Chuyên
đề năm 2017:
Học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
về
phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
“tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ
Phần thứ nhất
Phần thứ nhất
QUAN NIỆM CỦA HỒ
CHÍ MINH
VỀ SUY THOÁI TƯ
TƯỞNG CHÍNH TRỊ, ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG,
“TỰ DIỄN BIẾN”,
“TỰ CHUYỂN HÓA” TRONG NỘI BỘ
Trong
các tác phẩm của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần đề cập đến những tiêu
cực nảy sinh trong nội bộ Đảng, chính quyền và trong xã hội. Người không dùng
trực tiếp các khái niệm “suy thoái” tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” nhưng đã đề cập đến rất nhiều căn bệnh khác nhau thể
hiện sự suy thoái đó.
1- Quan niệm của
Hồ Chí Minh về suy thoái tư tưởng chính trị
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ những dấu hiệu suy thoái về tư
tưởng chính trị, trước hết là những biểu hiện phai nhạt lý tưởng cách mạng.
Ngay từ tháng 10-1947, hai năm sau khi giành được chính quyền, Người đã yêu cầu
cán bộ, đảng viên sửa đổi lối làm việc, chỉ rõ phải đấu tranh với những hiện tượng
thờ ơ trước những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái: “Nghe những lời bình
luận không đúng, cũng làm thinh, không biện bác. Thậm chí nghe những lời phản
cách mạng cũng không báo cáo cho cấp trên biết. Ai nói sao, ai làm gì cũng mặc
kệ”[1].
Người
phê phán những đảng viên dao động, thiếu lý tưởng cách mạng: “Nếu chỉ có công
tác thực tế, mà không có lý tưởng cách mạng, thì cũng không phải là người đảng
viên tốt. Như thế, chỉ là người sự vụ chủ nghĩa tầm thường”[2].
Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng phải chống cái thói xem nhẹ học tập lý luận.
Vì không học lý luận thì chí khí kém kiên quyết, không trông xa thấy rộng,
trong lúc đấu tranh dễ lạc phương hướng, kết quả là “mù chính trị”, thậm chí hủ
hóa, xa rời cách mạng”[3].
Người
kiên quyết chống những nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận
và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước.
Người
nói: “Trong Đảng ta hiện nay còn có nhiều người chỉ biết vùi đầu suốt ngày vào
công tác sự vụ, không nhận thấy sự quan trọng của lý luận, cho nên còn có hiện
tượng xem thường học tập hoặc là không kiên quyết tìm biện pháp để điều hòa
công tác và học tập”[4].
“Có một số đồng chí không chịu nghiên cứu kinh nghiệm thực tế của cách mạng Việt
Nam. Họ không hiểu rằng: Chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ nam cho hành động, chứ
không phải là kinh thánh. Vì vậy, họ chỉ học thuộc ít câu của Mác - Lênin, để
lòe người ta. Lại có một số đồng chí khác chỉ bo bo giữ lấy những kinh nghiệm lẻ
tẻ. Họ không hiểu rằng lý luận rất
quan trọng cho sự thực hành cách mạng. Vì vậy, họ cứ cắm đầu nhắm mắt mà làm,
không hiểu rõ toàn cuộc của cách mạng”[5].
Người kiên quyết chống những biểu hiện không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ
chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác: “Vô kỷ luật,
kỷ luật không nghiêm”[6].
Trong
tự phê bình, phê bình, Người kiên quyết chỉ ra và đấu tranh với những biểu hiện
không dám nhận khuyết điểm; khi có khuyết điểm thì thiếu thành khẩn, không tự
giác nhận kỷ luật: “Thái độ của một số khá đông cán bộ là: Đối với người khác
thì phê bình đúng đắn, nhưng tự phê bình thì quá “ôn hòa”. Các đồng chí ấy
không mạnh dạn công khai tự phê bình, không vui lòng tiếp thu phê bình - nhất
là phê bình từ dưới lên, không kiên quyết sửa chữa khuyết điểm của mình… Nói
tóm lại: Đối với người khác thì các đồng chí ấy rất “mácxít”, nhưng đối với bản
thân mình thì mắc vào chủ nghĩa tự do”[7].
Trong
phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai
không đấu tranh: “Có đồng chí đáng phải trừng phạt, nhưng vì cảm tình nể nang
chỉ phê bình, cảnh cáo qua loa cho xong chuyện. Thậm chí còn có nơi che đậy cho
nhau, tha thứ lẫn nhau, lừa dối cấp trên, giấu giếm đoàn thể. Thi hành kỷ luật
như vậy làm cho các đồng chí không những không biết sửa lỗi mình mà còn khinh
thường kỷ luật. Tai hại hơn nữa nếu kỷ luật của đoàn thể lỏng lẻo, những phần tử
phản động sẽ có cơ hội chui vào hàng ngũ ta để phá hoại đoàn thể ta”[8].
Người
lấy ví dụ: “Nếu tôi có vết nhọ trên trán, các đồng chí trông thấy, lại lấy cớ
“nể Cụ” không nói, là tôi mang nhọ mãi. Nhọ ở trên trán thì không quan trọng,
nhưng nếu có vết nhọ ở trong óc, ở tinh thần, mà không nói cho người ta sửa tức
là hại người… Thấy cái xấu của người mà không phê bình là một khuyết điểm rất
to. Không phê bình, tức là để cho cái xấu của người ta phát triển”[9].
“Nói về từng người, nể nang không phê bình, để cho đồng chí mình cứ sa vào lầm
lỗi, đến nỗi hỏng việc. Thế thì khác nào thấy đồng chí mình ốm, mà không chữa
cho họ. Nể nang mình, không dám tự phê bình, để cho khuyết điểm của mình chứa
chất lại. Thế thì khác nào mình tự bỏ thuốc độc cho mình”[10].
Người
cũng chỉ ra nhiều biểu hiện lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu
khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong
sáng: “Khi phê bình ai, không phải vì Đảng, không phải vì tiến bộ, không phải
vì công việc, mà chỉ công kích cá nhân, cãi bướng, trả thù tiểu khí”[11].
“Phê bình là cốt giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, cho nên thái độ của người phê
bình phải thành khẩn, nghiêm trang, đúng mực. Phải vạch rõ vì sao có khuyết điểm
ấy, nó sẽ có kết quả xấu thế nào, dùng phương pháp gì để sửa chữa. Thuốc phải
nhằm đúng bệnh. Tuyệt đối không nên có ý mỉa mai, bới móc, báo thù. Không nên
phê bình lấy lệ. Càng không nên “trước mặt không nói, xoi mói sau lưng””[12].
Hồ
Chí Minh chỉ ra và kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện nói trong hội nghị
khác, nói ngoài hội nghị khác: “Lại có những người trước mặt thì ai cũng tốt,
sau lưng thì ai cũng xấu. Thấy xôi nói
xôi ngọt, thấy thịt nói thịt bùi. Theo gió bẻ buồm, không có khí khái”[13].
Người
phê phán những biểu hiện duy ý chí, áp đặt, bảo thủ, chỉ làm theo ý mình; không
chịu học tập, lắng nghe, tiếp thu ý kiến hợp lý của người khác: “Tự cho mình là
cái gì cũng giỏi, việc gì cũng biết”[14].
“Tự kiêu tức là cho mình việc gì cũng thạo, cũng làm được. Việc gì mình cũng giỏi
hơn mọi người. Mình là thần thánh, không cần học ai, hỏi ai”[15].
Người chỉ ra: “Trong Đảng ta có một số không ít đồng chí mắc bệnh công thần cho
rằng mình đã tham gia cách mạng lâu năm
mà tự kiêu, tự mãn. Hoạt động cách mạng lâu năm là tốt, nhưng phải khiêm tốn học
tập để tiến bộ mãi”[16].
Kiên
quyết chống những biểu hiện tham vọng chức quyền, không chấp hành sự phân công
của tổ chức; kén chọn chức danh, vị trí công tác, mà Hồ Chí Minh gọi là: “Bệnh
hiếu danh - Tự cho mình là anh hùng, là vĩ đại. Có khi vì cái tham vọng đó mà
việc không đáng làm cũng làm. Đến khi bị công kích, bị phê bình thì tinh thần
lung lay. Những người đó chỉ biết lên mà không biết xuống. Chỉ chịu được sướng
mà không chịu được khổ. Chỉ ham làm chủ tịch này, ủy viên nọ, chớ không ham
công tác thiết thực”[17].
Người
yêu cầu: “Phải khắc phục bệnh cá nhân chủ nghĩa, bệnh công thần, óc địa vị. Nó
đẻ ra nhiều cái xấu như xích mích, kèn cựa giữa cán bộ và giữa đảng viên, không
ai phục ai, không giúp đỡ nhau, không cộng tác chặt chẽ với nhau. Bệnh cá nhân
còn dẫn đến tệ bảo thủ, quan liêu, tham ô, lãng phí, sợ khó, sợ khổ, thấy khó
khăn thì đâm ra tiêu cực, bi quan”[18],
từ đó dẫn đến những biểu hiện chọn nơi có nhiều lợi ích, chọn việc dễ, bỏ việc
khó; không sẵn sàng nhận nhiệm vụ ở nơi xa, nơi có khó khăn. Thậm chí còn tìm mọi
cách để vận động, tác động, tranh thủ phiếu bầu, phiếu tín nhiệm cho cá nhân một
cách không lành mạnh. “Không phục tùng mệnh lệnh, không tuân theo kỷ luật. Cứ
làm theo ý mình”[19].
Những
biểu hiện chỉ tập trung giải quyết những vấn đề ngắn hạn trước mắt, có lợi cho
mình Người gọi là “Bệnh cận thị -
Không trông xa thấy rộng. Những vấn đề to
tát thì không nghĩ đến mà chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ”[20].
Người
đấu tranh với những biểu hiện tranh thủ bổ nhiệm người thân, người quen, người
nhà dù không đủ tiêu chuẩn, điều kiện giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc bố
trí, sắp xếp vào vị trí có nhiều lợi ích và gọi đó là: “Tư túng - Kéo bè, kéo cánh, bà con bạn hữu mình, không tài năng gì
cũng kéo vào chức này chức nọ. Người có tài có đức, nhưng không vừa lòng mình đẩy
ra ngoài. Quên rằng việc là việc công, chứ không phải việc riêng gì dòng họ của
ai”[21].
Người phê bình thẳng thắn: “Có những đồng chí còn giữ thói “một người làm nên cả
họ được nhờ”, đem bà con bằng hữu vào chức này việc kia, làm được, không được mặc
kệ. Hỏng việc đã có đoàn thể chịu, cốt cho bà con, bạn hữu có địa vị là được”[22].
2- Quan niệm của
Hồ Chí Minh về suy thoái đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ
Chủ
tịch Hồ Chí Minh bàn khá nhiều về suy thoái đạo đức, lối sống. Người thẳng thắn
đấu tranh với mọi biểu hiện cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội,
vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét,
đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình. Người gọi đó là các căn
bệnh: “Óc hẹp hòi - Ở trong Đảng thì
không biết cất nhắc những người tốt, sợ người ta hơn mình. Ở ngoài Đảng thì
khinh người, cho ai cũng không cách mạng, không khôn khéo bằng mình. Vì thế mà
không biết liên lạc hợp tác với những người có đạo đức tài năng ở ngoài Đảng.
Vì thế mà người ta uất ức và mình thành ra cô độc”[23];
và “Bệnh tham lam - Những người mắc
phải bệnh này thì đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc,
do đó mà chỉ “tự tư tự lợi”. Dùng của công làm việc tư. Dựa vào thế lực của Đảng
để theo đuổi mục đích riêng của mình. Sinh hoạt xa hoa, tiêu xài bừa bãi. Tiền
bạc đó ở đâu ra? Không xoay của Đảng thì xoay của đồng bào. Thậm chí làm chợ
đen buôn lậu. Không sợ mất thanh danh của Đảng, không sợ mất danh giá của mình”[24].
“Còn có những đồng chí chỉ lo ăn ngon, mặc đẹp, lo phát tài, lo chiếm của công
làm của tư, đạo đức cách mệnh thế nào, dư luận chê bai thế nào cũng mặc”[25].
Ngay
từ đầu năm 1948, khi nhà nước cách mạng còn hết sức non trẻ, gặp muôn vàn khó
khăn, Người đã chỉ ra cần phải đấu tranh với những vi phạm nguyên tắc tập trung
dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ; đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức; cục bộ,
bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức, tranh quyền; độc đoán, gia trưởng, thiếu
dân chủ trong chỉ đạo, điều hành. Hồ Chí Minh yêu cầu: “Phải thật sự mở rộng
dân chủ trong cơ quan. Phải luôn luôn dùng cách thật thà tự phê bình và thẳng thắn phê bình, nhất là phê bình từ dưới
lên. Phải kiên quyết chống cái thói “cả vú lấp miệng em” ngăn cản quần
chúng phê bình. Một đảng viên ở địa vị càng cao, thì càng phải giữ đúng kỷ luật
của Đảng, càng phải làm gương dân chủ”[26].
Người
kiên quyết chống “Bệnh hẹp hòi”, vì “Nhiều thứ bệnh, như chủ nghĩa địa phương,
chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham danh vọng, tham địa vị,
dìm người giỏi, bệnh hủ hóa, v.v., đều do bệnh hẹp hòi mà ra”[27].
Người giải thích về “Địa phương chủ nghĩa”, đó là: “chỉ chăm chú lợi ích của địa
phương mình mà không nhìn đến lợi ích của toàn bộ. Làm việc ở bộ phận nào chỉ
biết bênh vực vun đắp cho bộ phận ấy. Do khuyết điểm đó mà sinh ra những việc,
xem qua thì như không quan hệ gì mấy, kỳ thực rất có hại đến kế hoạch chung”[28].
Sau
cách mạng Tháng Tám, mặc dù những biểu hiện “chạy thành tích”, “chạy khen thưởng”,
“chạy danh hiệu” chưa phổ biến, nhưng nhiều biểu hiện của bệnh “thành tích”,
háo danh, phô trương, thổi phồng thành tích, “đánh bóng” tên tuổi; thích được đề
cao, ca ngợi, đã bị Người chỉ ra và phê phán, như các bệnh: “Ham chuộng hình thức:
việc gì không xét đến cái kết quả thiết thực, cần kíp, chỉ chăm về hình thức
bên ngoài, chỉ muốn phô trương cho oai”[29].
“Bệnh “hữu danh, vô thực”- Làm việc không
thiết thực, không từ chỗ gốc, chỗ chính, không từ dưới làm lên. Làm cho có chuyện,
làm lấy rồi. Làm được ít suýt ra nhiều, để làm một bản báo cáo cho oai, nhưng
xét kỹ lại thì rỗng tuếch”[30].
“Bệnh kiêu ngạo - Tự cao, tự đại, ham
địa vị, hay lên mặt. Ưa người ta tang bốc mình, khen ngợi mình. Ưa sai khiến
người khác. Hễ làm được việc gì hơi thành công thì khoe khoang vênh váo, cho ai
cũng không bằng mình. Không thèm học hỏi quần chúng, không muốn cho người ta
phê bình. Việc gì cũng làm thầy người khác”[31].
Người
cũng đấu tranh với các biểu hiện che giấu khuyết điểm: “Báo cáo thì chậm trễ, làm lấy lệ. Báo cáo dối, giấu cái dở cái xấu,
chỉ nêu cái tốt cái hay. Báo cáo bề bộn - chỉ góp báo cáo các ngành, các cấp dưới,
rồi cứ nguyên văn chép lại gửi lên, v.v.”[32].
Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng sớm chỉ ra các bệnh có các biểu hiện quan liêu, xa rời quần
chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình:
-
“Óc quân phiệt quan liêu. Khi phụ
trách ở một vùng nào thì như một ông vua con ở đấy, tha hồ hách dịch, hoạnh họe.
Đối với cấp trên thì xem thường, đối với cấp dưới cậy quyền lấn áp. Đối với quần
chúng ra vẻ quan cách làm cho quần chúng sợ hãi. Cái đầu óc “ông tướng, bà tướng”
ấy đã gây ra bao ác cảm, bao chia rẽ, làm cho cấp trên xa cấp dưới, đoàn thể ra
nhân dân”[33].
-
“Làm việc lối bàn giấy. Thích làm việc
bằng giấy tờ thật nhiều. Ngồi một nơi chỉ tay năm ngón không chịu xuống địa
phương kiểm tra công tác và để chỉ vạch những kế hoạch thi hành chỉ thị, nghị
quyết của đoàn thể cho chu đáo… Cái lối làm việc như vậy rất có hại. Nó làm cho
chúng ta không đi sát phong trào, không hiểu rõ được tình hình bên dưới, cho
nên phần nhiều chủ trương của chúng ta không thi hành được đến nơi đến chốn”[34].
-
“Bệnh mệnh lệnh tỏ ra ở chỗ hay dựa
vào chính quyền mà bắt dân làm, ít tuyên truyền giải thích cho dân tự giác, tự
động”[35].
Người
yêu cầu chống các biểu hiện thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó
khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân: “Phải chống sự mong muốn làm
cho được lòng cấp trên còn ở dưới nhân dân thế nào cũng mặc, không thể vì lợi
ích của Đảng mà chống nhân dân mà quan liêu, hạ mệnh lệnh”[36].
Những
biểu hiện gây lãng phí, thất thoát tài chính, tài sản, ngân sách nhà nước, đất
đai, tài nguyên… cũng được Người chỉ ra từ rất sớm trong một số cán bộ, đảng
viên có những biểu hiện, như: “Họ tưởng rằng cách mạng là cốt để làm cho họ có
địa vị, được hưởng thụ. Do đó mà họ mắc những sai lầm: kiêu ngạo chưng diện, hưởng
thụ, lãng phí của công tự tư tự lợi, không tiết kiệm đồng tiền bát gạo là mồ
hôi nước mắt của nhân dân. Họ quên mất tác phong gian khổ phấn đấu, lạt lẽo với
công việc cách mạng, xa rời Đảng, xa rời quần chúng. Dần dần, họ mất cả tư cách
và đạo đức người cách mạng, sa vào tham ô, hủ bại và biến thành người có tội với
Đảng, với Chính phủ, với nhân dân”[37].
Người
cũng kiên quyết đấu tranh chống tham ô, lãng phí, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu
kết với các đối tượng khác để trục lợi. Người chỉ rõ: “Bên cạnh những đồng chí
tốt ấy, còn có một số ít cán bộ, đảng viên mà đạo đức, phẩm chất còn thấp kém.
Họ mang nặng chủ nghĩa cá nhân, việc
gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người”
mà chỉ muốn “mọi người vì mình”. Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó
khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa
vị quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc
đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu, mệnh
lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ.
Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn
kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp
hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của
cách mạng, của nhân dân”[38].
Ngay
từ đầu năm 1947, Hồ Chí Minh đã nêu và kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện
thao túng trong công tác cán bộ, mà Người gọi là: “Óc bè phái: Ai hẩu với mình
thì dù nói không đúng cũng nghe, tài không có cũng dùng. Ai không thân với mình
thì dù họ có tài cũng tìm cách dìm họ xuống, họ nói phải mấy cũng không nghe”[39]
và “Kéo bè kéo cánh lại là bệnh rất
nguy hiểm nữa. Từ bè phái mà đi đến chia rẽ. Ai hợp với mình thì dù người xấu
cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn
nhau. Ai không hợp với mình thì người tốt cũng cho là xấu, việc hay cũng cho là
dở, rồi tìm cách gièm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống. Bệnh này rất
tai hại cho Đảng. Nó làm hại đến sự thống nhất. Nó làm Đảng bớt mất nhân tài và
không thực hành được đầy đủ chính sách của mình. Nó làm mất sự thân ái, đoàn kết
giữa đồng chí. Nó gây ra những mối nghi ngờ”[40].
“Do
ít hiểu biết về tình hình trong nước và ngoài nước, ít nghiên cứu lý luận và
kinh nghiệm thực tiễn cho nên gặp thuận lợi thì dễ lạc quan tếu, gặp khó khăn
thì dễ dao động, bi quan, lập trường cách mạng không vững vàng, thiếu tinh thần
độc lập suy nghĩ và chủ động sáng tạo. Do đó mà gặp nhiều khó khăn trong công
việc, tác dụng lãnh đạo bị hạn chế”[41].
Nguyên
nhân của những biểu hiện suy thoái có nhiều, nhưng chủ yếu là do chủ nghĩa cá
nhân sinh ra. Theo Hồ chí Minh: “Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm:
quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí. Nó trói buộc, nó bịt
mắt những nạn nhân của nó, những người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng
tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của
giai cấp, của nhân dân”[42].
Phần thứ hai
TỔ CHỨC HỌC TẬP
VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC,
PHONG CÁCH HỒ
CHÍ MINH ĐỂ GÓP PHẦN THỰC HIỆN
NGHỊ QUYẾT TRUNG
ƯƠNG 4 KHÓA XII
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm và trăn trở về những hiện tượng
tiêu cực trong Đảng và xã hội, mà Người thường gọi là vấn nạn quan liêu, tham
ô, lãng phí. Người đã để lại nhiều bài nói, bài viết về đấu tranh phòng, chống
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Việc nghiên cứu, học tập những
tài liệu quý báu đó có ý nghĩa rất lớn trong công tác xây dựng Đảng hiện nay.
1- Tăng cường
công tác giáo dục và tuyên truyền, xây dựng tinh thần chống suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng
viên và nhân dân
Để
chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” có hiệu quả cần coi trọng biện pháp phòng ngừa là chính. Vì vậy,
công tác giáo dục có một vai trò quan trọng nhằm xây dựng tinh thần phòng và chống,
tăng cường ý thức trách nhiệm, đề cao vai trò phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc
của đội ngũ cán bộ… Trong phong trào này, “giáo dục là chính, trừng phạt là phụ”[43].
Trước
hết cần giáo dục cho mọi tầng lớp nhân dân thấy rõ chống suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là trách nhiệm và
nghĩa vụ của mọi công dân: “Nếu nhà ai bị mất cắp, mất trộm, thì hô hoán lên và
cả xóm, cả làng đuổi bắt kẻ trộm. Khi của công bị mất cắp, mất trộm thì mọi người
đều có trách nhiệm vạch mặt kẻ gian và đưa nó ra pháp luật vì mọi người đều có
nghĩa vụ giữ gìn của công…”[44].
Nội
dung giáo dục là cần phải phân tích cho cán bộ, đảng viên, nhân dân thấy tác hại
nghiêm trọng của suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”, từ đó tạo nên sự căm phẫn trong nhân dân về các hành vi
này và sự cần thiết phải đấu tranh loại bỏ nó. “Các báo chí thì cần nêu những việc kiểu mẫu, phân tách rõ ràng, làm
cho mọi người nhận rõ: quan liêu, tham ô, lãng phí là tội ác. Và do đó mà khuyến
khích quần chúng, mở rộng phong trào phê bình từ dưới lên trên”[45];
“Bất kỳ ngành nào, địa phương nào cũng phải giáo dục cho cán bộ, nhân dân, chiến
sĩ gớm ghét nạn tham ô, lãng phí, bệnh quan liêu”[46].
Bên
cạnh đó, cần giáo dục tinh thần phục vụ nhân dân cho cán bộ, công chức, những
người có chức quyền, địa vị, có nhiều điều kiện và khả năng xuất hiện suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cũng
chính là một trong những biện pháp ngăn ngừa có hiệu quả trong cuộc đấu tranh
này.
Hồ
chí Minh chỉ rõ: Về phương thức giáo dục, cần thường xuyên giáo dục đạo đức
cách mạng, nâng cao ý thức phục vụ nhân dân trong thực thi công vụ của cán bộ,
công chức… Giáo dục tinh thần trong sạch, liêm khiết cho toàn bộ cán bộ, công
chức để giúp họ không vi phạm; đồng thời có kỷ luật thích đáng với những kẻ
ngoan cố, không chịu ăn năn, sửa chữa.
2- Hoàn thiện
các văn bản pháp luật về phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
Rà
soát, bổ sung, hoàn thiện các quy định, văn bản quy phạm pháp luật về quản lý,
điều hành bảo đảm công khai, minh bạch, góp phần xóa bỏ cơ chế “xin - cho”,
“duyệt - cấp”; ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, “sân
sau”, trục lợi trong quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản công, cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước, vốn đầu tư, đất đai, tài nguyên, khoáng sản, tài chính,
ngân hàng, thuế, hải quan, phân bổ, quản lý và sử dụng biên chế… Đồng thời kiên
quyết xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật.
Tăng
cường trách nhiệm của người đứng đầu trong việc để xảy ra sai phạm và tăng hình
phạt xử lý kẻ tham nhũng một cách thích đáng, đủ sức răn đe. Trong đó, trách
nhiệm của người đứng đầu là thường xuyên kiểm tra việc thực hiện quyền, nghĩa vụ
của cán bộ, công chức dưới quyền để sớm ngăn chặn những hành vi tiêu cực đang
trong quá trình hình thành.
Bên
cạnh việc hoàn thiện pháp luật cần phải tăng cường pháp chế, bảo đảm việc thực
hiện nghiêm túc pháp luật về phòng, chống tham nhũng trên thực tế: “Cần có những
pháp luật để trừng trị tệ tham ô, lãng phí, và phải chấp hành những pháp luật ấy
một cách nghiêm chỉnh…”[47].
“Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị
nào, làm nghề nghiệp gì”[48].
Về hình phạt, Bác Hồ nhắc lại lời của Lênin: “không xử bắn
bọn ăn hối lộ mà xử nhẹ như thế, là một việc xấu hổ cho những người cộng sản,
những người cách mạng”[49]. Hình
phạt đối với những kẻ tham nhũng, tiêu cực không chỉ là kết án, bị tước hết địa
vị mà những tội lỗi ấy cần được công khai trong công luận để cho dư luận đánh
giá. Hình phạt này nặng không kém những kết án của toà án.
3- Tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát của Đảng và Nhà nước
Trong
phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” các tổ chức đảng, chính quyền, đặc biệt bộ phận chuyên trách
làm công tác thanh tra, kiểm tra có vai trò quan trọng.
Trong
quá trình thực thi nhiệm vụ, các cơ quan không chỉ phát hiện và xử lý nghiêm
minh, kịp thời những hành vi tiêu cực, mà còn phải phát hiện những kẽ hở trong
chính sách, pháp luật, cơ chế quản lý để giúp Trung ương hoàn thiện, từ đó hạn
chế những hành vi tiêu cực; giúp các cấp lãnh đạo địa phương tìm ra những biện
pháp tích cực chống tiêu cực.
4- Phát huy dân
chủ, hoàn thiện cơ chế để huy động nhân dân tham gia phòng, chống suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
Tăng
cường công tác dân vận của Đảng và của chính quyền; phát huy vai trò giám sát của
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, của nhân dân, báo chí và
công luận trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp
phải thực hiện nghiêm túc việc tiếp dân định kỳ hoặc đột xuất để tiếp nhận
thông tin, lắng nghe, đối thoại trực tiếp và xử lý những phản ánh, kiến nghị của
nhân dân, nhất là những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong cán bộ, đảng viên. Xây dựng và thực hiện Quy định về việc lấy ý kiến đánh
giá sự hài lòng của người dân đối với cơ quan, cán bộ, công chức trực tiếp giải
quyết công việc của người dân và doanh nghiệp; có hình thức xứ lý đối với những
tổ chức, cá nhân có chỉ số hài lòng thấp. Xây dựng và thực hiện cơ chế bảo vệ,
khuyến khích người dân phản ánh, tố giác và tích cực đấu tranh phòng, chống suy
thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Để
nhân dân có thể kiểm soát được cán bộ thì phải xây dựng được cơ chế công khai,
minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, trước hết là trong hoạt động
tài chính. “Quản lý phải dân chủ, tài
chính phải công khai - Sổ sách phải minh bạch. Phải chống quan liêu, lãng
phí, tham ô”[50].
Theo
Hồ Chí Minh: “Mở rộng dân chủ phê bình trong cơ quan và ngoài quần chúng, từ
trên xuống và từ dưới lên. “Trên đe dưới búa” của phê bình, thì nhất định tẩy
được bệnh quan liêu, tham ô, lãng phí”[51].
5- Tổ chức học tập,
thảo luận, liên hệ và lựa chọn những việc làm theo của tập thể và cá nhân cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức
Việc
tổ chức học tập, thảo luận, liên hệ và lựa chọn những việc làm theo của tập thể
và cá nhân cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thực hiện theo Công văn số 1998-CV/BTGTW
ngày 10-02-2017 của Ban Tuyên giáo Trung ương về việc sinh hoạt chuyên đề thực
hiện Chỉ thị số 05-CT/TW (phần II).
Các cơ quan thông tấn, báo chí, các hội văn học, nghệ thuật,
báo chí, xuất bản ở Trung ương và các địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền
về nội dung chuyên đề của năm 2017; chú trọng biểu dương, nhân rộng gương điển
hình, cách làm hay, gương người tốt, việc tốt của các địa phương, cơ quan, đơn
vị.
Đẩy
mạnh tuyên truyền trong quần chúng nhân dân, vận động nhân dân tích cực học tập
và làm theo Bác, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở địa phương, cơ sở, tích
cực phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh./.
Nguồn: BAN TUYÊN
GIÁO TRUNG ƯƠNG
[1] . Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.5, tr.298.
[2] . Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.289.
[3]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.280.
[4]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.94.
[5]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.120.
[6]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.89.
[7]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.521-522.
[8]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.89-90.
[9]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.260.
[10]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.301.
[11]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.298.
[12]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.114.
[13]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.301.
[14]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.295.
[15]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.631.
[16]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.333.
[17]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.295.
[18]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.187.
[19]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.298.
[20]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.297.
[21]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.65.
[22]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.94-95.
[23]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.296.
[24]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.295.
[25]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.94.
[26]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.454.
[27]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.276.
[28]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.87-88.
[29]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.94.
[30]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.297.
[31]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.295.
[32]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.417.
[33]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.88.
[34]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.89.
[35]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.33.
[36]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.370.
[37]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.508-509.
[38]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.546-547.
[39]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.94.
[40]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.297.
[41]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.30-31.
[42]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.611.
[43]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.361.
[44]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.416.
[45]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.139.
[46]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.346.
[47]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.419.
[48]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.127.
[49]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.288.
[50]
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.443.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét