phục tình trạng sử dụng đất lãng phí, đẩy mạnh việc dồn điền đổi thửa. Xác lập các thể chế thuận lợi cho việc mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp phù hợp với từng khu vực, chuyển nhượng hoặc cho thuê quyền sử dụng đất, góp cổ phần bằng quyền sử dụng đất nhằm thúc đẩy tích tụ và tập trung ruộng đất, tạo điều kiện phát triển nông nghiệp hàng hoá quy mô lớn, áp dụng công nghệ cao, phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, đồng thời bảo đảm việc làm và đời sống của nông dân.
* Hoàn thiện thể chế phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp
- Thực hiện nhất quán một mặt bằng pháp lý và điều kiện kinh doanh cho các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế. Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. Xây dựng các cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế đất nước.
- Hoàn thiện pháp luật về đầu tư, kinh doanh, xoá bỏ các rào cản đối với hoạt động đầu tư kinh doanh; bảo đảm quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh tế đã được Hiến pháp quy định. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; giảm cơ bản gánh nặng chi phí trung gian, bất hợp lý đối với doanh nghiệp. Hoàn thiện các quy định liên quan đến khởi nghiệp để khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động khởi nghiệp theo các quy định pháp luật.
- Hoàn thiện thể chế về cạnh tranh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh; xử lý dứt điểm tình trạng chồng chéo các quy định về điều kiện kinh doanh; khắc phục tình trạng ban hành trái thẩm quyền các quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh. Tăng cường tính minh bạch về độc quyền nhà nước. Xoá bỏ các chính sách can thiệp hành chính trực tiếp, bao cấp của Nhà nước đối với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
3.3- Hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường
* Hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường
- Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; bảo đảm tính đúng, tính đủ và công khai, minh bạch các yếu tố hình thành giá hàng hoá, dịch vụ công thiết yếu. Không lồng ghép các chính sách xã hội trong giá hàng hoá, dịch vụ. Chuyển từ cơ chế cấp phát sang đặt hàng, từ hỗ trợ cho các đơn vị cung cấp dịch vụ sang hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng thụ hưởng. Hoàn thiện các quy định pháp luật về phí, lệ phí theo hướng chuyển sang áp dụng giá dịch vụ phù hợp với cơ chế thị trường. Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, phát huy đúng và đầy đủ vai trò chủ thể của người tiêu dùng, các hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong nền kinh tế.
- Cải cách mạnh mẽ chính sách tài chính về đất đai theo hướng đơn giản, ổn định, công khai, minh bạch và công bằng. Nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về thuế tài sản, nhất là về đất đai, bất động sản. Bảo đảm minh bạch thông tin về thị trường quyền sử dụng đất. Xác định giá trị quyền sử dụng đất theo cơ chế thị trường thông qua đấu giá, đấu thầu các dự án có sử dụng đất, thoả thuận mua bán trên thị trường; áp dụng phổ biến việc xác định giá trị quyền sử dụng đất thông qua các tổ chức thẩm định giá độc lập, chuyên nghiệp. Rà soát, điều chỉnh khung giá quyền sử dụng đất phù hợp với thị trường ở từng địa phương. Tăng cường áp dụng phương thức cho thuê đất.
- Thực hiện bình đẳng trong tiếp cận các yếu tố đầu vào của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Hoàn thiện và thực thi có hiệu quả các quy định của pháp luật về công khai, minh bạch trong tiếp cận các nguồn lực công, mua sắm và đầu tư công. Tăng cường tính minh bạch đối với độc quyền nhà nước; kiểm soát, ngăn chặn, xoá bỏ độc quyền doanh nghiệp. Hoàn thiện thể chế phân bổ nguồn lực theo cơ chế thị trường vào những ngành, lĩnh vực và địa bàn đạt hiệu quả cao, có tác động lan toả. Hoàn thiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp theo cơ chế thị trường, thể chế bảo vệ nhà đầu tư, quyền sở hữu và quyền tài sản; không hình sự hoá các mối quan hệ kinh tế và dân sự.
* Hoàn thiện thể chế để phát triển đồng bộ, vận hành thông suốt các thị trường
- Thị trường hàng hoá, dịch vụ: Đẩy mạnh phát triển thị trường hàng hoá, dịch vụ, gồm cả xuất nhập khẩu, thị trường trong nước và biên mậu; phát triển hạ tầng thương mại. Thực hiện tự do hoá thương mại phù hợp với các cam kết quốc tế. Phát triển mạnh các phương thức giao dịch thị trường hiện đại. Xây dựng và thực hiện các tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá, vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường phù hợp với yêu cầu trong nước và cam kết quốc tế, bảo vệ hợp lý thị trường trong nước, không để bị nước ngoài thâu tóm, thao túng.
Phát triển các thị trường dịch vụ, nhất là các dịch vụ có hàm lượng tri thức và công nghệ cao. Hình thành khung pháp lý cho phát triển những thị trường mới, nhất là về công nghiệp môi trường, công nghiệp văn hoá...
- Thị trường tài chính: Thực hiện có hiệu quả chủ trương cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững. Đổi mới cơ chế phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nước, quản lý tài sản công. Đẩy mạnh hợp tác công - tư. Tiếp tục đổi mới chính sách thuế. Phát triển cân bằng, đồng bộ thị trường tài chính. Đẩy mạnh hoạt động và nâng cao hiệu quả của thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu để trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng cho nền kinh tế; xây dựng đầy đủ khung khổ pháp lý để thị trường mua bán nợ được hình thành và hoạt động có hiệu quả theo cơ chế thị trường. Phát triển thị trường bảo hiểm. Phát triển mạnh các thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán, tư vấn thuế, thẩm định giá hỗ trợ cho hoạt động của các tổ chức, cá nhân và góp phần nâng cao tính minh bạch của thị trường.
- Thị trường tiền tệ: Rà soát, sửa đổi pháp luật bảo đảm thực hiện chính sách tiền tệ theo mục tiêu kiểm soát lạm phát, phối hợp có hiệu quả giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá và các chính sách khác để ổn định kinh tế vĩ mô và cân đối lớn về tài chính - tiền tệ của nền kinh tế. Điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và thị trường tiền tệ. Điều hành tỉ giá linh hoạt theo tín hiệu thị trường. Tăng tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước trong điều hành chính sách tiền tệ. Hoàn thiện khung khổ pháp lý về tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu, bảo đảm nguyên tắc thị trường; bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền và người cho vay; bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng. Xử lý dứt điểm các tổ chức tín dụng yếu kém và tình trạng đầu tư chéo, sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng. Nâng cao năng lực tài chính, quản trị, điều hành phù hợp với chuẩn mực quốc tế; phát triển nhanh dịch vụ tài chính, ngân hàng.
- Thị trường khoa học, công nghệ: Đổi mới, phát triển mạnh mẽ và đồng bộ thị trường khoa học, công nghệ. Tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Có chính sách hỗ trợ, khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất kinh doanh. Xác định doanh nghiệp là lực lượng chính trong phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.
- Thị trường bất động sản và quyền sử dụng đất: Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để phát triển và vận hành thông suốt thị trường bất động sản nhằm sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả đất đai và tài sản, kết cấu hạ tầng trên đất. Xây dựng thể chế và các mô hình phù hợp để gắn kết quá trình công nghiệp hoá với đô thị hoá và xây dựng nông thôn mới. Xây dựng chính sách xã hội về nhà ở.
Tập trung xây dựng thể chế, hoàn thiện khung pháp lý phát triển thị trường sơ cấp, thứ cấp về quyền sử dụng đất, kể cả đất nông nghiệp; bảo đảm thị trường quyền sử dụng đất hoạt động công khai, minh bạch, có trật tự. Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường cho thuê đất nông nghiệp. Nghiên cứu hoàn thiện khung khổ pháp lý về thuế sử dụng tài sản, nhất là về sử dụng đất đai.
- Thị trường lao động: Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển đồng bộ, liên thông thị trường lao động cả về quy mô, chất lượng lao động và cơ cấu ngành nghề; có cơ chế, chính sách để định hướng dịch chuyển lao động, phân bổ hợp lý lao động theo vùng. Lao động di cư và gia đình được tiếp cận bình đẳng các dịch vụ xã hội.
3.4- Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo đảm phát triển bền vững, tiến bộ và công bằng xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu
- Tích cực thực hiện Chương trình nghị sự 2030 về phát triển bền vững của Liên hợp quốc; từng bước triển khai chiến lược tăng trưởng xanh. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế nhanh và bền vững với phát triển xã hội bền vững, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, tạo cơ hội cho mọi thành viên trong xã hội tham gia bình đẳng và thụ hưởng công bằng thành quả từ quá trình phát triển. Phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, thống nhất; huy động sự tham gia của các thành phần xã hội vào thực thi chính sách an sinh xã hội, khuyến khích người dân tham gia tự bảo đảm an sinh xã hội, tập trung nguồn lực thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững.
- Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, nâng cao năng lực thực thi thể chế và tăng cường hiệu quả cơ chế giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.
- Hoàn thiện thể chế về kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Có cơ chế huy động các nguồn lực xã hội tham gia phát triển kinh tế các vùng biên giới trên đất liền, trên biển và hải đảo; phát triển các khu kinh tế - quốc phòng. Phát triển mạnh các ngành kinh tế biển gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo. Hoàn thiện cơ chế, chính sách đặc thù đối với doanh nghiệp quốc phòng, an ninh, gắn kết chặt chẽ giữa công nghiệp quốc phòng, an ninh với công nghiệp dân sinh trong tổng thể chính sách công nghiệp quốc gia.
- Xây dựng thể chế liên kết vùng, hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế vùng trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của từng địa phương. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, ưu tiên phát triển các vùng kinh tế động lực, đồng thời có chính sách hỗ trợ các vùng còn nhiều khó khăn; thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, địa phương; xây dựng một số đặc khu kinh tế - hành chính với thể chế vượt trội để tạo cực tăng trưởng và thử nghiệm thể chế phát triển vùng có tính đột phá. Chính phủ quy định mô hình điều phối liên kết vùng, xác định địa phương đầu tàu và nhiệm vụ của từng địa phương trong vùng.
3.5- Hoàn thiện thể chế đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế
- Triển khai và thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
- Rà soát, điều chỉnh, bổ sung hệ thống pháp luật và các thể chế liên quan đáp ứng yêu cầu thực hiện các cam kết quốc tế. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế phối hợp điều hành giữa các bộ, ngành, địa phương trong thực thi các cam kết hội nhập và tiếp cận thị trường. Đổi mới công tác xúc tiến thương mại và đầu tư, cung cấp thông tin, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển thị trường, nhất là thị trường xuất khẩu. Nâng cao năng lực phòng ngừa, giải quyết tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế.
- Thực hiện nhất quán chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá trong hợp tác kinh tế quốc tế, không để lệ thuộc vào một số ít thị trường. Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tiềm lực của các doanh nghiệp trong nước. Xây dựng và thực hiện các cơ chế phù hợp với thông lệ quốc tế để phản ứng nhanh nhạy trước các diễn biến bất lợi trên thị trường thế giới, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong nước.
3.6- Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, vai trò xây dựng và thực hiện thể chế kinh tế của Nhà nước; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
* Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng về kinh tế - xã hội.
- Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Đảng. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận và việc xây dựng, ban hành nghị quyết của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao năng lực và hiệu quả công tác tham mưu về kinh tế - xã hội ở các cấp, các ngành.
- Tăng cường lãnh đạo việc thể chế hoá và việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về kinh tế - xã hội.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng; phát hiện và giải quyết đúng đắn, kịp thời các vấn đề lớn, quan trọng về kinh tế - xã hội của đất nước.
* Nâng cao năng lực xây dựng và thực hiện thể chế của Nhà nước
- Nhà nước thể chế hoá nghị quyết của Đảng, xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật; tăng cường sự phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp; xoá bỏ cơ chế xin - cho; bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, môi trường đầu tư, kinh doanh; khắc phục các khiếm khuyết của thị trường; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính. Đổi mới phương thức quản lý nhà nước về kinh tế; thực hiện đúng và đầy đủ chức năng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Điều hành nền kinh tế không chỉ bảo đảm mục tiêu ngắn hạn mà còn hướng tới thực hiện các mục tiêu trung và dài hạn. Đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nâng cao năng lực phân tích, dự báo. Đổi mới công tác thống kê phù hợp với thông lệ quốc tế. Bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật; nâng cao hiệu quả công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán và xử lý nghiêm những hành vi vi phạm pháp luật.
- Nghiên cứu, rà soát, đổi mới việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Nâng cao chất lượng văn bản pháp luật, bảo đảm tính minh bạch, tính nhất quán và dự đoán được của pháp luật.
- Rà soát, cơ cấu lại bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả; từng bước tách chức năng xây dựng chính sách và hành chính công với chức năng quản lý, điều tiết thị trường và thực hiện quyền sở hữu vốn nhà nước.
- Đẩy mạnh cải cách tư pháp. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả của các thiết chế giải quyết tranh chấp dân sự, kinh doanh, thương mại, trọng tâm là các hoạt động hòa giải, trọng tài thương mại và tòa án nhân dân các cấp, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân và doanh nghiệp.
* Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, sự tham gia của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp.
- Thể chế hóa các quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân, quyền và nghĩa vụ của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp.
- Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.
- Tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức xã hội - nghề nghiệp tham gia vào các chương trình, dự án hỗ trợ doanh nghiệp của Chính phủ, thúc đẩy các hình thức liên kết doanh nghiệp, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp thâm nhập, phát triển thị trường.
3.7- Một số nhiệm vụ cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
Giai đoạn từ nay đến năm 2020, cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện 5 nhiệm vụ quan trọng sau:
Một là, hoàn thiện thể chế về huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và thể chế về phân phối kết quả làm ra để giải phóng sức sản xuất, tạo động lực và nguồn lực cho tăng trưởng, phát triển, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, quốc phòng, an ninh.
Hai là, hoàn thiện thể chế về cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; có chính sách đột phá tháo gỡ những vướng mắc, tạo thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp phát triển trên cơ sở đẩy mạnh đồng bộ cải cách hành chính và cải cách tư pháp. Xây dựng thể chế làm căn cứ xử lý dứt điểm, hiệu quả các tồn tại, yếu kém đã tích tụ trong nền kinh tế nhiều năm qua, đặc biệt là việc xử lý các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, các dự án, công trình đầu tư công không hiệu quả, thua lỗ kéo dài; cơ cấu lại các tổ chức tín dụng yếu kém gắn với xử lý nợ xấu.
Ba là, hoàn thiện thể chế về phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, tranh thủ những cơ hội và thành tựu của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Bốn là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nền kinh tế và năng lực kiến tạo sự phát triển của Nhà nước, đặc biệt là năng lực, hiệu quả thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng và tổ chức thực hiện luật pháp, chính sách của Nhà nước.
Năm là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực, tinh giản bộ máy, biên chế, xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của toàn hệ thống chính trị.
4- Tổ chức thực hiện
Giao cho Quốc hội, Chính phủ; các ban, bộ, ngành, địa phương, đơn vị lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết.
Các cấp ủy Đảng xây dựng chương trình, kế hoạch hành động thực hiện nghị quyết với lộ trình và phân công trách nhiệm cụ thể.
III- Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 03/6/2017 về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước
Sự cần thiết ban hành Nghị quyết
Trong hơn 30 năm qua, Đảng ta luôn quan tâm đến việc đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Đặc biệt, năm 2001, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Nghị quyết chuyên đề “Về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước”. Tiếp đó, qua các kỳ Đại hội, Đảng đã có nhiều nghị quyết, kết luận bổ sung, phát triển nội dung này. Các ngành, các cấp đã nghiêm túc tổ chức thực hiện các Nghị quyết của Đảng, đạt nhiều kết quả tích cực. Chính phủ có chương trình hành động, kế hoạch đồng bộ, cụ thể và chỉ đạo quyêt liệt, sâu sát, định kỳ sơ kết, tổng kết. Tuy vậy, kết quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước cho đến nay chưa đáp ứng yêu cầu. Đại hội XII của Đảng đã nhận định: “Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, chưa thể hiện được vai trò là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nưóc”; đồng thời đề ra yêu cầu và giải pháp tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
Để thực hiện yêu cầu của Đại hội XII, cần tổng kết, xác định những kết quả đạt được, những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân, kiến nghị, đề xuất các chủ trương, chính sách, giải pháp lớn nhằm cụ thể hóa và thực hiện có kết quả Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn tới; Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 3-6-2017 về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
 Mục tiêu của Nghị quyết là đánh giá việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng về sắp xếp cơ cấu lại, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở tổng kết 15 năm (2001 - 2016) thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa IX, quyết định các chủ trương, chính sách và giải pháp lớn nhằm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, đẩy mạnh cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.
Cấu trúc của Nghị quyết gồm 4 phần chính sau:
- Tình hình và nguyên nhân.
- Quan điểm chỉ đạo và mục tiêu.
- Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu.
- Tổ chức thực hiện.
1- Về tình hình và nguyên nhân
Trung ương nhận định: Thời gian qua, mặc dù còn nhiều hạn chế, yếu kém cần khắc phục, nhưng nhìn tổng thể, doanh nghiệp nhà nước (bao gồm doanh nghiệp 100% vốn nhà nước và doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ cổ phần, vốn góp chi phối) đã nỗ lực vươn lên trong sản xuất, kinh doanh, không ngừng đổi mới, đạt được nhiều kết quả. Cùng với cơ chế, chính sách của Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước là công cụ quan trọng để bảo đảm thực hiện có hiệu quả các chính sách ổn định vĩ mô, đối phó với những biến động thị trường, kiềm chế lạm phát; đóng góp lớn trong xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; là nguồn thu lớn của ngân sách nhà nước; đóng góp quan trọng thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và thực hiện chính sách bảo đảm an sinh xã hội. Doanh nghiệp nhà nước có đóng góp thu ngân sách lớn nhất so với các thành phần kinh tế khác. Tỉ trọng doanh thu doanh nghiệp nhà nước trong tổng thu ngân sách nhà nước đạt 19,3% (giai đoạn 2006 - 2010) và 22% (giai đoạn 2011 - 2015). Nộp ngân sách nhà nước của doanh nghiệp nhà nước năm 2015 đạt 246.038 tỉ đồng; trong đó các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước chiếm 86% nộp ngân sách nhà nước của khu vực doanh nghiệp nhà nước. Cơ cấu doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh, số lượng doanh nghiệp nhà nước đã được thu gọn hơn, hiệu quả hoạt động, năng lực cạnh tranh được nâng lên. The số liệu của Bộ Tài chính, 350 doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2015 đều tăng hơn so với những năm trước khi cổ phần hóa: vốn điều lệ tăng 72%, tổng tài sản tăng 39%, doanh thu tăng 29%, lợi nhuận trước thuế tăng 49%, nộp ngân sách tăng 27%, thu nhập bình quân của người lao động tăng 33%. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước được điều chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường.
Bên cạnh kết quả đã đạt được, cơ chế, chính sách về doanh nghiệp nhà nước chưa phù hợp. Doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác; chưa thực hiện được vai trò là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước; hiệu quả kinh doanh và đóng góp của phần lớn doanh nghiệp nhà nước còn thấp, chưa tương xứng với nguồn lực Nhà nước đầu tư; nhiều doanh nghiệp và dự án đầu tư kém hiệu quả, nợ nần, thua lỗ, thất thoát, không thể phục hồi. Mô hình quản trị doanh nghiệp nhà nước chậm được đổi mới, kém hiệu quả, không phù hợp với các thông lệ, chuẩn mực quốc tế. Việc cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước và thoái vốn nhà nước triển khai chậm. Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước còn nhiều hạn chế, tiêu cực và có một số khó khăn, vướng mắc; thể chế chậm được giải quyết, nhất là thể chế định giá đất đai, tài sản.
Công tác cán bộ, chính sách tiền lương của doanh nghiệp nhà nước còn bất cập; trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp nhà nước chưa rõ ràng. Việc tách chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và chức năng của cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước thực hiện chậm.
Công tác quản lý nhà nước, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán còn chồng chéo, hiệu lực, hiệu quả kém. Cơ chế quản lý, giám sát và việc thực hiện quyền, trách nhiệm của cơ quan và người đại diện chủ sở hữu nhà nước còn nhiều yếu kém. Tham nhũng và tiêu cực trong doanh nghiệp nhà nước còn lớn; những doanh nghiệp thua lỗ, dự án kém hiệu quả chậm được xử lý. Việc đổi mới phương thức hoạt động của các tổ chức đảng, tổ chức chính trị - xã hội trong doanh nghiệp chưa theo kịp yêu cầu đổi mới, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước.
Những hạn chế, yếu kém nói trên chủ yếu là do: Nhận thức về vai trò, vị trí của kinh tế nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, về yêu cầu và giải pháp cơ cấu lại, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước còn chưa đầy đủ; một số vấn đề chưa rõ, còn ý kiến khác nhau nhưng chậm được tổng kết, kết luận. Việc tổ chức thực hiện và thể chế hoá các chủ trương, chính sách của Đảng còn nhiều yếu kém, bất cập. Chủ quan, nóng vội trong việc triển khai thực hiện thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế đa ngành; lúng túng trong việc xác định cơ quan đại diện chủ sở hữu. Kỷ cương, kỷ luật trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước không nghiêm. Thể chế quản lý, quản trị doanh nghiệp nhà nước yếu kém, tạo kẽ hở để hình thành nhóm lợi ích, thao túng hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, tham nhũng, lãng phí; thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực. Công tác bồi dưỡng, đào tạo, đánh giá, bổ nhiệm cán bộ trong các doanh nghiệp nhà nước còn nhiều hạn chế. Công tác thanh tra, giám sát, kiểm toán của các cơ quan quản lý nhà nước chưa phát huy được hiệu lực, hiệu quả. Mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của các tổ chức đảng và tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá còn bất cập, chậm thay đổi.
2- Quan điểm chỉ đạo và mục tiêu
2.1- Về quan điểm chỉ đạo: Gồm 6 quan điểm sau:
- Doanh nghiệp nhà nước (là doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc giữ cổ phần, vốn góp chi phối, tổ chức và hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn) là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu, những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh, những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư.
- Doanh nghiệp nhà nước phải thật sự hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu; tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định pháp luật. Bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp nhà nước. Tách bạch nhiệm vụ kinh doanh với nhiệm vụ cung cấp hàng hoá và dịch vụ công ích của doanh nghiệp nhà nước.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng lực canh tranh của doanh nghiệp nhà nước để làm tốt vai trò dẫn dắt phát triển các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác, bảo đảm doanh nghiệp Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt trong phát triển kinh tế - xã hội.
- Cơ cấu lại, đổi mới doanh nghiệp nhà nước là phân bổ lại có hiệu quả các nguồn lực nhà nước theo cơ chế thị trường; là quá trình thường xuyên, liên tục với phương thức thực hiện và lộ trình hợp lý. Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng kiên quyết cổ phấn hoá, bán vốn tại những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm hoặc không cần giữ cổ phần, vốn góp chi phối, kể cả những doanh nghiệp đang kinh doanh có hiệu quả, đồng thời xử lý triệt để, bao gồm cả phá sản doanh nghiệp nhà nước yếu kém.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám sát, kiểm tra, kiểm soát đối với hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; không để xảy ra tình trạng thất thoát, lãng phí vốn, tài sản nhà nước. Tách bạch, phân định rõ chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản lý nhà nước, chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực quản trị và phẩm chất đạo đức để kiện toàn đội ngũ cán bộ  lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước.
- Đổi mới phương thức và nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức đảng ;phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc giám sát đối với việc cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
2.2- Về mục tiêu:
- Mục tiêu tổng quát: Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước trên nền tảng công nghệ hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, quản trị theo chuẩn mực quốc tế nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội và bảo toàn, phát triển vốn nhà nước tại doanh nghiệp, bảo đảm vai trò của doanh nghiệp nhà nước là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
- Mục tiêu đến năm 2020:
+ Cơ cấu lại, đổi mới doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2017 - 2020 trên cơ sở các tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước thuộc các ngành, lĩnh vực. Hầu hết doanh nghiệp nhà nước kinh doanh có cơ cấu sở hữu hỗn hợp, chủ yếu là doanh nghiệp cổ phần. Phấn đấu hoàn thành thoái vốn tại các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ, tham gia góp vốn.
+ Tập trung xử lý dứt điểm các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước thua lỗ, các dự án, công trình đầu tư không hiệu quả, thua lỗ kéo dài.
+ Phấn đấu đáp ứng các chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp; nâng cao một bước quan trọng hiệu quả kinh doanh, chất lượng sản phẩm, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước.
+ Hoàn thiện mô hình quản lý, giám sát doanh nghiệp nhà nước và vốn, tài sản của Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp. Chậm nhất đến năm 2018, thành lập một cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước và cổ phần, vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp.
- Mục tiêu đến năm 2030:
+ Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh có cơ cấu sở hữu hỗn hợp, chủ yếu là doanh nghiệp cổ phần.
+ Trình độ công nghệ, kỹ thuật sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước hiện đại tương đương với khu vực; đáp ứng đầy đủ chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp; hình thành đội ngũ quản lý chuyên nghiệp, có trình độ cao, phẩm chất đạo đức tốt.
+ Củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước hiện có với quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.
3- Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu
Gồm 5 nhiệm vụ, giải pháp sau:
3.1- Đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước
Trên cơ sở rà soát, xác định rõ số lượng và phạm vi ngành, lĩnh vực có doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước. Đẩy mạnh cổ phần hoá, thoái vốn đối với các doanh nghiệp có vốn nhà nước theo nguyên tắc: Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu, những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh, những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư; tối đa hoá giá trị bán vốn nhà nước. Tập trung xử lý dứt điểm các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp, các dự án, công trình đầu tư không hiệu quả, thua lỗ kéo dài, kể cả bằng biện pháp giải thể, phá sản. Bảo đảm vốn, tài sản của Nhà nước và giá trị doanh nghiệp được định giá đầy đù, hợp lý, công khai, minh bạch. Nghiêm cấm và xử lý nghiêm minh các trường hợp định giá thấp tài sản, vốn của Nhà nước và giá trị doanh nghiệp không đúng quy định của pháp luật để trục lợi, gây thất thoát tài sản, vốn nhà nước.
3.2- Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để doanh nghiệp nhà nước thật sự vận hành theo cơ chế thị trường
Doanh nghiệp nhà nước phải đáp ứng các chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp; thật sự hoạt động theo cơ chế thị trường, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật, bảo đảm công khai, minh bạch và trách  nhiệm giải trình. Tách bạch nhiệm vụ kinh doanh và nhiệm vụ chính trị, công ích của doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước kinh doanh hoạt động hoàn toàn theo cơ chế thị trường nhằm mục tiêu lợi nhuận. Việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, xã hội do Nhà nước giao được triển khai theo cơ chế Nhà nước đặt hàng, lựa chọn cạnh tranh, công khai; xác định rõ giá thành, chi phí thực hiện, trách nhiệm và quyền lợi của Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước.
Xóa bỏ các chính sách can thiệp hành chính trực tiếp, bao cấp dành cho doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước phải đi đầu trong ứng dụng công nghệ, kỹ thuật hiện đại, sử dụng tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường; hạn chế tình trạng sản xuất kinh doanh khép kín, cục bộ, không minh bạch trong doanh nghiệp nhà nước.
3.3- Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống quản trị và nâng cao năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước
Xây dựng và áp dụng khung quản trị doanh nghiệp với các nguyên tắc phù hợp với chuẩn mực quốc tế tại các doanh nghiệp nhà nước, nhất là đối với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Thiết lập các hệ thống quản trị, kiểm soát nội bộ có hiệu quả trong việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý vi phạm pháp luật, rủi ro, xung đột lợi ích, “lợi ích nhóm”, “sân sau”, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, tiêu cực, tham nhũng. Người đứng đầu doanh nghiệp nhà nước chịu trách nhiệm trực tiếp trước pháp luật và Nhà nước về toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp.
Ban kiểm soát, kiểm soát viên phải thực sự là công cụ giám sát hữu hiệu của chủ sở hữu, hoạt động độc lập và không chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo hoặc chi phối về lợi ích của hội đồng thành viên, hội đồng quản trị và ban điều hành của doanh nghiệp. Thực hiện cơ chế tiền lương, tiền thưởng, thù lao của người lao động và người quản lý doanh nghiệp nhà nước phù hợp với cơ chế thị trường, có tính cạnh tranh cao dựa trên cơ sở kết quả sản xuất kinh doanh. Tách người quản lý doanh nghiệp nhà nước khỏi chế độ viên chức, công chức, sắp xếp, tinh gọn và nâng cao hiệu quả tổ chức bộ máy, biên chế của doanh nghiệp nhà nước; cơ cấu lại, bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ; tăng cường bồi dưỡng, đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực lãnh đạo và tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ doanh nghiệp nhà nước. Bảo đảm tính minh bạch, công khai và trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là về tài chính, đầu tư, mua sắm, sử dụng vốn của Nhà nước, công tác cán bộ, giao dịch với người có liên quan đến người quản lý.
3.4- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước
Hoàn thiện chức năng quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước. Rà soát, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về doanh nghiệp nhà nước. Tăng cường công tác chỉ đạo, tiếp tục đổi mới, nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước. Hoàn thiện tổ chức quản lý để thực hiện chức năng Nhà nước là chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước; bảo đảm quyền tự chủ của doanh nghiệp nhà nước trong hoạt động theo nguyên tắc thị trường; khẩn trương hoàn thiện mô hình quản lý, giám sát doanh nghiệp và vốn, tài sản của Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp. Khẩn trương thành lập một cơ quan chuyên trách của Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước.
3.5- Đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả lãnh đạo của tổ chức đảng; phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp tại doanh nghiệp nhà nước
- Đổi mới mô hình tổ chức và phương thức lãnh đạo của tổ chức đảng tại doanh nghiệp nhà nước. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên trong doanh nghiệp nhà nước. Nâng cao hiệu quả và vai trò lãnh đạo toàn diện của tổ chức đảng tại doanh nghiệp nhà nước trong việc chấp hành chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, xây dựng và thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, sử dụng, bảo toàn và phát triển vốn của Nhà nước, công tác chính trị, tư tưởng, công tác cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội trong doanh nghiệp, phát huy dân chủ cơ sở. Quy định rõ trách nhiệm của cấp uỷ, người đứng đầu tổ chức đảng trong doanh nghiệp nhà nước khi để xảy ra thua lỗ, tổn thất trong hoạt động và vi phạm chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Triển khai thực hiện nghiêm túc Quy định số 69-QĐ/TW ngày 13/02/2017 của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của đảng uỷ cấp trên cơ sở trong doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn nhà nước chi phối.
- Bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất giữa các quy định của Đảng với các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về công tác tổ chức và cán bộ dựa trên nguyên tắc: Đảng lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và thống nhất quản lý cán bộ trong doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước.
- Lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt sâu sắc, tuyên truyền sâu rộng, nâng cao nhận thức trong hệ thống chính trị và sự đồng thuận trong xã hội về quan điểm, mục tiêu, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận đầy đủ thông tin và tham gia giám sát hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
- Phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước, nhất là đối với việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
- Đổi mới, hoàn thiện mô hình tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội tại doanh nghiệp nhà nước. Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp trong quá trình triển khai thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về doanh nghiệp nhà nước; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động trong doanh nghiệp nhà nước.
4- Tổ chức thực hiện
Giao cho Quốc hội, Chính phủ; các ban, bộ, ngành, địa phương, đơn vị lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết.
Các cấp ủy Đảng xây dựng chương trình, kế hoạch hành động thực hiện nghị quyết với lộ trình và phân công cụ thể trách nhiệm cho các cơ quan, đơn vị thực hiện phù hợp với điều kiện cụ thể.

------

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét