Bài 1
KHÁI QUÁT LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆTNAM
KHÁI QUÁT LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập,
lãnh đạo và rèn luyện. Hơn tám thập kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân
ta đã tiến hành Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, xoá bỏ hoàn toàn chế độ
thực dân phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam); đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, hoàn
thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; tiến hành công cuộc
đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã giành
được những thắng lợi rất vẻ vang, mở ra kỷ nguyên mới trong sự phát triển của
dân tộc ta: kỷ nguyên độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam như Chủ tịch 000.Hồ Chí
Minh đã khẳng định, là cả một pho lịch sử bằng vàng. Kho tàng lịch sử quý giá
đó không chỉ gồm những sự kiện lịch sử oanh liệt, hào hùng của Đảng và dân tộc
mà điều có ý nghĩa lớn lao là những kinh nghiệm, những bài học lịch sử, những
vấn đề lý luận cách mạng Việt Nam được tổng kết từ hiện thực lịch sử với những
sự kiện oanh liệt hào hùng đó. Vì vậy, học tập, nghiên cứu lịch sử Đảng có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với mỗi chúng ta.
I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI, BƯỚC NGOẶT QUYẾT ĐỊNH
CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đó là kết
quả của sự chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị và tổ chức; của sự vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta; là
sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước. Sự ra đời của Đảng đáp ứng nhu cầu lịch sử của đất nước ta; phù
hợp với xu thế phát triển của thời đại.
1. Tình hình xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời
Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành xâm lược
Việt Nam, rồi từng bước thiết lập chế độ thống trị của chủ nghĩa thực dân trên
đất nước ta.
Về chính trị, người Pháp trực tiếp nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong
bộ máy nhà nước, thi hành chính sách cai trị chuyên chế, biến một bộ phận giai
cấp tư sản mại bản và địa chủ phong kiến Việt Nam thành tay sai đắc lực. Sự cấu
kết giữa chủ nghĩa đế quốc và phong kiến tay sai là đặc trưng của chế độ thuộc
địa. Chính quyền thuộc địa không chỉ tước hết quyền độc lập, quyền tự do dân
chủ của nhân dân ta mà còn tiến hành đàn áp một cách dã man mọi phong trào yêu
nước, ngăn chặn ảnh hưởng của các trào lưu tiến bộ từ bên ngoài vào nước ta.
Về kinh tế, thực dân Pháp triệt để khai thác Đông Dương vì lợi ích
của giai cấp tư sản Pháp, bóc lột tàn bạo nhân dân ta, thực hiện chính sách độc
quyền, kìm hãm sự phát triển kinh tế độc lập của nước ta. Chúng đặt ra hàng
trăm thứ thuế vô lý, vô nhân đạo, duy trì bóc lột kiểu phong kiến... đẩy nhân dân
ta vào cảnh bần cùng, làm cho nền kinh tế bị què quặt, lệ thuộc vào kinh tế
Pháp, để lại hậu quả nghiêm trọng, kéo dài.
Về văn hoá - xã hội, Pháp thực hiện chính sách ngu dân, khuyến khích văn hoá
nô dịch, sùng Pháp, kìm hãm nhân dân ta trong vòng tăm tối, dốt nát, lạc hậu,
phục tùng sự cai trị của chúng.
Quá trình khai thác
thuộc địa triệt để của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có những biến
đổi lớn; hai giai cấp mới ra đời: giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Nước
ta từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Trong xã
hội tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với
thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân với
giai cấp địa chủ phong kiến tay sai, chỗ dựa cho bộ máy thống trị và bóc lột
của chủ nghĩa thực dân Pháp. Hai mâu thuẫn đó có quan hệ chặt chẽ với nhau,
trong đó mâu thuẫn giữa dân tộc ta với thực dân Pháp xâm lược là mâu thuẫn chủ
yếu. Vì vậy, nhiệm vụ chống thực dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống địa chủ
phong kiến tay sai không tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải
gắn chặt với đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu của cách mạng
Việt Nam đặt ra, cần được giải quyết.
2. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra
đời
Trong quá trình đấu
tranh dựng nước và giữ nước lâu dài, gian khổ, dân tộc ta sớm hình thành truyền
thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất. Vì vậy, ngay
từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta đã liên tiếp đứng lên chống lại
chúng. Từ năm 1858 đến trước năm 1930, hàng trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào
chống Pháp đã nổ ra theo nhiều khuynh hướng khác nhau, như khởi nghĩa của
Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du, Đông
Kinh nghĩa thục, Duy Tân; các cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa
Thám, Nguyễn Thái Học... lãnh đạo. Các cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh đó
vô cùng anh dũng, nhưng đã bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và cuối cùng đều
thất bại.
Nguyên nhân cơ bản
dẫn tới thất bại của các phong trào đấu tranh là do những người đứng đầu các
cuộc khởi nghĩa, các phong trào chưa tìm được con đường cứu nước phản ánh đúng
nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam. Cách mạng nước ta đứng trước sự khủng
hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Việc tìm một con đường cứu nước đúng đắn,
phù hợp với thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc và thời đại là nhu cầu bức
thiết nhất của dân tộc ta lúc bấy giờ.
3. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước và sự ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam
Giữa lúc
cách mạng Việt Nam đang lâm vào cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, ngày 5-6-19 11, người
thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) ra nước
ngoài, bắt đầu đi tìm đường cứu nước. Người đã qua nhiều nơi trên thế giới, vừa
lao động, vừa học tập, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng tư
sản điển hình (Pháp, Mỹ), tích cực tham gia hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp.
Năm 1917,
Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của Nguyễn Ái
Quốc. Người rất ngưỡng mộ cuộc cách mạng đó, kính phục V. I. Lênin và đã tham
gia nhiều hoạt động ủng hộ, bảo vệ cách mạng Nga; tham gia sáng lập Đảng Cộng
sản Pháp. Những hoạt động cách mạng phong phú đó đã giúp Người từng bước rút ra
những bài học quý báu và bổ ích cho sự lựa chọn con đường cách mạng của mình.
Tháng
7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin. Luận
cương đã giải đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở. Từ đây,
Người đã tìm ra con đường cứu nước, cứu dân đúng đắn: "Muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản"[1]; xác định những
vấn đề cơ bản của đường lối giải phóng dân tộc. Đó là con đường giải phóng dân
tộc gắn với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, giai
cấp vô sản phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng dân tộc từng
nước với phong trào cách mạng vô sản thế giới.
Đối với
Nguyễn Ái Quốc, đây là bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng
sản, từ một chiến sĩ giải phóng dân tộc trở thành một chiến sĩ cộng sản quốc
tế. Sự kiện đó cũng đánh dấu bước ngoặt mở đường thắng lợi cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu và
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta, tìm ra con đường đúng đắn
giải phóng dân tộc Việt Nam.
Trở thành
chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia hoạt động trong phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào cách mạng thuộc địa; nghiên cứu
và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam qua các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân
và sau này là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925).
Sau một thời
gian ngắn tham gia học tập ở Liên Xô và hoạt động trong Quốc tế Cộng sản, tháng
11-1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn
bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại đây, Người sáng lập và trực tiếp huấn
luyện Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, sáng lập và viết bài cho báo Thanh niên, xuất bản tác phẩm Đường Kách mệnh (1927)... nhằm tuyên
truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước. Người tổ chức đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ cốt cán, tiếp tục chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho
việc thành lập Đảng.
Chủ nghĩa
Mác - Lênin và các tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như “người đi đường đang khát mà có
nước uống, đang đói mà có cơm ăn”. Nó lôi cuốn những người yêu
nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản; làm dấy lên cao trào đấu
tranh mạnh mẽ, sôi nổi khắp cả nước, trong đó giai cấp công nhân ngày càng trở
thành một lực lượng chính trị độc lập. Sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào
phong trào quần chúng và phong trào công nhân, làm cho phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có
tổ chức đảng chính trị lãnh đạo. Vì vậy, các tổ chức cộng sản lần lượt được
thành lập:
- Ngày
17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ.
- Mùa Thu
năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ.
- Ngày 1-1-19 30,
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.
Như vậy, chỉ
trong một thời gian ngắn, ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản tuyên bố thành
lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt
Nam, đồng thời sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một
quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng đặt ra
là cần có một đảng cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách mạng của giai
cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - cán bộ của Quốc tế
Cộng sản, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam - là người duy
nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu thống nhất các tổ chức cộng sản.
Từ ngày 6-1
đến ngày 7-2-19 30,
Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại bán đảo Cửu Long (Hương Cảng,
Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí
thành lập một đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng.
Hội nghị hợp
nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là Đại hội thành
lập Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh
giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX, là sản
phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước, là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch
sử và của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một
tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
Đó là một
mốc lớn, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt thời
kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước. Chánh cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được Hội nghị thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua đã xác định: cách mạng Việt Nam phải tiến
hành cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội là con đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con
người.
Sự ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng
tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Sự ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.
II. NHỮNG THÀNH TỰU
VĨ ĐẠI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
1. Đảng lãnh đạo và tổ chức các cuộc đấu tranh
cách mạng, khởi nghĩa giành chính quyền - Cách mạng Tháng Tám 1945
Ngay khi vừa mới ra
đời, với đường lối cách mạng cứu nước đúng đắn, Đảng ta đã quy tụ, đoàn kết
chung quanh mình tất cả các giai cấp, các tầng lớp yêu nước, xây dựng nên lực
lượng cách mạng to lớn và rộng khắp, đấu tranh chống thực dân Pháp và bọn phong
kiến tay sai vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Qua 15 năm đầu tiên
lãnh đạo cách mạng (1930-1945), trải qua các cuộc đấu tranh gian khổ hy sinh,
với ba cao trào cách mạng lớn (1930-1931, 1936-1939, 1939-1945), khi thời cơ
đến Đảng đã lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công. Nhân
dân Việt Nam đã đập tan xiềng xích nô lệ của chế độ thực dân và lật nhào chế độ
phong kiến tay sai thối nát.
Ngày 2-9-19 45, Chủ tịch
Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên
ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, lập nên nhà nước
của dân, do dân và vì dân. Dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc
lập, tự do, dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đánh giá ý nghĩa lịch sử của sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chẳng
những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao
động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là
lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc
địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo
cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc"1.
2. Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh bảo vệ chính quyền
cách mạng và tiến hành thắng lợi các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược (1945 - 1975)
a) Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ chính
quyền cách mạng (1945-1946)
Ngay khi vừa
mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã phải đối mặt với ba thứ giặc:
giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Nạn đói hoành hành đầu năm 1945 đã làm
chết hơn hai triệu người ở miền Bắc. Trên 95% dân Việt Nam mù chữ. Ở miền Bắc,
hơn 20 vạn quân Tưởng đã tràn vào với mưu đồ "diệt cộng, cầm Hồ". Ở
miền Nam, hơn 15 vạn quân Pháp với sự giúp đỡ của liên quân Anh - Ấn lăm le xâm
lược nước ta. Trong khi đó, lực lượng mọi mặt của Nhà nước ta còn rất non yếu;
vận mệnh của đất nước trước tình thế “ngàn
cân treo sợi tóc”. Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã kịp thời
đề ra những chủ trương và quyết sách đúng đắn, toàn diện trên tất cả các mặt
chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng. Đối với các thế lực thù địch,
chúng ta đã thực hiện sách lược mềm dẻo, lợi dụng mâu thuẫn, phân hoá chúng,
dành thời gian củng cố lực lượng, chuẩn bị kháng chiến. Với đường lối chính trị
sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược, Đảng ta đã
động viên được sức mạnh đoàn kết toàn dân, triệu người như một, vượt qua muôn
vàn khó khăn, nguy hiểm để củng cố, giữ vững chính quyền, đưa cách mạng vượt
qua tình thế hiểm nghèo, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống
thực dân Pháp.
b) Đảng lãnh đạo cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946-1954)
Bất chấp mong muốn
độc lập và hoà bình của Chính phủ và nhân dân ta, mặc dù chúng ta đã nhân nhượng nhưng thực dân Pháp
càng lấn tới vì chúng có dã tâm cướp nước ta một lần nữa.
Lịch sử đã đặt dân
tộc ta trước một thử thách mới, phải đứng lên bảo vệ nền độc lập của dân tộc.
Đêm ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt đứng lên với quyết tâm “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu
mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Với đường lối kháng chiến toàn
dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, giành thắng lợi trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đánh dấu bằng chiến thắng lịch
sử Điện Biên Phủ.
Đánh giá ý nghĩa
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
rõ: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một
nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam,
đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hoà bình, dân chủ và xã hội
chủ nghĩa trên thế giới”1.
Thắng lợi đó làm
sáng tỏ một chân lý: “Trong điều kiện thế giới ngày nay, một dân tộc dù là nhỏ
yếu, nhưng một khi đã đoàn kết đứng lên, kiên quyết đấu tranh dưới sự lãnh đạo
của chính đảng Mác - Lênin để giành độc lập và dân chủ, thì có đầy đủ lực lượng
để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Thắng lợi đó cũng chứng tỏ rằng chỉ có sự
lãnh đạo đúng đắn của giai cấp công nhân mà Đảng ta là đại biểu, chỉ có đường
lối cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin mới có thể tạo điều kiện cho
nhân dân ta đánh bại quân thù và giành tự do, độc lập”2.
c) Đảng lãnh
đạo nhân dân ta tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược (1954 - 1975)
Với thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ mới
với đặc điểm là đất nước tạm thời chia làm hai miền với hai chế độ chính trị -
xã hội đối lập nhau. Đảng xác định con đường phát triển tất yếu của cách mạng
Việt Nam là tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược:
Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây
dựng miền Bắc thành căn cứ địa vững mạnh của cách mạng cả nước.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam,
chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất
nước nhà.
Tuy mỗi miền thực
hiện một nhiệm vụ chiến lược khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau;
trong đó cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối
với toàn bộ sự phát triển của cách mạng Việt Nam, cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam giữ vị trí quan trọng, có tác dụng trực tiếp đối với sự
nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với tinh
thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ
nhào”. Trong cuộc đọ sức quyết liệt này, đế quốc Mỹ đã huy động và sử dụng một
lực lượng quân sự và phương tiện chiến tranh khổng lồ hòng tiêu diệt lực lượng
cách mạng nước ta. Trải qua 21 năm chiến đấu kiên cường, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ hy sinh, được sự đồng tình
ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới, đã lần lượt đánh thắng các
chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại bằng
không quân, hải quân ở miền Bắc. Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân
năm 1975 với thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta đã kết
thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước. Thắng lợi oanh liệt mùa Xuân năm 1975 đã kết thúc vẻ vang 30 năm
chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; chấm dứt ách thống trị tàn bạo
hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ trong cả nước; bảo vệ thành quả của chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc, mở ra thời kỳ mới - thời kỳ độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi cả nước.
Đánh giá tầm
vóc vĩ đại và ý nghĩa lớn lao của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nghị
quyết Đại hội IV của Đảng viết: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của
nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào
lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng
ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và
đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có
tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”1.
3. Đảng lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (từ năm 1975 đến nay)
Bước vào thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam có
những thuận lợi, song cũng không ít khó khăn. Khó khăn lớn nhất là nền kinh tế
sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp, hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại.
Trong quan hệ quốc tế, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động bên ngoài tìm
mọi cách phá hoại, bao vây, cấm vận, gây khó khăn cho cách mạng Việt Nam. Trên
thế giới, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trải qua nhiều diễn biến
phức tạp: chủ nghĩa xã hội gặp những khó khăn, lâm vào khủng hoảng, thoái trào,
đặc biệt là sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu. Tình
hình đó đã tác động, ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, trong 10 năm (1975 - 1985), cách mạng Việt Nam đã vượt qua những khó
khăn, trở ngại, thu được những thành tựu quan trọng. Chúng ta đã nhanh chóng
hoàn thành việc thống nhất đất nước về mọi mặt, đánh thắng các cuộc chiến tranh
biên giới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trên các lĩnh vực kinh
tế, văn hoá - xã hội, nhân dân ta đã có những cố gắng to lớn trong công cuộc
khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, bước đầu bình ổn sản xuất và
đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân, những thành tựu về kinh tế - xã hội đạt được còn thấp so với yêu
cầu, kế hoạch và công sức bỏ ra; nền kinh tế có mặt mất cân đối nghiêm trọng,
tỷ lệ lạm phát cao quá mức, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật, tại Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986), Đảng đã nghiêm khắc kiểm điểm,
khẳng định những mặt làm được, phân tích rõ những sai lầm, khuyết điểm, đặc
biệt là khuyết điểm chủ quan, duy ý chí trong lãnh đạo kinh tế. Đại hội đã đề
ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra
bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII của
Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 và Nhiệm vụ kinh tế - xã hội 5 năm 1991 -
1995. Đại hội đưa ra quan niệm tổng quát về xã hội xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, phương hướng cơ bản để xây dựng xã hội đó; khẳng định chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của
Đảng; khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau 10 năm thực
hiện đường lối đổi mới toàn diện và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII của Đảng, đất nước ta đã vượt qua một giai đoạn
thử thách gay go. Đại hội VIII của Đảng (từ ngày 22-6 đến ngày 1-7-1996) đã
nhận định: “Công cuộc đổi mới trong 10 năm qua đã thu được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội VII
đề ra cho 5 năm 1991-1995 đã được hoàn thành về cơ bản.
Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng
một số mặt còn chưa vững chắc.
Nhiệm vụ đề
ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp
hoá đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn”1.
Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: "Tiếp tục sự nghiệp
đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội"1 và đề ra nhiệm vụ kinh tế - xã hội từ năm 1996 đến năm
2000 là: tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải
quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện
đời sống của nhân dân, nâng cao tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề
vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào thế kỷ XXI 2.
Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4-2001) đã kiểm điểm việc thực hiện Nghị
quyết Đại hội VIII và khẳng định, trong 5 năm 1996-2000, toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta đã vượt qua những khó khăn, thách thức, đạt được những thành tựu
quan trọng. Tổng kết 15 năm đổi mới, Đại hội đã khẳng định: Thực tiễn phong phú
và những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của
Đảng, đồng thời giúp chúng ta nhận thức càng rõ hơn về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt
Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Thế kỷ XX là thế kỷ đấu tranh oanh liệt và chiến thắng vẻ
vang của dân tộc ta. Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ nhân dân ta tiếp tục giành thêm
nhiều thắng lợi to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc, đưa nước ta sánh vai cùng các nước phát triển trên thế giới.
Đánh giá kết quả
thực hiện Nghị quyết Đại hội IX trong 5 năm (2001-2005), Nghị quyết Đại hội X
của Đảng đã khẳng định: toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã đạt những thành
tựu rất quan trọng:
Một là, nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ
tăng trưởng khá cao và phát triển tương đối toàn diện.
- Tốc độ
tăng trưởng GDP năm sau cao hơn
năm trước. Bình quân trong 5 năm 2001-2005 đạt 7,51%, đạt mức kế hoạch đề ra.
Cơ cấu lao động đã
có sự chuyển đổi tích cực, gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Các
thành phần kinh tế tiếp tục phát triển, chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm
năng, thế mạnh của mình, đóng góp một cách có hiệu quả vào sự phát triển chung
của đất nước. Hoạt động kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có bước
tiến mới rất quan trọng.
- Thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng bước đầu. Một số loại thị
trường mới hình thành, phát triển phù hợp với cơ chế mới.
Hai là, văn hoá và xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt; việc gắn
phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tốt; đời
sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Giáo dục và đào tạo, khoa học - công
nghệ có bước phát triển khá; công tác xoá đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm
thu được nhiều kết quả; công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân đạt được kết quả
tốt, đã khống chế và đẩy lùi được một số bệnh dịch nguy hiểm; tuổi thọ trung
bình của người Việt Nam tăng.
Ba là, chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng và an ninh được
tăng cường; quan hệ đối ngoại có bước phát triển mới.
Bốn là, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có
tiến bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sức mạnh khối đại
đoàn kết toàn dân tộc được phát huy.
Năm là, công tác xây dựng Đảng đạt
một số kết quả tích cực.
Đại hội cũng chỉ ra những khuyết
điểm và yếu kém:
Một là, tăng trưởng kinh tế chưa
tương xứng với khả năng; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế
còn thấp; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm.
Hai là, cơ chế, chính sách về văn hoá
- xã hội chậm đổi mới; nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt, tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn nghiêm trọng, tội phạm và một số tệ nạn xã
hội có chiều hướng tăng.
Ba là, các lĩnh vực quốc phòng, an
ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế.
Bốn là, tổ chức và hoạt động của Nhà
nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân còn một số khâu chậm đổi mới, bộ máy
quản lý nhà nước các cấp, nhất là ở cơ sở còn yếu kém; tình trạng nhũng nhiễu,
cửa quyền, thiếu trách nhiệm ở một bộ phận công chức chậm được khắc phục; hoạt
động của Quốc hội còn lúng túng; dân chủ trong xã hội còn bị vi phạm; kỷ cương,
kỷ luật ở nhiều nơi không nghiêm.
Năm là, công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng chưa đạt yêu cầu. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận
cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng. Nhiều tổ chức cơ sở đảng sức chiến đấu
yếu.
Những khuyết điểm,
yếu kém trên là do nhiều nguyên nhân. Đại hội X của Đảng đã phân tích và chỉ ra
nguyên nhân chủ quan là chính. Đó là, tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm
đổi mới; sự chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa tốt; một bộ phận cán bộ, đảng viên,
kể cả cán bộ chủ chốt, yếu kém về phẩm chất và năng lực. Đây là những vấn đề
cần sớm được khắc phục.
Nhìn lại 20 năm đổi
mới, Đại hội X khẳng định: Với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử. Đại hội đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm chủ yếu của quá trình
đổi mới ở nước ta.
Những thành tựu và bài học đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là
đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Qua 20 năm, hệ thống quan
điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản, ngày càng
sáng tỏ hơn.
Thực hiện chủ trương Đại hội X, Đại hội XI của Đảng đã tiến hành tổng kết
20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2001-2010 và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
2006-2011.
Đại hội khẳng định,
nhìn
tổng quát, 5 năm qua, trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước
có rất nhiều khó khăn, thách thức, nhất là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, toàn Đảng, toàn dân ta đã nỗ lực phấn
đấu đạt được những thành tựu quan trọng; ứng phó có kết quả với những
diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới và trong nước; cơ bản giữ vững ổn định
kinh tế vĩ mô; duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, các ngành đều có
bước phát triển, quy mô nền kinh tế tăng lên; đời sống của nhân dân tiếp tục
được cải thiện; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng
cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; hoạt
động đối ngoại, hội nhập quốc tế được mở rộng, vị thế, uy tín quốc tế của nước
ta được nâng cao; phát huy dân chủ có tiến bộ, khối đại đoàn kết toàn dân tộc
tiếp tục được củng cố; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị đạt một số
kết quả tích cực.
Kết quả đạt được
trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X đã góp phần quan trọng vào việc thực
hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và 20
năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Mười năm thực hiện Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 là giai đoạn đất nước ta thực
sự đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đã đạt được những thành tựu
to lớn và rất quan trọng; kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân
7,26%/năm; tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 so với năm 2000 theo giá
thực tế gấp 3,26 lần; thu ngân sách, kim ngạch xuất khẩu gấp 5 lần; tuổi thọ
bình quân tăng từ 67 tuổi lên 72,8 tuổi.
Những thành tựu đạt
được trong 20 năm thực hiện Cương lĩnh là to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Đất nước bước đầu thực hiện thành công công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng
kém phát triển, bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi;
sức mạnh về mọi mặt được tăng cường, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt
Nam trên trường quốc tế được nâng cao; tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát
triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới.
Đại hội đã khẳng định Nguyên nhân của những thành tựu đạt được 5 năm qua
là do sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư, các cấp uỷ đảng trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội
X, giải quyết kịp thời, có kết quả những vấn đề mới phát sinh; sự đổi mới, nâng
cao chất lượng hoạt động của Quốc hội và các cơ quan dân cử; sự điều hành năng
động của Chính phủ, chính quyền các cấp; sự nỗ lực của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân, của cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân, cộng đồng các
doanh nghiệp. Bối cảnh hội nhập quốc tế đem lại nhiều cơ hội, điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển đất nước.
Tuy nhiên, một số chỉ tiêu,
nhiệm vụ Đại hội X đề ra chưa đạt; kinh tế phát triển chưa bền vững, chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp; chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá chậm; chế độ phân phối còn nhiều
bất hợp lý, phân hoá xã hội tăng lên. Những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực
giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường chậm
được khắc phục; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tội phạm, tệ nạn xã hội,
suy thoái đạo đức, lối sống... chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Thể chế kinh tế
thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm yếu cản
trở sự phát triển. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc chưa được phát huy đầy đủ. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân chuyển biến chậm. Còn tiềm ẩn những yếu tố
gây mất ổn định chính trị - xã hội.
Những hạn chế, yếu
kém có nguyên nhân khách quan là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái
kinh tế toàn cầu; thiên tai, dịch bệnh; những yếu kém vốn có của nền kinh tế;
sự chống phá của các thế lực thù địch; nhưng trực tiếp và quyết định nhất
vẫn là nguyên nhân chủ quan: Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhận thức trên nhiều vấn đề
cụ thể của công cuộc đổi mới còn hạn chế, thiếu thống nhất. Công tác dự báo
trong nhiều lĩnh vực còn yếu. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, quản lý, điều hành
của Nhà nước trên một số lĩnh vực và một số vấn đề lớn chưa tập trung, kiên
quyết, dứt điểm; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Tổ chức thực hiện vẫn là khâu
yếu. Năng lực, phẩm chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức còn bất cập.
Ban Chấp hành Trung
ương khóa X đã tự phê bình trước Đại hội và trước nhân dân về những khuyết
điểm, yếu kém đã làm hạn chế những thành tựu lẽ ra có thể đạt được nhiều hơn.
Từ thực tiễn lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Đại hội XI đã rút ra một số
kinh nghiệm sau đây:
Một là, trong bất kỳ điều
kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi
mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đổi
mới toàn diện, đồng bộ với những bước đi thích hợp. Tích cực, chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế phải gắn với chú trọng xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ,
giữ vững truyền thống và bản sắc văn hoá dân tộc. Mở rộng, phát huy dân chủ
phải gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương và ý thức trách nhiệm của mỗi công
dân, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và cả cộng đồng.
Hai là, phải thực
sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững, nâng cao chất lượng
và hiệu quả của nền kinh tế, đồng thời duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, giữ
vững ổn định kinh tế vĩ mô. Tăng cường huy động các nguồn lực trong và ngoài
nước, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn lực để đẩy nhanh tốc độ phát
triển kinh tế. Phát triển lực lượng sản xuất phải đồng thời xây dựng, hoàn
thiện quan hệ sản xuất phù hợp; củng cố và tăng cường các yếu tố bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.
Ba là, phải coi
trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa,
đặc biệt là trong tình hình kinh tế khó khăn, suy giảm; gắn phát triển kinh tế
với phát triển văn hoá, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường quan hệ đối
ngoại, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, đặc biệt
chăm lo củng cố, xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Thật sự phát huy
dân chủ, giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương, đoàn kết thống nhất, gắn bó
mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào
nhân dân để xây dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vững vàng về
chính trị, tư tưởng, trong sáng về đạo đức, lối sống, có sức chiến đấu cao,
thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ; phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý của
Nhà nước, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân.
Năm là, trong công
tác lãnh đạo và chỉ đạo phải rất nhạy bén, kiên quyết, sáng tạo, bám sát thực tiễn
đất nước; chú trọng công tác dự báo, kịp thời đề ra các giải pháp phù hợp với
tình hình mới; tăng cường công tác tuyên truyền, tạo sự đồng thuận cao, phát
huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội.
Trên cơ sở dự báo
bối cảnh quốc tế và trong nước trong thời gian tới, Đại hội XI đã đề ra nhiệm
vụ tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đại hội
khẳng định, thực tiễn phong phú và những thành tựu đạt được qua 25 năm đổi mới,
20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội đã chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng
tạo; đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn phù hợp với quy luật khách quan và
thực tiễn cách mạng Việt Nam. Chúng ta một lần nữa khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa
xã hội mới bảo đảm cho dân tộc ta có độc lập, tự do thực sự, đất nước phát triển
phồn vinh, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Qua tổng kết 20 năm
thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Đại hội đánh giá ý nghĩa lịch sử và giá trị định
hướng, chỉ đạo to lớn của Cương lĩnh đối với công cuộc đổi mới theo con đường
xã hội chủ nghĩa ở nước ta; đồng thời cũng thấy rõ thêm những vấn đề mới đặt ra
cần tiếp tục được giải đáp. Đại hội đã quyết định bổ sung, phát triển Cương
lĩnh năm 1991 để làm nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội;
phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại; và đến giữa thế kỷ XXI trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Để xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đại hội đề
ra nhiệm vụ tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ với chất lượng và hiệu quả cao
hơn; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri
thức; phát triển kinh tế thị trường gắn với giải quyết hài hoà các vấn đề xã
hội, môi trường; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền
tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia;
thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển,
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố và mở rộng mặt trận
dân tộc thống nhất; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng, tổ chức. Đặc biệt chú trọng xử lý và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn:
quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát
triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Đặc biệt, Đại hội XI, đề ra 7 nhiệm vụ trọng
tâm trong nhiệm kỳ là:
- Nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
- Cải cách hành
chính, nhất là thủ tục hành chính liên quan đến tổ chức và hoạt động của doanh
nghiệp, sinh hoạt của nhân dân.
- Nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, hội nhập quốc tế của đất nước.
- Xây dựng đồng bộ
hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, nhất là hệ thống giao thông, yếu tố đang gây
ách tắc, cản trở sự phát triển kinh tế, gây bức xúc trong nhân dân.
- Đổi mới quan hệ
phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức,
người lao động; khắc phục tình trạng bất hợp lý và tác động tiêu cực của quan
hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập hiện nay.
- Tập trung giải
quyết một số vấn đề xã hội bức xúc (suy thoái đạo đức, lối sống, tệ nạn xã hội,
trật tự, kỷ cương xã hội).
- Đẩy mạnh, nâng
cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí để thực sự ngăn
chặn, đẩy lùi được tệ nạn này.
III. NHỮNG TRUYỀN THỐNG QUÝ BÁU CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng không ngừng được
tôi luyện, trưởng thành và đã xây dựng nên những truyền thống quý báu, thể hiện
bản chất tốt đẹp của Đảng. Đó là:
- Bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý
tưởng cách mạng.
- Tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo.
- Kiên định chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
- Trung thành với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, gắn bó mật thiết với
nhân dân.
- Kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của
Đảng.
- Giữ gìn đoàn kết
nội bộ, đoàn kết quốc tế...
Những truyền thống quý báu của Đảng là sự kế thừa và phát huy truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân quốc
tế, là sức mạnh bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng. Đó là kết quả của quá trình
vun trồng, xây đắp bền bỉ, là sự hy sinh, phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ
đảng viên của Đảng. Những truyền thống đó có ý nghĩa dân tộc và quốc tế sâu
sắc, thể hiện tinh thần cách mạng triệt để, trình độ trí tuệ ngày càng được
nâng cao của Đảng ta.
Khái quát lịch sử
Đảng có thể khẳng định rằng: ngay từ khi vừa mới ra đời, Đảng ta, đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đã nắm bắt đúng xu thế phát triển của thời đại,
gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới, giải quyết
đúng đắn vấn đề dân tộc trên lập trường của giai cấp công nhân. Vì vậy, trên
con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, nhất là trong những bước ngoặt
lịch sử phải đương đầu với mọi thử thách, dù hiểm nghèo, tưởng không thể vượt
qua, Đảng đã kịp thời có những quyết sách sáng suốt, đúng đắn, đáp ứng yêu cầu
phát triển của thực tiễn, đưa con thuyền cách mạng vượt lên.
Cơ sở, nguồn
gốc sức mạnh và truyền thống của Đảng là ở chỗ: Đảng đứng vững trên nền tảng tư
tưởng tiên tiến của thời đại, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đảng không chỉ nắm bắt những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,
mà còn vận dụng sáng tạo và phát triển trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Cơ
sở, nguồn gốc sức mạnh của Đảng còn ở chỗ Đảng đã không ngừng phát huy truyền
thống tốt đẹp của dân tộc ta và tiếp thu những tinh hoa trí tuệ của nhân loại.
Học tập, nghiên cứu
lịch sử và truyền thống của Đảng để tự hào về Đảng và góp phần giữ vững, kế
thừa, phát huy những truyền thống đó, làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững
mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ngang tầm thời đại
mới.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Phân tích hoàn cảnh ra đời và vai trò của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc đối với sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Từ khi ra đời tới nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh
đạo nhân dân giành được những thắng lợi vĩ đại. Khái quát các thắng lợi vĩ đại
trong 80 năm qua.
3. Phân tích những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Bài 2
CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
(Bổ sung, phát triển năm 2011)
A. VỀ CƯƠNG LĨNH VÀ CÁC CƯƠNG LĨNH CỦA ĐẢNG
I. VỀ CƯƠNG
LĨNH
1. Cương lĩnh là
gì?
Trong xã hội có mâu thuẫn giai cấp đối kháng, đấu
tranh giai cấp mang tính tự phát với mục tiêu kinh tế sẽ phát triển dần đến đấu
tranh mang tính tự giác - đấu tranh chính trị, liên quan đến vấn đề giành hoặc
giữ chính quyền. Đấu tranh chính trị đòi hỏi giai cấp phải có mục tiêu chính
trị rõ ràng, tổ chức chặt chẽ, tập hợp, huy động đông đảo lực lượng của giai
cấp và các lực lượng liên minh với mình. Đó là yêu cầu và điều kiện ra đời của
đảng chính trị - đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu, tổ chức cao nhất, chặt
chẽ nhất, kiên quyết nhất của giai cấp. Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử đó, đảng
chính trị phải có Cương lĩnh chính trị (cũng gọi là Chính cương; Luận cương
chính trị...)
Cương lĩnh chính trị là văn kiện cơ bản,
chỉ rõ mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ, phương pháp cách mạng trong một giai đoạn
lịch sử nhất định của một chính đảng hoặc một tổ chức chính trị.
2.
Tính chất của Cương lĩnh
Bất kỳ bản Cương lĩnh chính trị nào cũng
có các tính chất cơ bản sau:
- Cương lĩnh là bản tuyên ngôn
Cương lĩnh là bản tuyên ngôn chính trị,
là sự tuyên bố của Đảng về tôn chỉ, mục đích của Đảng; mục tiêu, lý tưởng mà
Đảng phấn đấu để đạt được trước thế giới, trước công chúng, quần chúng nhân
dân... V.I.Lênin viết: "Cương
lĩnh là một bản tuyên ngôn vắn tắt, rõ ràng và chính xác nói lên tất cả những điều mà đảng muốn
đạt được và vì mục đích gì mà đảng đấu tranh"1.
- Cương lĩnh
là lời hiệu triệu.
Thông qua
Cương lĩnh, chính đảng tập hợp lực lượng gia nhập đảng và nhận được sự ủng hộ,
tự nguyện đi theo đảng của các tầng lớp nhân dân, bạn bè quốc tế. Với Đảng ta, Cương lĩnh chính trị là cơ sở thống
nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, là ngọn cờ tập hợp, cổ vũ các lực lượng
xã hội phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng.
- Cương lĩnh là văn bản "pháp lý" cao nhất của Đảng
Cương lĩnh là văn bản quan trọng nhất
của Đảng, là cơ sở lý luận và đường lối
cơ bản của Đảng, định hướng cho đường lối trong các lĩnh vực. Mọi văn bản,
nghị quyết khác của Đảng đều phải tuân thủ, phù hợp, không được trái với Cương
lĩnh, kể cả Điều lệ Đảng.
Cương lĩnh do Đại hội đại biểu toàn quốc
của Đảng thông qua và ban hành. Mọi tổ chức đảng và đảng viên đều phải chấp
hành Cương lĩnh.
- Cương lĩnh là văn bản có tính chiến
lược lâu dài.
Cương lĩnh là văn bản trình bày những
nội dung cơ bản về mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng trong
một giai đoạn dài. Nếu nội dung cơ bản của Báo cáo chính trị của Đảng là nhiệm
vụ cho 5 năm, của Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội là 10 năm thì Cương lĩnh
định hướng sự phát triển của đất nước trong thời gian dài, thậm chí cả thời kỳ
quá độ...
- Cương lĩnh là cơ sở của công tác xây
dựng và phát triển Đảng.
Mọi Đảng viên trước khi gia nhập Đảng
đều phải biết về Cương lĩnh, trên cơ sở đó, tự nguyện gia nhập Đảng và thực
hiện theo quy định của Điều lệ Đảng.
II. CÁC CƯƠNG LĨNH CỦA ĐẢNG
1.
Những Cương lĩnh đầu tiên của Đảng
Ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã thông
qua Cương lĩnh chính trị để tập hợp và lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng
dân tộc và xây dựng xã hội mới. Hội nghị thành lập Đảng đã thông qua Chánh
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của
Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo. Đến tháng 10-1930, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã thông qua Luận cương cách mạng tư sản dân quyền do đồng chí
Trần Phú, Tổng Bí thư của Đảng soạn thảo. Nội dung cơ bản của Chánh cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Luận cương cách mạng tư sản dân
quyền đã được thông qua là tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc theo con
đường cách mạng vô sản.
Dưới ánh sáng của các Cương lĩnh đầu
tiên đó, nhân dân ta đã thực hiện thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám (1945) vĩ
đại, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do.
2.
Chính cương Đảng lao động Việt Nam
Tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ II (tháng 2/1951), Đảng ta đổi tên thành Đảng Lao động
Việt Nam và thông qua
"Chính cương Đảng Lao động Việt Nam ".
Chính cương Đảng Lao động Việt Nam có tư
tưởng nổi bật là chống đế quốc, chống phong kiến, thực hiện cách mạng dân tộc
dân chủ để tiến lên làm cách mạng XHCN, là ngọn cờ chiến đấu và chiến thắng của
dân tộc ta, của Đảng ta. Thực hiện Chính cương Đảng lao động Việt Nam, nhân dân
ta tiến hành thắng lợi các cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc hết sức vẻ
vang; giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa
vụ quốc tế, thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước,
đưa cả nước đi lên CNXH và bắt đầu công cuộc đổi mới.
3.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991
Vào
cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, bối cảnh thế giới đã có nhiều
biến đổi sâu sắc; chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, Chủ
nghĩa Mác-Lênin, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội...trải qua thử thách gay
gắt, công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội VI đã thu
được những thành tựu nhất định nhưng đời sống nhân dân còn khó khăn, khủng
hoảng kinh tế-xã hội chưa được khắc phục...
Trước
tình hình đó, tại Đại hội VII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, gọi tắt là Cương
lĩnh năm 1991.
Trong Cương lĩnh năm 1991, Đảng Cộng sản Việt Nam trình
bày thái độ của mình về quá trình cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo từ khi
thành lập; đánh giá của Đảng về thời đại, về tình hình quốc tế và trong nước,
về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về chủ nghĩa xã hội; đề ra mục
tiêu và phương hướng phát triển đất nước trong suốt thời kỳ quá độ. Cương lĩnh
năm 1991 trở thành vũ khí tư tưởng, lý luận, định hướng về tư tưởng và lý luận
cho toàn Đảng, toàn dân tiếp tục đi theo con đường xã hội chủ nghĩa trong điều
kiện thế giới đầy khó khăn và phức tạp.Thực hiện Cương lĩnh năm 1991, toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã đoàn kết phấn đấu, vượt qua những khó khăn, thử
thách, giành được thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã có sự
thay đổi toàn diện, thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội kéo dài, vượt
qua tình trạng nước nghèo, kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển
có thu nhập trung bình, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng
lên rõ rệt; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng tăng, tạo tiền đề
để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
4. Sự bổ sung,
phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội năm 1991 của Đại hội XI
Sau 20 năm kể từ khi Cương lĩnh năm 1991 ra đời,
tình hình trong nước và thế giới đã có những biến đổi sâu sắc. Cuộc cách mạng
khoa học, công nghệ, quá trình toàn cầu hóa tiếp tục diễn ra mạnh mẽ; Việt Nam
ngày càng hội nhập sâu rộng vào thế giới và khu vực và ngày càng được nhiều
nước công nhận là nền kinh tế thị trường; giao lưu văn hóa, xã hội diễn ra mạnh
mẽ...Trước tình hình đó, đòi hỏi Đảng phải bày tỏ rõ quan điểm, thái độ của
mình và định hướng con đường đi lên của đất nước trong thời kỳ từ nay đến giữa
thế kỷ XXI. Do đó, sau Đại hội X, Đảng ta đã tiến hành sửa đổi, bổ sung Cương
lĩnh năm 1991 cho phù hợp với điều kiện mới. Đại hội XI của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung,
phát triển năm 2011), thay thế Cương lĩnh năm 1991.
Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), gọi tắt là Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển
năm 2011), kế thừa những quan điểm, tư tưởng cơ bản của Cương lĩnh năm 1991
như:
- Ba thắng lợi vĩ đại mà Đảng và nhân dân ta đã giành
được kể từ khi thành lập Đảng...Bên cạnh đó, Đảng cũng phạm một số sai lầm,
khuyết điểm; năm bài học kinh nghiệm lớn mà Cương lĩnh năm 1991 rút ra từ 60
năm cách mạng Việt Nam.
- Về
thời đại ngày nay (thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội,
khẳng định loài người nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội, những mâu thuẫn
cơ bản của thời đại...); về những đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của
thời đại (cách mạng khoa học, công nghệ, kinh tế tri thức; quá trình toàn cầu
hóa; về các vấn đề toàn cầu...); về những thành tựu mà chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xô và Đông Âu đã đạt được cùng những tổn thất do sự đổ vỡ của nó mang lại; sự
thoái trào và khó khăn của chủ nghĩa xã hội, phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế; nhận định về bản chất, về tiềm năng phát triển của chủ nghĩa tư bản;
đặc điểm của khu vực châu Á-Thái bình dương...
- Mô hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng, về
đặc điểm cơ bản của con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam , những
phương hướng cơ bản chúng ta cần thực hiện để đạt được mục tiêu trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Nội
dung cơ bản trong các định hướng phát triển các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã
hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
- Vị
trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với xã hội, về bản chất
của Đảng, về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của
Đảng, phương hướng củng cố, xây dựng Đảng...
Về cơ
bản kế thừa các quan điểm, tư tưởng của Cương lĩnh năm 1991, nhưng Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) cũng có
nhiều điểm mới (bổ sung và phát triển) so với Cương lĩnh năm 1991 như:
- Bổ
sung vào ba thắng lợi vĩ đại thành tựu của công cuộc đổi mới sau 20 năm kể từ
khi Cương lĩnh năm 1991 ra đời.
- Bổ
sung một số nội dung vào năm bài học kinh nghiệm lớn.
- Bổ
sung, phát triển đánh giá về thời đại ngày nay, về đặc điểm của giai đoạn hiện
nay của thời đại (sự cùng tồn tại hòa bình, vừa hợp tác, vừa đấu tranh của các
nước có chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau; về xu thế lớn của thế
giới ngày nay là hòa bình, độc lập dân tộc,
hợp tác và phát triển bên cạnh xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp
đất đai, tài nguyên...); thành tựu của công cuộc cải cách, đổi mới ở các nước
xã hội chủ nghĩa còn lại; phong trào cộng sản, công nhân phục hồi nhưng còn khó
khăn; châu Á-Thái bình dương là khu vực phát triển năng động nhưng tiềm ẩn nguy
cơ bất ổn...
- Bổ
sung vào mô hình của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng hai đặc
trưng (đặc trưng bao trùm và đặc trưng về Nhà nước; đồng thời điều chỉnh đặc
trưng về kinh tế và một số đặc trưng khác.
- Bổ
sung, phát triển, cụ thể hóa một số nội dung về con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội, một số nội dung trong các phương hướng cơ bản đi lên chủ nghĩa xã hội; bổ
sung những mối quan hệ cần nắm vững và xử lý tốt trong thực hiện các phương
hướng cơ bản.
- Điều
chỉnh, bổ sung mục tiêu phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội.
- Điều
chỉnh, bổ sung nhiều điểm mới trong định hướng phát triển các lĩnh vực kinh
tế-xã hội cụ thể.
- Phát
triển cách diễn đạt về bản chất của Đảng cho phù hợp hơn với nhiệm vụ đoàn kết
toàn dân tộc trong giai đoạn hiện nay...
Ngoài ra, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) cũng
trình bày những quan điểm, tư tưởng gọn hơn, rõ hơn, phù hợp với nhận thức và
ngôn ngữ hiện nay.
B. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA
CƯƠNG LĨNH
(Bổ sung, phát triển năm 2011)
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được kết cấu thành 4 mục lớn:
Mục I: Quá trình cách mạng Việt Nam .
Trong
mục này, trên cơ sở nhìn lại 80 năm cách mạng Việt Nam từ khi Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời đến nay, 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, Đảng
ta khẳng định những thắng lợi vĩ đại mà Đảng và nhân dân ta đạt được; đồng thời
cũng thừa nhận những sai lầm, khuyết điểm của Đảng trong 80 năm ấy. Từ kinh
nghiệm 80 năm cách mạng, Đảng rút ra năm bài học kinh nghiệm lớn. Những bài học
này có ý nghĩa quan trọng chỉ đạo cách mạng nước ta tiếp tục tiến lên giành
những thắng lợi mới.
Mục II: Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam .
Trong
mục này, Cương lĩnh trình bày về mô hình chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam .
Đây là nội dung quan trọng nhất của Cương lĩnh, gồm các vấn đề:
- Bối
cảnh quốc tế và trong nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam .
- Mô
hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng.
- Các
mục tiêu và những phương hướng cần thực hiện để đạt các mục tiêu đó.
Mục III: Định hướng phát triển các lĩnh
vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Mục IV: Hệ thống chính trị và vai trò
lãnh đạo của Đảng.
Trên cơ
sở các phương hướng chung nêu ở Mục II, Cương lĩnh cụ thể hóa thành các định
hướng phát triển trên các lĩnh vực cụ thể. Mục III nêu các định hướng phát
triển về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Mục IV thực
chất là nêu các định hướng xây dựng hệ thống chính trị; xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh. Đây là nhân tố quyết định thành công của quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta.
I.
QUÁ TRÌNH CÁCH MẠNG VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1.
Những thắng lợi vĩ đại
Trên
cơ sở tổng kết 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, kế thừa
Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định những thắng lợi vĩ đại của cách mạng
Việt Nam là:
-
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân,
phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ
nguyên độc lập, tự do;
-
Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng
lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế;
-
Thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội
nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với
nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.
Với
những thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm qua, nước ta từ một xứ thuộc địa
nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con
đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm
chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém
phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế
rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Tuy
nhiên, khó khăn, thách thức còn nhiều.
Đảng
cũng thừa nhận trong Cương lĩnh: "...có lúc cũng phạm sai lầm, khuyết
điểm, có những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý
chí, vi phạm quy luật khách quan". Đảng đã nghiêm túc tự phê bình, sửa
chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn.
2. Những bài học kinh nghiệm lớn
Từ thực
tiễn phong phú của cách mạng, Đảng đã rút ra năm bài học kinh nghiệm lớn:
Một là, nắm vững
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau.
Độc lập
dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã
hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt
chẽ với nhau.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Chính
nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng
phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của
Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân.
Quan
liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với
vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường
đoàn kết: đoàn
kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Đó là
truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công,
thành công, đại thành công.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế.
Trong
bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh
thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ ngoại lực,
kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là
nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam .
Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ
quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí
tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ
sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ
trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải
phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự
thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên.
II. QUÁ
ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
1. Bối cảnh quốc tế và trong nước
a) Bối cảnh quốc tế
- Thời
đại ngày nay là thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới, thể
hiện qua khẳng định của Đảng trong Cương lĩnh: "Cuộc đấu tranh của nhân
dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã
hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo
quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã
hội".
Mâu thuẫn cơ bản của thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội luôn là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao
của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất của chủ
nghĩa tư bản, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội.
Xu thế chung nhất của thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội là xu thế tiến bộ, phát triển đi lên, ngày càng thắng thế của chủ
nghĩa xã hội, nhưng cũng không tránh khỏi những bước thụt lùi, quanh co, phản
tiến bộ thắng thế trong những giai đoạn nhất định của thời đại.
- Giai
đoạn hiện nay của thời đại có những đặc điểm cơ bản:
+ Cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hoá
diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước.
+ Các
mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác
nhau vẫn tồn tại và phát triển.
+ Đặc
điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã
hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh,
cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn;
nhưng đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ
trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật
đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết
liệt về lợi ích kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp.
+ Khu
vực châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á phát triển năng động, nhưng cũng
tiềm ẩn những nhân tố mất ổn định.
+ Liên
Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã đạt những thành tựu to lớn về nhiều mặt,
từng là chỗ dựa cho phong trào hoà bình và cách mạng thế giới, góp phần quan
trọng vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là tổn thất lớn đối
với phong trào cách mạng thế giới, nhưng một số nước theo con đường xã hội chủ
nghĩa, trong đó có Việt Nam, vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành cải
cách, đổi mới, giành được những thành tựu
to lớn, tiếp tục phát triển; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có
những bước hồi phục. Tuy nhiên, các nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, phong
trào cộng sản và cánh tả còn gặp nhiều khó khăn, các thế lực thù địch tiếp tục
chống phá, tìm cách xoá bỏ chủ nghĩa xã hội.
- Chủ
nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp
bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản,
nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản
xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết
được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn
tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu
tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản.
+ Các
nước đang phát triển, kém phát triển phải tiến hành cuộc đấu tranh rất khó
khăn, phức tạp chống nghèo nàn, lạc hậu, chống mọi sự can thiệp, áp đặt và xâm
lược để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc.
+ Nhân
dân thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách có liên quan đến
vận mệnh loài người. Đó là giữ gìn hoà bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống
khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn chế
sự bùng nổ về dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những dịch bệnh hiểm nghèo... Việc
giải quyết những vấn đề đó đòi hỏi sự hợp tác và tinh thần trách nhiệm cao của
tất cả các quốc gia, dân tộc.
Tình
hình đó tạo thời cơ phát triển, đồng thời đặt ra những thách thức gay gắt, nhất
là đối với những nước đang và kém phát triển, trong đó có nước ta.
b) Bối cảnh trong nước
Nước ta
đi lên chủ nghĩa xã hội với những khó khăn và thuận lợi cơ bản:
- Khó
khăn:
+ Đi
lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh
phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội.
+ Do
điểm xuất phát của nước ta thấp nên nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ
lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan
xen.
- Thuận
lợi:
+ Có sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng
lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dạn kinh nghiệm lãnh
đạo;
+ Dân
tộc ta là một dân tộc anh hùng, có ý chí vươn lên mãnh liệt; nhân dân ta có
lòng yêu nước nồng nàn, có truyền thống đoàn kết và nhân ái, cần cù lao động và
sáng tạo, luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng;
+ Chúng
ta đã từng bước xây dựng được những cơ sở vật chất - kỹ thuật rất quan trọng;
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự hình thành và phát triển kinh
tế tri thức cùng với quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế là một thời cơ
để phát triển.
2. Đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta xây dựng
Mô hình chủ nghĩa xã hội mà
nhân dân ta phấn đấu xây dựng không phải mô hình chủ nghĩa xã hội cũ đã bị sụp
đổ, mà là mô hình mới với các đặc trưng cơ bản:
- Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Đây là
đặc trưng tổng quát, là "khẩu hiệu rút gọn" của cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam .
- Do nhân dân làm chủ.
Đây là đặc trưng riêng có của chủ nghĩa xã hội. Trong
chế độ phong kiến, người làm chủ là vua; trong chế độ tư bản, người làm chủ là
các nhà tư bản; chỉ có dưới chủ nghĩa xã hội, nhân dân là người làm chủ.
- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp.
Khi nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại thì chế độ sở hữu lúc đó phải là chế độ công hữu về các tư liệu
sản xuất chủ yếu (theo quy luật phù hợp giữa tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất), nhưng công hữu phải được hiểu
theo quan niệm mới (sở hữu xã hội), không chỉ có sở hữu nhà nước và sở hữu tập
thể như cách hiểu trước đây.
- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện.
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.
- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước đề cao vai trò của
pháp luật; mọi tổ chức trong xã hội, mọi công dân đều phải tuân thủ, thực hiện
pháp luật. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có sự phân công, phối
hợp và kiểm soát giữa ba quyền (Lập pháp, hành pháp và tư pháp), nhưng không
đối lập giữa ba quyền ấy; mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân và phục vụ lợi
ích của nhân dân.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế
giới.
3. Một số
mục tiêu trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội phương hướng thực hiện các
mục tiêu đó
Mục tiêu
tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây
dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng
tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành
một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Từ nay
đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng
nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng,
toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường,
phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán
triệt và thực hiện tốt các phương hướng
cơ bản sau đây:
Một là, đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo
vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng
nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời
sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm
vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển;
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường
và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh.
Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó,
phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt (không phiến diện, cực đoan,
duy ý chí...) các mối quan hệ lớn, đó
là các mối quan hệ:
- Giữa đổi mới, ổn định và phát triển;
- Giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị;
- Giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ
nghĩa;
- Giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn
thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa;
- Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
- Giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa;
- Giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế;
- Giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;...
III. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG LỚN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, VĂN
HÓA, XÃ HỘI, QUỐC PHÒNG, AN NINH, ĐỐI NGOẠI
1. Định
hướng phát triển kinh tế
a) Định
hướng phát triển quan hệ sản xuất
- Định hướng chung:
+ Phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối.
+ Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau
hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển.
- Về sở hữu và thành phần kinh tế:
+ Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập
thể không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế
tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
+ Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền
kinh tế.
+ Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích
phát triển.
+ Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều
là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật,
cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
- Về kinh tế thị trường:
Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại
thị trường từng bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh
tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Về quan hệ quản lý:
+ Phân định rõ quyền của người sở hữu, quyền của người
sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế,
bảo đảm mọi tư liệu sản xuất đều có người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình.
+ Các nguồn lực được phân bổ theo chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
+ Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết,
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất.
- Về quan hệ phân phối:
+ Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực
cho phát triển;
+ Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao
động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác
và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
b) Định
hướng phát triển lực lượng sản xuất
- Định hướng chung:
Phát
triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát
triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường.
- Về kinh tế ngành:
+ Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu
quả và bền vững.
+ Gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ.
+ Coi trọng phát triển các ngành công nghiệp nặng,
công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế.
+ Phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình
độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông
thôn mới.
- Về kinh tế vùng:
+ Bảo đảm phát triển hài hoà giữa các vùng, miền;
+ Thúc đẩy phát triển nhanh các vùng kinh tế trọng
điểm, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng có nhiều khó khăn.
- Về kinh tế đối ngoại:
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ
động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Định
hướng phát triển các lĩnh vực văn hóa-xã hội
a) Định
hướng phát triển văn hóa
- Xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển
toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân
chủ, tiến bộ; làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống
xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng
của phát triển.
- Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt
đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân
loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính
và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày
càng cao.
b) Định
hướng xây dựng con người
- Con
người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là
chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người
với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân.
- Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia
đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong
việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ,
trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi; sống có văn hoá,
nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính.
- Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự
là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục
nếp sống và hình thành nhân cách.
c) Định
hướng phát triển giáo dục và đào tạo
- Giáo
dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền
văn hoá và con người Việt Nam.
- Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển
khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là
đầu tư phát triển.
- Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo
theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hoá,
hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều
kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời.
d) Định
hướng phát triển khoa học và công nghệ
- Khoa
học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng
sản xuất hiện đại, bảo suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức
cạnh tranh của nền kinh tế.
- Phát triển khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn
lên trình độ tiên tiến của thế giới.
- Phát triển đồng bộ các lĩnh vực khoa học và công
nghệ gắn với phát triển văn hoá và nâng cao dân trí.
- Tăng nhanh và sử dụng có hiệu quả tiềm lực khoa học
và công nghệ của đất nước, nghiên cứu và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu
khoa học và công nghệ hiện đại trên thế giới.
- Hình thành đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích
sáng tạo, trọng dụng nhân tài và đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ.
đ) Định
hướng công tác bảo vệ môi trường
- Bảo vệ
môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã
hội và nghĩa vụ của mọi công dân.
- Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát, ngăn ngừa, khắc
phục ô nhiễm với khôi phục và bảo vệ môi trường sinh thái.
- Phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch và tiêu
dùng sạch.
- Coi trọng nghiên cứu, dự báo và thực hiện các giải
pháp ứng phó với quá trình biến đổi khí hậu và thảm họa thiên nhiên.
- Quản lý, bảo vệ, tái tạo và sử dụng hợp lý, có hiệu
quả tài nguyên quốc gia.
e) Định
hướng chính sách xã hội
- Chính
sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ
phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
- Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa
vụ công dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn
hoá, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng
chính sách.
- Phát triển hài hoà đời sống vật chất và đời sống
tinh thần, không ngừng nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội về ăn,
ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất, gắn nghĩa vụ với
quyền lợi, cống hiến với hưởng thụ, lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và cộng
đồng xã hội.
- Tạo môi trường và điều kiện để mọi người lao động có
việc làm và thu nhập tốt hơn. Có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ tạo
động lực để phát triển; điều tiết hợp lý thu nhập trong xã hội. Khuyến khích
làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá nghèo bền vững; giảm dần tình trạng chênh lệch
giàu - nghèo giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư. Hoàn thiện hệ thống an
sinh xã hội.
- Thực hiện tốt chính sách đối
với người và gia đình có công với nước. Chú trọng cải thiện điều kiện sống, lao
động và học tập của thanh niên, thiếu niên, giáo dục và bảo vệ trẻ em. Chăm lo
đời sống những người cao tuổi, neo đơn, khuyết tật, mất sức lao động và trẻ mồ
côi. Hạn chế, tiến tới đẩy lùi tội phạm và giảm tác hại của tệ nạn xã hội. Bảo
đảm quy mô hợp lý, cân bằng giới tính và chất lượng dân số.
f) Định hướng xây dựng các giai tầng trong xã hội
-
Xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đoàn kết, bình đẳng về nghĩa vụ
và quyền lợi.
-
Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng; là giai cấp
lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp
tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
-
Xây dựng, phát huy vai trò chủ thể của giai cấp nông dân trong quá trình phát
triển nông nghiệp, nông thôn.
- Đào tạo, bồi dưỡng, phát huy mọi tiềm năng và sức
sáng tạo của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho đất
nước.
- Xây dựng đội ngũ những nhà kinh doanh có tài, những
nhà quản lý giỏi, có trách nhiệm xã hội, tâm huyết với đất nước và dân tộc.
- Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ kế tục xứng
đáng sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Thực hiện bình đẳng giới và hành
động vì sự tiến bộ của phụ nữ. Quan tâm thích đáng lợi ích và phát huy khả năng
của các tầng lớp dân cư khác. Hỗ trợ đồng bào định cư ở nước ngoài ổn định cuộc
sống, giữ gìn bản sắc dân tộc, chấp hành tốt pháp luật nước sở tại, hướng về quê
hương, tích cực góp phần xây dựng đất nước.
- Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng
và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo
mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát
triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hoá, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và
chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc thù của
các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số.
- Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật.
Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn
giáo và lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và
nhân dân.
3. Định
hướng phát triển quốc phòng, an ninh
a) Mục
tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh
- Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa.
- Giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an
ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội.
- Chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành
động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân
dân ta.
b) Trách
nhiệm đối với quốc phòng, an ninh
Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và
toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt.
b) Kết
hợp quốc phòng với an ninh, kinh tế
- Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt
chẽ với thế trận an ninh nhân dân vững chắc.
- Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường
sức mạnh quốc phòng - an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an
ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trên từng địa bàn.
c) Đường
lối xây dựng nền quốc phòng, an ninh
- Phát triển đường lối, nghệ thuật quân sự chiến tranh
nhân dân và lý luận, khoa học an ninh nhân dân.
- Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ
quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin yêu. Xây dựng Quân đội
nhân dân với số quân thường trực hợp lý, có sức chiến đấu cao; lực lượng dự bị
động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp. Xây dựng lực lượng Công an nhân
dân vững mạnh toàn diện; kết hợp lực lượng chuyên trách, bán chuyên trách, các
cơ quan bảo vệ pháp luật với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Chăm
lo nâng cao phẩm chất cách mạng, trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho
cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang; bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần
phù hợp với tính chất hoạt động của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong
điều kiện mới.
-
Xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo đảm cho các lực lượng vũ
trang được trang bị kỹ thuật từng bước hiện đại.
-
Chủ động, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh.
d)
Lãnh đạo quốc phòng, an ninh
Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối
với Quân đội, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng - an ninh.
4.
Định hướng công tác đối ngoại
- Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp
tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì
một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành
viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
- Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi
với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp
quốc và luật pháp quốc tế.
- Trước sau như một ủng hộ các
đảng cộng sản và công nhân, các phong trào tiến bộ xã hội trong cuộc đấu tranh
vì những mục tiêu chung của thời đại.
- Mở
rộng quan hệ với các đảng cánh tả, đảng cầm quyền và những đảng khác trên cơ sở
bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hoà bình, hữu nghị, hợp
tác và phát triển.
- Tăng cường hiểu biết, tình hữu nghị và hợp tác
giữa nhân dân Việt Nam
với nhân dân các nước trên thế giới.
- Phấn đấu cùng các nước Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình,
ổn định, hợp tác và phát triển phồn vinh.
IV. HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
1. Về dân chủ xã
hội chủ nghĩa
-
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển đất nước.
-
Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ
được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực.
-
Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hoá bằng pháp luật,
được pháp luật bảo đảm.
-
Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh
phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến
pháp và pháp luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công
dân.
-
Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ
thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện.
2. Nhà nước
- Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân:
+
Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo.
+
Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa
các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
+
Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không
ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
+
Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ
quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự
giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị
tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền
dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm
phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
-
Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có
sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.
3. Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân
a) Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong
sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc:
- Đại diện, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích của các
đoàn viên, hội viên;
- Thực hiện dân
chủ và xây dựng xã hội lành mạnh;
- Tham gia xây
dựng Đảng, Nhà nước;
- Giáo dục lý
tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, tăng cường mối liên hệ
giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước.
b)
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
-
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên
minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -
xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã
hội, các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
- Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam
là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân.
- Đảng Cộng sản
Việt Nam
vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận.
- Mặt trận hoạt
động theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất
hành động giữa các thành viên.
c)
Các đoàn thể nhân dân
-
Các đoàn thể nhân dân tuỳ theo tính
chất, tôn chỉ và mục đích đã được xác định, vận động, giáo dục đoàn viên, hội
viên chấp hành luật pháp, chính sách; chăm lo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên; giúp đoàn viên, hội viên nâng cao
trình độ về mọi mặt và xây dựng cuộc sống mới; tham gia quản lý nhà nước, quản
lý xã hội.
- Đảng tôn trọng
tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích cực, sáng tạo và chân thành
lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể.
- Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các
đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản
biện xã hội.
4.
Đảng Cộng sản Việt Nam
- Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam ;
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
dân tộc.
- Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức
cơ bản.
Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài
sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi
đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.
- Đảng
Cộng sản Việt Nam
là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Đảng
lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ
trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm
tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên.
Đảng
thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những
đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan
lãnh đạo của hệ thống chính trị.
Đảng
lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ
thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu.
Đảng
thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát
huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức
khác trong hệ thống chính trị.
- Đảng
lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó
mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa
vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
- Để
đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và
tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí
tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo. Giữ vững
truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường dân chủ và kỷ luật
trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống
chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi
hành động chia rẽ, bè phái. Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh; quan tâm bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng
của Đảng và dân tộc.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Phân tích và nêu rõ những đặc điểm (thuận lợi,
khó khăn) của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
2. Phân tích những đặc trưng cơ bản của mô hình đi
lên chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng.
3. Nêu rõ những phương hướng cơ bản và những mối
quan hệ cần nắm vững, xử lý tốt để đạt được các mục tiêu đề ra.
Bài 3
NỘI
DUNG CƠ BẢN
ĐIỀU LỆ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆTNAM
ĐIỀU LỆ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
I. GIỚI THIỆU
KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU LỆ ĐẢNG
1. Điều lệ Đảng là
gì?
Điều lệ Đảng là văn bản pháp lý
cơ bản của Đảng, xác định tôn chỉ, mục đích, hệ tư tưởng, các nguyên tắc về tổ
chức, hoạt động, cơ cấu bộ máy của Đảng; quy định trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền
hạn của đảng viên và của tổ chức đảng các cấp.
Mục đích của
việc xây dựng Điều lệ Đảng là nhằm thống nhất tư tưởng, tổ chức và hành động
trong toàn Đảng, thực hiện mục tiêu của Đảng.
Điều lệ Đảng
do Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng thông qua và ban hành. Mọi tổ chức đảng
và đảng viên đều phải chấp hành Điều lệ Đảng.
2. Đặc điểm của Điều lệ Đảng
- Là văn bản
pháp lý cơ bản của Đảng, Điều lệ Đảng được viết ngắn gọn, chặt chẽ, dễ hiểu,
hiểu cùng một nghĩa và được chia thành các phần, chương, điều, điểm để thi hành
thống nhất.
Có một số
vấn đề cụ thể không đưa vào Điều lệ Đảng sẽ được cơ quan có thẩm quyền của Đảng
là Bộ Chính trị, Ban Bí thư quy định; các cơ quan chức năng, như Ban Tổ chức
Trung ương, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương... hướng dẫn thi hành, bảo đảm cho Điều lệ
Đảng được thi hành thống nhất, nghiêm minh.
- Điều lệ
Đảng có giá trị và hiệu lực thi hành trong toàn Đảng. Một số nội dung của Điều
lệ Đảng được thể hiện trong Hiến pháp, các bộ luật của Nhà nước và văn kiện cơ
bản của các tổ chức chính trị - xã hội. Điều lệ Đảng có những chương riêng để
nêu rõ các quy định về sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang, Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh.
- Điều lệ Đảng có
tính kế thừa, ổn định tương đối và được phát triển cùng với quá trình phát
triển của cách mạng, của Đảng. Mỗi nhiệm kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của
Đảng, cùng với việc quyết định quan điểm, đường lối chính trị cho thời kỳ mới,
Điều lệ Đảng được Đại hội xem xét, bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với yêu cầu
nhiệm vụ mới của cách mạng. Từ Đại hội XI, Ban Chấp hành Trung ương quyết định
việc ban hành Hướng dẫn thi hành Điều lệ Đảng được sửa đổi, bổ sung bởi Đại
hội.
Từ Điều lệ đầu tiên
(Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam) được thông qua tại Hội nghị thành
lập Đảng ngày 3-2-19 30
đến nay, Điều lệ Đảng đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần.
Điều lệ Đảng hiện
hành được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng thông qua ngày
19-01-2011.
II. TÓM TẮT NỘI DUNG CỦA ĐIỀU LỆ ĐẢNG
1. Nội dung phần mở đầu
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam do Đại hội XI thông qua
có tiêu đề phần mở đầu là “Đảng và những vấn đề cơ bản về xây dựng Đảng”, trình
bày khái quát về Đảng và những vấn đề cơ bản nhất về xây dựng Đảng. Nội dung cụ
thể như sau:
- Khái quát quá
trình lịch sử Đảng, Điều lệ viết: “Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Hồ
Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng
Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xoá bỏ chế độ
thực dân phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc nền độc lập của Tổ quốc”.
- Về bản chất của Đảng, Điều lệ ghi: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của
nhân dân lao động và của dân tộc”.
- Về mục tiêu của Đảng, Điều lệ nói rõ: “Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt
Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người
bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa
cộng sản”.
- Về nền tảng tư tưởng của Đảng, Điều lệ khẳng định:
“Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu
tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại
và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị đường lối cách mạng
đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân”.
- Về tổ chức và nguyên tắc cơ bản hoạt động của Đảng, Điều lệ quy định:
“Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân
chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên
tắc: tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều
lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật”.
- Về vai trò của Đảng trong hệ
thống chính trị, Điều lệ xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là
Đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám
sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân
dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời
là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh đạo, tôn trọng và phát huy vai trò
của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”.
- Về quan điểm quốc tế của Đảng, Điều lệ nói rõ:
“Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng
của giai cấp công nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp hoà bình, độc lập, dân
chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới”.
- Về công tác xây dựng Đảng, Điều lệ xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh
đốn, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, sức chiến đấu
và năng lực lãnh đạo cách mạng của Đảng”.
Những nội dung trên
thể hiện một cách đúng đắn và sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tiêu chí một đảng kiểu mới của giai cấp công
nhân, phù hợp với tình hình và nhiệm vụ của Đảng trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta như Cương lĩnh chính trị của Đảng đã vạch ra.
2. Các chương của Điều lệ Đảng
Chương I: Đảng viên.
Chương này có tám điều, là chương rất quan trọng
của Điều lệ Đảng, xác định vị trí, vai trò, quy định tiêu chuẩn của người đảng
viên; điều kiện được xem xét để kết nạp Đảng; nhiệm vụ và quyền của đảng viên;
thủ tục kết nạp người vào Đảng; phát triển và quản lý thẻ đảng viên, quản lý hồ
sơ đảng viên, điều kiện được giảm, miễn công tác và sinh hoạt Đảng cũng như xoá
tên trong danh sách đảng viên...
Chương II: Nguyên tắc tổ chức và cơ cấu tổ chức của Đảng.
Chương này có sáu điều, khẳng định: Đảng Cộng sản
Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ; những nội dung cơ bản của
nguyên tắc đó; hệ thống tổ chức của Đảng được lập tương ứng với hệ thống tổ
chức hành chính của Nhà nước.
Chương II còn quy định chức năng, nhiệm vụ của cấp uỷ các cấp trong việc
triệu tập đại hội từng cấp khi hết nhiệm kỳ; tiêu chuẩn và số lượng cấp uỷ
viên; phê chuẩn cấp uỷ và những cơ quan tham mưu giúp cấp uỷ mỗi cấp.
Chương III
và IV: Cơ quan lãnh đạo của Đảng ở cấp Trung ương và ở địa phương.
Hai chương này có
sáu điều, bao gồm những quy định về đại hội Đảng các cấp, về bầu cử cơ quan
lãnh đạo của tổ chức đảng các cấp và nhiệm vụ của các cơ quan đó.
Chương V: Tổ chức cơ sở đảng.
Chương V có
bốn điều, quy định ba nội dung lớn về tổ chức cơ sở đảng:
- Xác định
vị trí của tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ
sở.
- Quy định điều
kiện thành lập và những nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng và của chi bộ; việc bầu
đảng uỷ viên và chi uỷ viên.
- Quy định
về nhiệm kỳ đại hội của tổ chức cơ sở đảng và chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở.
Chương VI: Tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân
dân Việt Nam.
Chương này
có năm điều, quy định về tổ chức đảng trong Quân đội và Công an, nằm trong hệ
thống tổ chức chung của Đảng. Điều lệ Đảng xác định sự lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang.
Chương VII :
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng và Uỷ ban kiểm tra các cấp.
Chương này
có bốn điều, xác định vị trí công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng; nội dung
công tác kiểm tra, giám sát; nhiệm vụ của công tác kiểm tra, giám sát cấp uỷ
các cấp.
Chương VIII: Khen thưởng và kỷ luật.
Chương này
có bảy điều, quy định mục đích, hình thức và thẩm quyền thi hành khen thưởng và
kỷ luật.
Chương IX: Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị -
xã hội.
Chương này có ba điều, quy định rõ nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng với Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, nội dung và phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị
- xã hội.
Chương X: Đảng lãnh đạo Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Chương này có hai
điều, nêu rõ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh. Đoàn Thanh niên cũng là một đoàn thể nhân dân, nhưng Đoàn Thanh niên là
đội dự bị tin cậy của Đảng, thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, kế tục
sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, nên Điều lệ dành một chương riêng nói về
sự lãnh đạo của Đảng với Đoàn Thanh niên.
Chương XI: Tài chính của Đảng.
Chương này chỉ có
một điều, quy định rõ tài chính của Đảng gồm: đảng phí do đảng viên đóng, từ
ngân sách nhà nước và các khoản thu khác; thực hiện nguyên tắc, chế độ thu chi,
quản lý tài chính... theo những quy định thống nhất của Ban Chấp hành Trung
ương.
Chương XII: Chấp hành Điều lệ Đảng.
Chương này có hai
điều, quy định mỗi đảng viên và tổ chức của Đảng phải chấp hành nghiêm chỉnh
Điều lệ Đảng và kịp thời đấu tranh chống mọi biểu hiện vi phạm. Chỉ Đại hội đại
biểu toàn quốc mới có quyền sửa đổi Điều lệ Đảng.
III. GIỚI THIỆU MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG ĐIỀU LỆ ĐẢNG
Mỗi công dân Việt
Nam từ 18 tuổi trở lên, nếu muốn đứng trong hàng ngũ của Đảng đều phải nghiên
cứu để nắm vững các nội dung của Điều lệ Đảng. Phân tích dưới đây giúp người
học nắm chắc những nội dung cơ bản của Điều lệ:
1. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng
Bản chất
giai cấp của Đảng là vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong công tác xây
dựng Đảng, được quán triệt trong toàn bộ Điều lệ Đảng, chi phối toàn bộ nội
dung xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
- Từ ngày thành
lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định bản chất giai cấp công nhân của mình.
Trong Chương trình tóm tắt của Đảng được thông
qua tại Hội nghị thành lập Đảng đã khẳng định: "Đảng là đội tiên phong
lãnh đạo của đội quân vô sản gồm một số lớn giai cấp công nhân và làm cho họ có
đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”. Sách
lược vắn tắt viết: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu
phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo
được quần chúng”.
- Xác định
rõ bản chất giai cấp công nhân của Đảng, xuất phát từ nhận thức khoa học về vai
trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân hình thành,
phát triển cùng với nền sản xuất đại công nghiệp, đại biểu cho phương thức sản
xuất mới tiến bộ, có tinh thần cách mạng triệt để và tính tổ chức cao. Giai cấp
công nhân có hệ tư tưởng khoa học và cách mạng hướng dẫn, đó là chủ nghĩa Mác -
Lênin. Là giai cấp lao động, bị bóc lột nên giai cấp công nhân có điều kiện
liên minh với giai cấp nông dân và quần chúng lao động để xoá bỏ chủ nghĩa tư
bản, xây dựng xã hội mới, không có áp bức, bóc lột là chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản.
Ngày nay,
trong nền sản xuất hiện đại, dưới tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ, giai cấp công nhân thế giới đang có những biến đổi to lớn về quy
mô, trình độ kiến thức, cơ cấu nghề nghiệp, mức sống... Song, bản chất cách
mạng và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân vẫn không thay đổi.
Ở nước ta,
tuy số lượng còn ít, nhưng giai cấp công nhân Việt Nam và chính đảng của mình
luôn đứng vững trên lập trường cách mạng, giữ vững bản chất giai cấp, lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động.
- Đảng Cộng sản
Việt Nam ngay từ khi ra đời đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, thể hiện quan hệ gắn bó giữa giai cấp và dân tộc. Sự ra đời của Đảng từ
ba nguồn gốc là phong trào yêu nước, chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào công
nhân. Chính vì vậy, mục tiêu, lợi ích của Đảng, của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và cả dân tộc là thống nhất. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam qua các
thời kỳ đều bắt nguồn từ việc Đảng giải quyết đúng đắn mối quan hệ mật thiết
giữa giai cấp và dân tộc.
- Đảng Cộng sản
Việt Nam là Đảng cầm quyền, được toàn dân thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo
nhân dân. Về vấn đề lợi ích, Đảng không có lợi ích nào khác ngoài mục đích phục
vụ nhân dân, phục vụ dân tộc.
Đại hội X đã
khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là
đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân
lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp
công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc”.
Cách diễn đạt mới này phản ánh đầy đủ, sát thực bản chất của Đảng Cộng sản
Việt Nam - một đảng ra đời từ phong trào công nhân, phong trào yêu nước của dân
tộc, kiên trì đấu tranh bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân, của nhân dân
lao động, của dân tộc. Đó cũng là cách diễn đạt về Đảng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nêu ra tại Đại hội II năm 1951: “Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là
Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của
dân tộc Việt Nam”1.
- Để giữ
vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong tình hình mới,
Điều lệ Đảng và các văn kiện Đại hội của Đảng đã chỉ rõ mục tiêu, nhiệm vụ của
mỗi đảng viên của Đảng là:
+ Kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong bất kỳ tình huống nào cũng
không dao động, xa rời mục tiêu đó.
+ Kiên định
và vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh. Xuất phát từ thực tiễn cụ thể của nước ta để đề ra đường lối, chủ
trương và các chính sách đúng đắn; đồng thời, bằng hành động cách mạng biến
đường lối, chủ trương đó thành hiện thực sinh động trên mọi mặt của đời sống xã
hội.
+ Đấu tranh
kiên quyết, kịp thời chống lại mọi biểu hiện cơ hội, hữu khuynh, giáo điều, bảo
thủ; phê phán những luận điệu và thủ đoạn của các thế lực thù địch đả kích, phủ
nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Luôn luôn
phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá, tri thức
của thời đại để làm giàu kiến thức, giải quyết thành công những vấn đề lý luận
và thực tiễn của cách mạng nước ta, góp phần vào sự nghiệp phát triển chung của
thế giới.
+ Giữ vững nguyên
tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt đảng, nguyên tắc tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn
kết thống nhất trong Đảng.
+ Thường
xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của giai cấp công
nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ và đảng viên theo quan điểm của giai cấp công
nhân.
+ Củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân, chăm lo đời sống và thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân
dân.
+ Kết hợp chặt
chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp
công nhân. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo nên sức mạnh
tổng hợp của cách mạng.
2. Nhiệm vụ và quyền của đảng viên
a) Nhiệm vụ
Nhiệm vụ
đảng viên được quy định trong Điều 2 Điều lệ Đảng, gồm bốn điểm là:
“1. Tuyệt
đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm
chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp
luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự
phân công và điều động của Đảng.
2. Không ngừng học
tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính
trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực
khác.
3. Liên hệ
chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm
lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân;
tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở;
tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước.
4. Tham gia xây
dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ
gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung
thực với Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt Đảng và đóng đảng
phí đúng quy định”.
Thực hiện các nhiệm vụ trên, mỗi đảng viên cần nắm vững nội dung cơ bản
sau:
Một là, kiên định những vấn đề về quan điểm có tính nguyên tắc
của Đảng:
- Độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta, dân tộc ta.
- Chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi
hành động của Đảng.
- Đảng Cộng sản
Việt Nam là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam; không chấp nhận “đa nguyên,
đa đảng”.
- Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân, thể
hiện khối đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Tập trung
dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng.
- Kết hợp
chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp
công nhân.
Hai là, mọi đảng viên phải hiểu rõ cơ hội lớn để đất nước phát triển nhanh gắn liền
với phát triển bền vững, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại để vận dụng vào nhiệm vụ của mình. Đồng thời,
phải nhận thức sâu sắc những thách thức lớn, các nguy cơ đang đe dọa sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta để tự giác góp phần đẩy lùi, từng bước khắc phục.
Mỗi đảng
viên phải ra sức rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, nêu gương cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư; đồng thời, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng,
lãng phí, quan liêu trong cơ quan của Đảng, Nhà nước và các tiêu cực, tệ nạn
trong xã hội; cảnh giác và kiên quyết chống mọi âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hoà
bình”, gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, trước hết là trong phạm vi
chức trách, nhiệm vụ cụ thể của mỗi người.
Ba là, đất nước ta đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới với
nhiệm vụ trung tâm là xây dựng, phát triển kinh tế, điều đó đòi hỏi đảng viên
phải nâng cao trình độ kiến thức và năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo
đức cách mạng, thực hiện vai trò tiên phong, gương mẫu.
Vì vậy, nhiệm vụ
học tập càng trở nên đặc biệt quan trọng. Học tập là nghĩa vụ bắt buộc đối với
mọi đảng viên. Có nhiều hình thức và phương pháp học tập để nâng cao trình độ
lý luận chính trị, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn. Tuỳ theo điều
kiện và hoàn cảnh cụ thể mà tổ chức đảng và mỗi đảng viên phải có kế hoạch, chế
độ học tập phù hợp.
Bốn là, có mối quan hệ gắn bó mật thiết với quần chúng.
Cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng nhân dân. Nhân dân lao động cần có Đảng với tư cách là
người lãnh đạo, lãnh tụ chính trị bảo đảm cho cuộc đấu tranh của nhân dân giành
thắng lợi. Và ngược lại, Đảng cần được nhân dân ủng hộ, tích cực thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng.
Trong điều
kiện Đảng cầm quyền, đảng viên dễ quan liêu, xa rời nhân dân. Đây là một nguy
cơ lớn đối với sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa. Mọi đảng viên phải
thường xuyên gắn bó mật thiết với quần chúng, tôn trọng và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân phản ánh với Đảng,
đồng thời tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân và gia đình mình thực hiện
đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Năm là, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo vệ đường
lối, chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng và Nhà nước, chống lại sự phá
hoại của kẻ thù. Thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt
Đảng, bảo đảm sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ, làm cho Đảng luôn trong
sạch, vững mạnh. Tích cực làm công tác phát triển đảng viên mới.
b) Quyền của đảng viên
Điều 3 Điều lệ Đảng quy định đảng viên có những quyền sau:
“1. Được thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công việc của
Đảng.
2. Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định
của Ban Chấp hành Trung ương.
3. Phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp
trong phạm vi tổ chức; báo cáo, kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu
cầu được trả lời.
4. Trình bày ý kiến
khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với
mình.
Đảng viên dự bị có
các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo của
Đảng”.
Các quyền của đảng
viên nêu trong Điều lệ Đảng nhằm bảo đảm cho đảng viên thực hiện đầy đủ quyền
dân chủ về mặt chính trị trong tổ chức và sinh hoạt Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó
quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý”1. Những quy định về quyền của đảng viên tạo điều kiện cho
đảng viên và tổ chức đảng thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ.
3. Nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng
- Tập trung dân chủ
là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và sinh hoạt của Đảng. Trong quá trình phát
triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn kiên trì và từng bước cụ thể hoá nguyên
tắc này phù hợp với sự phát triển của cách mạng Việt Nam qua mỗi giai đoạn.
Điều 9 của Điều lệ
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên
tắc tập trung dân chủ”. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là:
+ Cơ quan lãnh đạo
các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách.
+ Cơ quan lãnh đạo
cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là
đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo
của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là Ban Chấp hành đảng bộ, chi
bộ (gọi tắt là cấp uỷ).
+ Cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước
đại hội cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình
hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình
và phê bình.
+ Tổ chức đảng và
đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp
dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng
phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.
+ Nghị quyết của
các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số
thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên
được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được
quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn
quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến
trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến
đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
+ Tổ chức đảng
quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái
với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị
quyết của cấp trên.
- Để thực hiện tốt
nguyên tắc tập trung dân chủ, cần nhận thức đúng đắn và thống nhất nội dung của
nguyên tắc này; đồng thời, phải có cơ chế, các quy định, quy chế làm việc cụ
thể, đồng bộ, bảo đảm thực hiện nghiêm minh ở mỗi cấp, ở mỗi tổ chức đảng.
- Phát huy dân chủ
sẽ khơi dậy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của các tổ chức đảng và đảng
viên. Thực hiện tốt dân chủ trong Đảng sẽ tạo điều kiện thúc đẩy dân chủ trong
các cơ quan nhà nước cũng như toàn xã hội. Khuyến khích mọi người mạnh dạn suy
nghĩ, tìm tòi sáng tạo, đóng góp xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Điều này có ý nghĩa to lớn trong sự phát triển
của cách mạng, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
- Dân chủ phải gắn
liền với tập trung, phát huy dân chủ đi đôi với việc tăng cường ý thức tổ chức
và kỷ luật của Đảng. Đây là mối quan hệ biện chứng cần được nhận thức, xử lý
đúng đắn trong thực tiễn. Tuyệt đối hoá mặt này đi đến hạ thấp hoặc phủ nhận
mặt kia đều không đúng.
- Ngoài việc
khẳng định tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản cho hoạt động của
Đảng, Điều lệ Đảng còn quy định: tự phê bình và phê bình; đoàn kết trên cơ sở
Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng; gắn bó mật thiết với nhân dân; Đảng hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật là những nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của Đảng.
4. Khen thưởng và kỷ luật trong Đảng
a) Khen thưởng trong Đảng
Điều 34 Điều lệ
Đảng quy định: “Tổ chức đảng và đảng viên có thành tích được khen thưởng theo
quy định của Ban Chấp hành Trung ương”. Tại Hướng dẫn số 03-HD/BTCTW ngày
29-12-2006 của Ban Tổ chức Trung ương có quy định hình thức khen thưởng định kỳ
và không định kỳ cho tổ chức đảng và đảng viên như sau:
- Đối với tổ
chức đảng: Tặng giấy khen, bằng khen, cờ cho các tổ chức đảng gồm: Đảng bộ huyện
hoặc tương đương; tổ chức cơ sở đảng, đảng bộ bộ phận; chi bộ trực thuộc đảng
uỷ cơ sở; tổ đảng trực thuộc chi bộ; các ban tham mưu và đơn vị sự nghiệp của
Đảng.
- Đối với
đảng viên: Tặng giấy khen, bằng khen, huy hiệu 30 năm, 40 năm, 50 năm, 60 năm, 70
năm, 80 năm tuổi Đảng.
- Các cấp uỷ
có thẩm quyền xét khen thưởng tổ chức đảng và đảng viên theo định kỳ hàng năm,
gắn với việc tổng kết của đảng bộ, chi bộ; theo nhiệm kỳ đại hội 5 năm/lần đối
với đảng bộ cấp huyện và tương đương; khen thưởng không theo định kỳ đối với tổ
chức đảng và đảng viên có thành tích xuất sắc.
+ Đảng uỷ cơ
sở: xét tặng giấy khen cho những chi bộ đạt trong sạch, vững mạnh tiêu biểu
trong năm.
+ Huyện uỷ
(và tương đương): xét quyết định công nhận tổ chức cơ sở trong sạch, vững mạnh,
tặng giấy khen cho những chi bộ đạt tiêu chuẩn “trong sạch vững mạnh” tiêu biểu
3 năm liền.
+ Tỉnh uỷ
(và tương đương): quyết định tặng bằng khen cho những tổ chức cơ sở đảng, tặng
huy hiệu 30, 40, 50, 60, 70, 80 năm tuổi Đảng, bằng khen cho đảng viên trong
đảng bộ.
b) Kỷ luật trong Đảng
- Kỷ luật Đảng là
những quy định bắt buộc mọi đảng viên và tổ chức đảng phải nghiêm chỉnh chấp
hành. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, đường lối, chủ trương, chính sách, nghị
quyết, chỉ thị của Đảng được thể chế hoá thành Hiến pháp, pháp luật, nghị định,
chỉ thị, quy định của Nhà nước, chủ trương điều lệ của đoàn thể. Tổ chức đảng
và đảng viên phải hoạt động theo khuôn khổ của Hiến pháp, pháp luật..., do đó,
đảng viên và tổ chức đảng vi phạm Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, chủ trương
điều lệ của đoàn thể là vi phạm kỷ luật của Đảng.
- Kỷ luật
của Đảng bắt nguồn từ bản chất giai cấp công nhân, từ nguyên tắc tổ chức cơ bản
của Đảng, vừa có tính nghiêm túc, vừa mang tính tự giác. Nghiêm túc phải trên
cơ sở tự giác, tự giác càng cao thì kỷ luật càng nghiêm túc.
- Thi hành nghiêm kỷ luật Đảng là một nội dung quan trọng nhằm giữ vững sự
đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, bảo đảm cho Đảng trong sạch vững mạnh,
tăng cường sức chiến đấu của Đảng. Giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương trong Đảng là
một yếu tố rất quan trọng bảo đảm cho Đảng tồn tại, hoạt động và phát triển.
- Phương
châm thi hành kỷ luật đã được Điều lệ Đảng xác định là “Công minh, chính xác,
kịp thời”.
+ Công minh là bất cứ
đảng viên và tổ chức nào, không kể chức vụ cao hay thấp, tuổi Đảng nhiều hay
ít, tổ chức cấp trên hay cấp dưới, nếu vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật
đều phải xem xét, kết luận, xử lý nghiêm túc, không có ngoại lệ, không có khu
vực cấm.
+ Chính xác
là việc thi hành kỷ luật phải đúng người hoặc tổ chức vi phạm, đúng nội dung,
tính chất, mức độ, tác hại, nguyên nhân của vi phạm. Khi xem xét, xử lý kỷ luật
phải thẩm tra, xác minh chu đáo, phân biệt rõ bản chất và hiện tượng, vi phạm
thuộc về phẩm chất chính trị, nguyên tắc hay tác phong sinh hoạt; trách nhiệm
chủ yếu thuộc về cá nhân đảng viên hay tập thể.
+ Kịp thời là việc
thi hành kỷ luật phải khẩn trương, đúng lúc, không để kéo dài, làm giảm hoặc
mất tác dụng của việc thi hành kỷ luật.
- Các hình
thức kỷ luật của Đảng
+ Đối với tổ chức đảng có ba hình thức kỷ luật: khiển trách, cảnh cáo, giải
tán.
+ Đối với đảng viên
chính thức có bốn hình thức kỷ luật: khiển trách, cảnh cáo, cách chức, khai trừ
ra khỏi Đảng.
+ Đối với
đảng viên dự bị có hai hình thức kỷ luật: khiển trách và cảnh cáo.
- Thẩm quyền
thi hành kỷ luật đảng viên và tổ chức đảng vi phạm.
Điều lệ Đảng
quy định:
+ Chi bộ
quyết định khiển trách, cảnh cáo đảng viên trong chi bộ (kể cả cấp uỷ viên các
cấp, đảng viên thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý) vi phạm phẩm chất chính trị,
tư tưởng, đạo đức, lối sống, sinh hoạt đảng, thực hiện nhiệm vụ đảng viên (trừ
nhiệm vụ do cấp trên giao).
+ Cấp uỷ
tỉnh, thành, huyện, quận và tương đương quyết định các hình thức kỷ luật đảng
viên; quyết định khiển trách, cảnh cáo cấp uỷ viên các cấp, đảng viên thuộc
diện cấp uỷ cấp trên quản lý vi phạm phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức,
lối sống, sinh hoạt đảng, thực hiện nhiệm vụ đảng viên; quyết định khiển trách,
cảnh cáo cấp uỷ viên cùng cấp vi phạm nhiệm vụ do cấp uỷ giao.
+ Ban thường
vụ cấp uỷ quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên; quyết định khiển trách,
cảnh cáo cấp uỷ viên các cấp, đảng viên thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý vi
phạm phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, sinh hoạt đảng, thực
hiện nhiệm vụ đảng viên, cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý vi phạm
nhiệm vụ chuyên môn được giao.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng thể hiện ở những
điểm chủ yếu nào trong Điều lệ Đảng?
2. Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập
trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó được Điều lệ Đảng quy định như
thế nào?
3. Điều lệ Đảng quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền
hạn của đảng viên như thế nào?
-------------------
Bài 4
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG,
TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
I. SỰ CẦN THIẾT HỌC TẬP VÀ LÀM
THEO TƯ TƯỞNG, TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Đạo đức và vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội
Đạo đức, hiểu theo nghĩa chung nhất, là một hình thái của
ý thức xã hội, bao gồm những nguyên tắc, chuẩn mực và thang bậc giá trị được xã
hội thừa nhận.
Đạo đức có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của mỗi
người, phù hợp với lợi ích của xã hội.
Đối với mỗi cá nhân, ý thức và hành vi đạo đức mang tính
“bổn phận”, diễn ra một cách tự giác, chủ yếu xuất phát từ nhu cầu tinh thần
bên trong. Đạo đức của mỗi cá nhân chịu sự tác động của dư luận xã hội, sự kiểm
tra của những người khác trong xã hội, cũng như sự “tự kiểm tra” bởi chính
mình.
Đạo đức có chức năng giáo dục, chức
năng điều chỉnh và chức năng phản ánh.
Với chức năng giáo dục, chuẩn mực đạo đức được tập thể và
cộng đồng chấp nhận tác động vào ý thức và hành vi đạo đức của mỗi cá nhân, để
mỗi cá nhân tự giáo dục, rèn luyện, hoàn thiện nhân cách của mình theo chuẩn
mực chung của xã hội. Mặt khác, khi nhận xét, đánh giá hành vi đạo đức của
người khác, người nhận xét cũng tự điều chỉnh mình và qua đó làm cho chuẩn mực
đạo đức chung trong xã hội ngày càng hoàn chỉnh.
Với chức năng điều chỉnh, chuẩn mực đạo đức điều chỉnh
hành vi của mỗi cá nhân và mối quan hệ giữa người với người trong xã hội. Trong
xã hội, quan niệm và hành vi đạo đức của người này có tác động đến quan niệm và
hành vi đạo đức của người khác và ngược lại. Những chuẩn mực đạo đức được cộng
đồng và toàn xã hội thừa nhận là công cụ quan trọng để điều khiển hoạt động
chung của cả cộng đồng đồng thời với pháp luật và những quy định khác.
Với chức năng phản ánh, đạo đức phản ánh thực trạng xã
hội, do tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Những mâu thuẫn đang tồn tại
trong xã hội được thể hiện trong đạo đức xã hội. Một xã hội bị tha hoá về đạo
đức thể hiện những mâu thuẫn đang tồn tại trong xã hội chưa được giải quyết.
2. Về sự suy
thoái đạo đức, lối sống trong xã hội hiện nay
Qua 20 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành
tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Việc thực hiện dân chủ trong Đảng và trong xã
hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân có nhiều tiến bộ... Đa số cán bộ, đảng viên phát huy được vai trò tiên
phong, gương mẫu, năng động, sáng tạo trong công tác, rèn luyện phẩm chất, năng
lực, đóng vai trò nòng cốt trong công cuộc đổi mới.
Tuy nhiên, trong Đảng và trong xã hội ta hiện nay đã xuất
hiện tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống. Nghị quyết Đại hội XI đã nhận
định: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan
liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp
tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hoá giàu nghèo và sự yếu kém trong
quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân
đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước. Cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” chưa thực sự đi vào
chiều sâu, ở một số nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao, làm theo
chưa đạt yêu cầu.”1.
Sự suy thoái về đạo đức, lối sống biểu hiện ở các dạng
chủ yếu sau đây:
Một là, chủ nghĩa cá nhân, lối sống vị kỷ, vụ lợi, buông thả,
hưởng thụ, thiếu lý tưởng, thiếu ý chí phấn đấu xuất hiện trong tất cả các tầng
lớp xã hội.
Hai là, tệ tham nhũng, hối lộ, bòn rút của công, lãng phí diễn ra
ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, đang “trở thành quốc nạn”, gây bức xúc trong
nhân dân.
Ba là, hành động cơ hội, “chạy chọt” vì lợi ích cá nhân khá phổ
biến.
Bốn là, lời nói không đi đôi với việc làm, nói và làm trái với
nghị quyết của Đảng; nói nhiều, làm ít; phát ngôn tuỳ tiện, vô nguyên tắc.
Năm là, tệ quan liêu, xa dân, lãnh đạm, vô cảm trước những khó
khăn, bức xúc và yêu cầu, đòi hỏi chính đáng của nhân dân.
Sáu là, tình trạng suy thoái về đạo đức trong quan hệ gia đình và
quan hệ giữa cá nhân với xã hội, như: gia trưởng, vũ phu, bất hiếu...
Bảy là, đạo đức nghề nghiệp sa sút, ngay cả trong những lĩnh vực
được xã hội tôn vinh. Hiện tượng mê tín, dị đoan có chiều hướng lan rộng, ảnh
hưởng xấu đến thuần phong, mỹ tục và trật tự, an toàn xã hội.
Nguyên nhân của tình trạng trên có cả khách quan và chủ
quan.
Về khách quan, trước hết do tác động tiêu cực của cơ chế
kinh tế thị trường, đặc biệt là khả năng kích thích lối sống thực dụng của cơ
chế này. Sự tác động của đạo đức, lối sống tư sản, hưởng thụ phương Tây vào
nước ta trong điều kiện toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và bùng nổ mạng
thông tin toàn cầu. Các thế lực thù địch, phản động đã chủ động khuyến khích
lối sống ích kỷ, hưởng thụ, thực dụng trong cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo
và gia đình họ, coi đó là một trong những biện pháp thực hiện “diễn biến hoà
bình”.
Về nguyên nhân chủ quan, do chúng ta chưa nhận thức đầy
đủ, sâu sắc vai trò nền tảng của đạo đức trong ổn định, phát triển xã hội và
tác động của cơ chế kinh tế thị trường đến đạo đức xã hội. Trên thực tế, chúng
ta chưa coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống; thiếu sự tổ chức, phối hợp các
ngành, các cấp. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, đảng viên và gia đình chưa nêu
gương về đạo đức, lối sống.
Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống nêu trên đã có
tác động lớn đến sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc hiện nay. Nó đang làm thay đổi, lệch lạc những chuẩn mực, thang bậc
giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc và cách mạng, có tác hại đến
sự trường tồn của dân tộc và sự phát triển của đất nước. Sự suy thoái về đạo
đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên làm cho nhân dân lo lắng, bất bình, ảnh
hưởng xấu đến uy tín và vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng, đến việc tổ chức
thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Thực trạng đó tiềm ẩn nhiều nguy cơ, cùng với các nguy cơ khác dẫn đến mất ổn
định chính trị xã hội, liên quan đến “sự sống còn của Đảng, của chế độ”.
Để nâng cao năng lực và sức chiến
đấu của Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức,
lối sống trong Đảng và trong xã hội, Hội nghị Trung ương 3 khoá X của Đảng đã
ban hành Nghị quyết “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh chống
tham nhũng, lãng phí”. Ngày 7-11-2006 , Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra
Chỉ thị số 06-CT/TW về tổ chức Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn Đảng
và toàn xã hội. Sau 5 năm thực hiện, Cuộc vận động đã thu được những thành tựu
đáng khích lệ. Để tiếp tục triển khai việc học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh, đưa việc học tập này vào chiều sâu, biến thành công việc
thường xuyên, hàng ngày của mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên và người
dân theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị
03-CT/TW, ngày 14/5/2011 về việc tiếp tục học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh. Thực hiện tốt Chỉ thị này sẽ tiếp tục góp phần quan trọng vào cuộc đấu
tranh ngăn chặn và đẩy lùi suy thoái về đạo đức, lối sống trong Đảng và trong
xã hội.
II. HỌC TẬP VÀ LÀM
THEO TƯ TƯỞNG, TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
1. Tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và
tinh hoa văn hoá của nhân loại; là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và nhân
dân ta
Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, ông cha
ta luôn coi trọng đạo đức, hình thành nên các chuẩn mực giá trị đạo đức tốt đẹp
trong quan hệ gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với yêu cầu tồn tại, phát
triển của dân tộc. Đó là truyền thống yêu quê hương đất nước; gắn bó với thiên
nhiên, với cộng đồng; đoàn kết, thuỷ chung, nhân ái, quý trọng nghĩa tình; yêu
lao động; dũng cảm, kiên cường, hiếu học, sáng tạo...
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống
đạo đức của dân tộc Việt Nam, được Người kế thừa và phát triển, kết hợp với
những tinh hoa văn hoá, đạo đức của nhân loại, cả phương Đông và phương Tây, mà
Người đã tiếp thu được trong quá trình hoạt động cách mạng đầy gian lao, thử
thách và vô cùng phong phú của mình. Tư tưởng đạo đức đó kết hợp với đạo đức
tiên tiến nhất của thời đại là đạo đức cộng sản trong Hồ Chí Minh, từ đó Người
đã xây dựng nên những giá trị đạo đức mới, đó là đạo đức cách mạng.
Trong quá trình đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập,
thống nhất của Tổ quốc, xây dựng và bảo vệ đất nước, đạo đức mới - đạo đức cách
mạng Hồ Chí Minh - đã trở thành nền tảng và động lực tinh thần, là nguồn sức
mạnh to lớn để Đảng và nhân dân ta vượt qua mọi thử thách, hy sinh, giành độc
lập, tự do, thống nhất cho Tổ quốc, xây dựng đất nước theo mục tiêu: dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Công cuộc đổi mới đất nước hiện nay đang đặt ra những yêu
cầu ngày càng cao trong việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc, giải phóng mọi tiềm
năng cho sự phát triển. Phát huy mạnh mẽ những chuẩn mực đạo đức mới, sự năng
động, sáng tạo, ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, quyết tâm không chịu
mãi đói nghèo, đưa đất nước tiến lên cùng nhân loại và thời đại, là động lực
tinh thần to lớn để đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới.
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một
trong những biện pháp để phát huy những mặt tích cực, khắc phục những tiêu cực
về đạo đức, lối sống. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là niềm
vinh dự và tự hào đối với mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người Việt Nam chúng ta.
Để xứng đáng là cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ
Chí Minh sáng lập, tổ chức và rèn luyện, việc học tập và làm theo tấm gương đạo
đức của Người phải trở thành nhiệm vụ hằng ngày của mỗi đảng viên và những
người đang phấn đấu vào Đảng.
2. Những nội
dung chủ yếu của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
a) Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí của đạo đức trong
đời sống xã hội và của mỗi người
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức là gốc của người
cách mạng, muốn làm cách mạng phải lấy đạo
đức làm gốc. Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội
mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là nhiệm vụ rất nặng nề, một
cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng
và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo
đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”1.
Hồ Chí Minh coi đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây, như ngọn
nguồn của sông, suối. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người
cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh
đạo được nhân dân”2.
Hồ Chí Minh quan niệm, đạo đức cách mạng là chỗ dựa giúp cho
con người vững vàng trong mọi thử thách, Người viết: “Có đạo đức cách mạng thì
khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước...
khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất
phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, lo hoàn thành nhiệm vụ
cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu,
không kiêu ngạo, không hủ hoá”3.
Đối với Đảng, đội tiên phong của giai cấp công nhân, Chủ
tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng Đảng ta thật trong sạch, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Trong bản Di chúc bất hủ, Người viết: “Đảng ta là
một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”1.
b) Quan điểm Hồ Chí Minh về những phẩm chất đạo đức cơ
bản của con người Việt Nam
Về những phẩm chất đạo đức của người
Việt Nam, quan điểm đạo đức Hồ Chí Minh đã bao quát những mối quan hệ cơ bản
của con người trong xã hội, bao gồm:
Một là, với đất nước, dân tộc phải “Trung với nước, hiếu với dân”.
Trung, hiếu là phẩm chất đạo đức truyền thống của dân tộc
Việt Nam và phương Đông, được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong
điều kiện mới. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trung với nước, hiếu với dân là điều
chủ chốt của đạo đức cách mạng. Trung với nước là trung thành vô hạn với sự
nghiệp dựng nước và giữ nước, đấu tranh giành độc lập dân tộc và làm cho đất
nước “sánh vai với cường quốc năm châu”. Nước là của dân, dân là chủ đất nước,
cho nên “trung với nước” là trung với dân, trung thành với lợi ích của nhân
dân, “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”; “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”...
Hiếu với dân là Đảng, Chính phủ, cán bộ nhà nước phải là
“đầy tớ trung thành của dân”; phải “tận trung với nước, tận hiếu với dân”.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trung với nước, hiếu với dân
phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Phải nắm vững dân
tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho
dân hiểu rõ trách nhiệm và quyền lợi của người làm chủ đất nước.
Hai là, với mọi người phải “Yêu
thương con người, sống có nghĩa, có tình”.
Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
xuất phát từ truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân
văn của nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Yêu thương con người thể hiện
mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong quan hệ xã hội, là phẩm chất đạo đức
cao đẹp nhất.
Yêu thương con người là phải quan tâm đến những người lao
động bình thường, chiếm số đông trong xã hội. Yêu thương con người phải làm mọi
việc để vì con người, vì mục tiêu “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành”; dám hy sinh, dám dấn thân để đấu tranh giải phóng con người.
Yêu thương con người phải tin vào con người. Với mình thì
chặt chẽ, nghiêm khắc; với người thì độ lượng, rộng rãi, nâng con người lên, kể
cả với người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm.
Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến
bộ, sống cao đẹp hơn. Yêu thương con người phải thực hiện tự phê bình, phê bình
chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm.
Ba là, với mình phải thực sự “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong tư tưởng đạo
đức của Hồ Chí Minh là mối quan hệ “với tự mình”.
Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức
tính cần có của con người, mang một lẽ tự nhiên, như trời có bốn mùa, đất có
bốn phương và Người giải thích cặn kẽ, cụ thể nội dung từng khái niệm.
- Cần là lao
động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao
động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa
dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh
phúc của mỗi chúng ta”.
- Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm
tiền của dân, của nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ;
“không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương, hình thức...”.
- Liêm là “luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân”, “không
xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”; “không tham địa vị,
không tham tiền tài, không tham sung sướng, không tham tâng bốc mình...”.
- Chính là không tà, là thẳng thắn, đúng đắn. Đối với mình không
tự cao, tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa
lọc, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì để việc
công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì quyết làm cho
kỳ được, “việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm; việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh”.
- Chí công vô tư là đem lòng chí công vô tư đối với người, với việc. “Khi
làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi
sau”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ
chặt chẽ với nhau và với chí công vô tư. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí
công vô tư. Ngược lại, đã chí công vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì
nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.
Bốn là, mở rộng quan hệ yêu thương con người đối với toàn nhân
loại, người cách mạng phải có “Tinh thần
quốc tế trong sáng”.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về tình đoàn kết quốc tế
trong sáng là sự mở rộng quan hệ đạo đức giữa người với người và với toàn nhân
loại vì Người không chỉ là “người Việt Nam nhất” như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng
khẳng định, mà còn là “nhà văn hoá lớn của thế giới”, “chiến sĩ lỗi lạc của phong
trào cộng sản quốc tế”.
Đoàn kết quốc tế trong sáng theo Hồ Chí Minh trước hết là
đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung: đấu tranh giải phóng
con người khỏi ách áp bức, bóc lột. Đó là tình đoàn kết quốc tế giữa những
người vô sản toàn thế giới vì một mục tiêu chung, “bốn phương vô sản đều là anh
em”; là đoàn kết với các dân tộc vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội.
Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ
nghĩa yêu nước chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
c) Quan niệm Hồ Chí Minh về những
nguyên tắc xây dựng và thực hành đạo đức
Hồ Chí Minh nêu lên những nguyên tắc xây dựng và thực
hành nền đạo đức mới trong xã hội, thể hiện ở ba điểm sau:
Một là, nói đi đôi
với làm, phải nêu gương về đạo đức.
Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm.
Nói đi đôi với làm trước hết là sự nêu gương tốt. Sự nêu
gương của thế hệ đi trước với thế hệ đi sau, lãnh đạo với nhân viên, đảng viên
phải nêu gương trước quần chúng. Người nói: “Trước mặt quần chúng, không phải
ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến.
Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức.
Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”1.
Hai là, xây đi đôi với
chống.
Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm
chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện đạo đức sai trái, xấu xa,
không phù hợp với những chuẩn mực của đạo đức mới. Xây đi đôi với chống, muốn
xây phải chống, chống nhằm mục đích xây.
Xây dựng đạo đức mới trước hết phải tác động vào nhận
thức, đẩy mạnh việc giáo dục, từ trong gia đình đến nhà trường, tập thể và toàn
xã hội. Những phẩm chất đạo đức chung phải được cụ thể hoá, sát hợp với từng
tầng lớp, đối tượng. Trong các bài viết của mình, Hồ Chí Minh đã nêu rất cụ thể
các phẩm chất đạo đức cơ bản đối với từng giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi và nhóm
xã hội.
Trong giáo dục, vấn đề quan trọng là phải khơi dậy ý thức
đạo đức lành mạnh trong mỗi người, để mỗi người nhận thức được và tự giác thực
hiện. Trong đấu tranh chống lại cái tiêu cực, lạc hậu phải phát hiện sớm, phải
chú ý phòng ngừa, ngăn chặn.
Để xây và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã hội,
tạo ra phong trào quần chúng rộng rãi, biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm để biểu dương người tốt việc tốt. Người
đã phát động cuộc thi đua “3 xây, 3 chống”, viết sách “người tốt, việc tốt” để
tuyên truyền, giáo dục về đạo đức, lối sống.
Ba là, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh,
rèn luyện bền bỉ mới thành. Người viết: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời
sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố.
Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong"1. Người dạy: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người,
ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai
vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa
vào chủ nghĩa cá nhân”2.
Trong rèn luyện đạo đức, Hồ Chí Minh coi tự rèn luyện
có vai trò rất quan trọng. Người khẳng định, đã là người thì ai cũng có chỗ
hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác ở trong mình. Vấn đề là
dám nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc, thấy rõ cái
hay, cái tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác để khắc
phục. Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong
mọi mối quan hệ của mình, trong đời tư cũng như trong sinh hoạt cộng đồng.
3. Noi theo
tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương đạo đức của
một vĩ nhân, một lãnh tụ cách mạng vĩ đại, một người cộng sản vĩ đại, nhưng
đồng thời cũng là tấm gương đạo đức của một người Việt Nam chân chính, bình
thường, gần gũi, ai cũng có thể học theo, làm theo, để trở thành một người cách
mạng, người công dân tốt hơn trong xã hội. Điều ấy thể hiện trong các điểm sau:
Một là, đạo đức Hồ
Chí Minh là tấm gương trọn đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người.
Ngay từ thuở thiếu thời, Hồ Chí Minh đã lựa chọn một cách
rõ ràng mục tiêu phấn đấu là vì nước, vì dân. Trong cả cuộc đời hoạt động cách
mạng lâu dài và gian khổ, Người đã chấp nhận mọi sự hy sinh, không quản gian
nguy, kiên định, dũng cảm và sáng suốt để vượt qua mọi khó khăn, thách thức,
thực hiện bằng được mục tiêu đó.
Hai là, đạo đức Hồ
Chí Minh là tấm gương của ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, vượt qua mọi thử
thách, khó khăn để đạt mục đích.
Cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh là một chuỗi năm tháng
đấu tranh vô cùng gian khổ. Vượt qua bao khó khăn, Người kiên trì mục đích của
cuộc sống, bảo vệ chân lý, giữ vững quan điểm, khí phách, bình tĩnh, chủ động
vượt qua mọi thử thách. Người tự răn mình: “Muốn nên sự nghiệp lớn, tinh thần càng
phải cao”.
Ba là, đạo đức Hồ
Chí Minh là tấm gương tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân, hết lòng,
hết sức phục vụ nhân dân.
Hồ Chí Minh luôn luôn tin ở con người, tin tưởng vào trí
tuệ và sức mạnh của nhân dân; dựa vào dân, lấy dân làm gốc, nguyện làm “người
đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, “người lính vâng lệnh quốc dân, đồng bào
ra mặt trận”.
Bốn là, đạo đức Hồ
Chí Minh là tấm gương của lòng nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu, hết mực
vì con người.
Hồ Chí Minh có tình thương yêu bao la với tất cả mọi kiếp
người, chia sẻ với mỗi người những nỗi đau. Người nói “Mỗi người, mỗi gia đình
đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người,
mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi”1.
Năm là, đạo đức Hồ
Chí Minh là tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong
sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường.
Hồ Chí Minh sống thật sự cần, kiệm, giản dị, coi khinh sự
xa hoa, không ưa chuộng những nghi thức trang trọng. Suốt đời Người sống trong
sạch, vì dân, vì nước, vì con người, không gợn chút riêng tư. Người đã đề ra tư
cách người cách mạng cho cán bộ, đảng viên phấn đấu và tự mình gương mẫu thực
hiện.
Bấy nhiêu đức tính cao cả chung đúc lại trong một con
người làm cho tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở nên siêu việt, vô song “khó ai
có thể vượt hơn”. Nhưng cũng chính từ sự kết hợp của những đức tính đó, Người
là tấm gương cụ thể, gần gũi mà mọi người đều có thể noi theo.
4. Nội dung
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong
giai đoạn hiện nay, mỗi cán bộ, đảng viên cần làm tốt các mặt sau đây:
Một là, thực hiện “trung với nước,
hiếu với dân”, mỗi cán bộ, đảng viên
phải trung thành vô hạn với mục tiêu lý tưởng của Đảng, của dân tộc, tham gia
tích cực vào việc đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Suốt đời hy sinh phấn đấu vì nước, vì dân tộc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh chỉ có một mong muốn, mong muốn tột bậc là đất nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hưởng tự do, “đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc,
ai cũng được học hành”. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chúng
ta cần:
- Trung thành vô hạn với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nền văn hoá, bảo vệ Đảng,
chế độ và sự nghiệp đổi mới, bảo vệ lợi ích của đất nước, dân tộc.
- Luôn luôn quan tâm đến lợi ích của nhân dân, tôn trọng
dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, giải quyết kịp thời những yêu cầu,
kiến nghị của dân, biết tập hợp nhân dân, phát huy sức mạnh của dân, tổ chức,
động viên cho nhân dân phấn đấu thoát khỏi đói nghèo, “làm giàu cho mình, cho
đất nước”.
- Có ý chí vươn lên, thực hiện mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, sớm đưa nước
ta ra khỏi tình trạng nước kém phát triển, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
- Có ý thức giữ gìn đoàn kết dân
tộc, đoàn kết trong Đảng, trong nhân dân; kiên quyết đấu tranh không khoan
nhượng trước mọi mưu đồ chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân,
chia rẽ Đảng với nhân dân của các thế lực thù địch, cơ hội.
- Có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, có
lương tâm nghề nghiệp trong sáng; ham học hỏi, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
được giao.
- Giải quyết đúng đắn mối quan hệ cá nhân - gia đình -
tập thể - xã hội; quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, theo lời dạy của Bác:
“Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”1.
Hai là, thực hiện
đúng lời dạy: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, nêu cao phẩm giá con
người Việt Nam trong thời kỳ mới.
- Tích cực lao động, học tập, công tác với tinh thần lao
động sáng tạo, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao; sử dụng lao động, vật
tư, tiền vốn của Nhà nước, của tập thể, của chính mình một cách có hiệu quả.
- Quý trọng công sức lao động và tài sản của tập thể, của
nhân dân; không xa hoa, lãng phí, không phô trương, hình thức.
- Kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng,
không để cho lợi ích cá nhân chi phối. Chống thói chạy theo danh vọng, địa vị,
giành giật lợi ích cho mình, lạm dụng quyền hạn, chức vụ để chiếm đoạt của
công; cục bộ địa phương, thu vén cho gia đình, cá nhân.
- Thẳng thắn, trung thực, bảo vệ chân lý, bảo vệ đường
lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ người tốt; chân thành, khiêm tốn; không chạy
theo chủ nghĩa thành tích, bao che, giấu giếm khuyết điểm...
Kiên quyết chống bệnh lười biếng, chạy theo lối sống
hưởng thụ, vị kỷ, nói không đi đôi với làm, nói nhiều, làm ít, làm dối, làm ẩu.
Có thái độ rõ ràng, lên án và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực,
loại trừ mọi biểu hiện vô liêm, bất chính ra khỏi đời sống xã hội.
Ba là, nâng cao ý
thức dân chủ và kỷ luật, gắn bó với nhân dân, vì nhân dân phục vụ.
- Mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải đặt mình trong tổ
chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, kỷ cương.
- Gần dân, học dân, có trách nhiệm với dân, khắc phục cho
được thói vô cảm, lãnh đạm, thờ ơ trước khó khăn, thắc mắc, những đau khổ của
nhân dân.
- Coi trọng tự phê bình và phê bình, “phải nghiêm khắc
với chính mình”. Phê bình có mục đích trong sáng, có lý, có tình. Khắc phục
bệnh chuộng hình thức, thích nghe lời khen (thậm chí xu nịnh), tâng bốc nhau,
không dám nói thẳng, nói thật... để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Đồng thời, cần
phê phán những biểu hiện xuất phát từ những động cơ cá nhân, vụ lợi mà “đấu
đá”; nhân danh phê bình để đả kích, lôi kéo, chia rẽ, làm rối nội bộ.
Bốn là, học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần phát huy chủ nghĩa yêu nước gắn chặt
với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc, chủ
động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa
dạng hoá với tinh thần Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong
cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực,
phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.
- Tôn trọng độc lập, chủ quyền của các nước khác, mở rộng
hợp tác cùng có lợi, cùng nhau phấn đấu vì hoà bình, phát triển, hợp tác, chống
chiến tranh, đói nghèo, bất công, cường quyền, áp đặt trong quan hệ quốc tế.
Với những vấn đề của quá khứ, lịch sử cần xoá bỏ mặc cảm, hận thù, nhìn về
tương lai, xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc.
- Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nguồn lực bên trong với nguồn lực bên
ngoài để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
- Nâng cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, tự
hào, tự tôn dân tộc; đấu tranh chống biểu hiện của dân tộc hẹp hòi, tự ti; đồng
thời phê phán tư tưởng ngoại lai, vong bản, vọng ngoại, ảo tưởng trước chủ
nghĩa tư bản.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Vì sao cần học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh trong giai đoạn hiện nay?
2. Trình bày nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
3. Phân tích nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
Bài 5
PHẤN ĐẤU TRỞ THÀNH ĐẢNG VIÊN
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp
công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc
Việt Nam. Đảng không ngừng lớn mạnh nhờ thường xuyên làm tốt công tác phát
triển đảng, chăm lo bồi dưỡng những người ưu tú trong giai cấp công nhân, nông
dân, trí thức và các tầng lớp xã hội khác để bổ sung vào đội ngũ của mình. Nội
dung bồi dưỡng, giáo dục quần chúng là mục tiêu, lý tưởng của Đảng, nâng cao hiểu
biết về Đảng, rèn luyện, thử thách trong thực tiễn công tác. Mặt khác, người
muốn trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam phải là những quần chúng tiên
tiến, tích cực, trải qua quá trình học tập, rèn luyện, phấn đấu, hội đủ các
điều kiện cần thiết để được xét kết nạp vào Đảng.
I. ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC XÉT KẾT NẠP VÀO ĐẢNG
Điểm 2, Điều 1 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định:
“Công dân Việt Nam
từ mười tám tuổi trở lên; thừa nhận và tự nguyện thực hiện Cương lĩnh chính
trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ
chức cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín
nhiệm, đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng”.
Trong quy định này
cần chú ý các nội dung sau:
1. Đảng viên phải là công dân Việt Nam từ mười tám tuổi
trở lên
“Công dân
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam”; chỉ
những người có quốc tịch Việt Nam mới là công dân Việt Nam, còn những người
không có quốc tịch Việt Nam hoặc đã từ bỏ quốc tịch Việt Nam thì không được
thừa nhận là công dân Việt Nam.
- Đây là đòi hỏi về
pháp lý và tư cách công dân của người xin vào Đảng. Công dân Việt Nam được
hưởng quyền và thực hiện các nghĩa vụ công dân theo quy định của Hiến pháp và
pháp luật của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó quan trọng
nhất là tự nguyện gắn bó với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Đảng chỉ xét kết
nạp những công dân Việt Nam đủ mười tám tuổi trở lên, vì ở độ tuổi đó con người
có sự trưởng thành về nhận thức, có năng lực tư duy cần thiết, có ý thức trách
nhiệm về mọi hành động của mình, đủ khả năng thực hiện quyền hạn và nghĩa vụ
công dân. Khi đó mới đủ điều kiện để thực hiện quyền và nhiệm vụ của đảng viên.
- Điều lệ Đảng
không quy định tuổi tối đa của người vào Đảng. Từ 18 tuổi trở lên, những ai đáp
ứng được tiêu chuẩn đều có thể được xem xét, kết nạp vào Đảng. Trong công tác
phát triển Đảng, tiêu chuẩn quan trọng nhất là sự giác ngộ lý tưởng, phẩm chất
chính trị, kiến thức và năng lực của người vào Đảng.
Tuy nhiên, để trẻ
hoá đội ngũ của mình, Đảng luôn quan tâm phát triển Đảng trong thanh niên,
những người trẻ tuổi, bảo đảm sự phát triển lâu dài và tương lai của Đảng.
Đối với những người
tuổi đã cao (trên 60 tuổi), việc kết nạp vào Đảng có sự cân nhắc. Quy định thi
hành Điều lệ Đảng số 23-QĐ/TW, ngày 31-10-2006 chỉ rõ: "Việc kết nạp vào
Đảng những người trên 60 tuổi do cấp uỷ trực thuộc Trung ương xem xét, quyết
định". Hướng dẫn số 03-HD/BTCTW ngày 29-12-2006 của Ban Tổ chức nói rõ
thêm: "Phải được Ban Thường vụ cấp uỷ trực thuộc Trung ương đồng ý bằng
văn bản trước khi cấp uỷ có thẩm quyền ra quyết định kết nạp".
2. Thừa nhận và tự nguyện thực hiện Cương lĩnh chính trị,
Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ
sở đảng
- Thừa nhận và tự nguyện thực hiện Cương lĩnh
chính trị của Đảng.
Người muốn vào Đảng
trước hết phải có giác ngộ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng, thừa nhận và tự
nguyện thực hiện mục tiêu, lý tưởng đó được nêu trong Cương lĩnh chính trị của
Đảng. Đây là điều kiện, tiêu chuẩn chính trị hàng đầu để trở thành đảng viên,
xác định mục tiêu, phương hướng chính trị và động cơ hành động đúng đắn, phù
hợp với yêu cầu của sự nghiệp cách mạng.
Nội dung điều kiện này yêu cầu người muốn được đứng trong đội ngũ của Đảng
phải có quan điểm, lập trường chính trị đúng đắn, giác ngộ mục đích, lý tưởng
của Đảng, sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ do Đảng giao phó. Điểm 1, Điều 1
trong Điều lệ Đảng quy định: "Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ
cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân
tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích
của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá
nhân...".
Người vào
Đảng không chỉ thừa nhận mà còn phải tự nguyện thực hiện Cương lĩnh. Thừa nhận
mà không tự nguyện thực hiện thì chưa phải đã thừa nhận thực sự. Hành động thực
tế là thước đo nhận thức, tư tưởng và ý thức phấn đấu của người vào Đảng.
- Thừa nhận và thực hiện Điều lệ Đảng.
Điều lệ Đảng là văn
bản pháp lý cơ bản của Đảng, bảo đảm Đảng là một khối thống nhất. Vì vậy, người
vào Đảng phải thừa nhận và thực hiện Điều lệ Đảng một cách vô điều kiện. Thừa
nhận và tự nguyện thực hiện Điều lệ Đảng cũng là thể hiện sự giác ngộ chính trị
và ý thức phấn đấu, ý thức tổ chức kỷ luật, tính tiền phong, gương mẫu, ý thức
cầu thị, tinh thần đoàn kết, khiêm tốn, gắn bó với tập thể, sẵn sàng nhận và
hoàn thành nhiệm vụ được giao. Người muốn vào Đảng phải nghiên cứu kỹ Điều lệ
Đảng.
- Thừa nhận và tự nguyện phấn đấu theo tiêu chuẩn,
nhiệm vụ đảng viên.
Việc quy định tiêu
chuẩn, nhiệm vụ của đảng viên xuất phát từ mục tiêu lý tưởng của Đảng và của
mỗi đảng viên. Người vào Đảng phải hiểu rõ và nắm vững tiêu chuẩn, nhiệm vụ
đảng viên, từ đó phấn đấu, rèn luyện, tu dưỡng để trở thành đảng viên của Đảng.
Đảng không chỉ căn cứ vào những lời nói, mà chủ yếu căn cứ vào việc làm thực tế
hàng ngày của người xin vào Đảng, qua đó xem xét thái độ và mục đích, xin vào
Đảng. Tự giác thực hiện nhiệm vụ, phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, hoàn thành
tốt các nhiệm vụ được giao, có quan hệ gắn bó với quần chúng, được quần chúng
tín nhiệm... là những điều kiện chủ yếu được quan tâm khi xem xét để kết nạp
người vào Đảng.
- Tự nguyện hoạt động trong một tổ chức cơ sở
đảng.
Một trong những nguyên tắc tổ chức cơ bản của đảng vô sản, phân biệt với
các đảng chính trị khác là mỗi đảng viên của Đảng phải sinh hoạt tại một tổ
chức cơ sở đảng. Điều đó tạo ra sự thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng.
Tổ chức cơ sở đảng là nơi trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên, là
nơi mà mỗi đảng viên thực hiện quyền và nhiệm vụ của mình, học tập, rèn luyện
và trưởng thành trong thực tế đấu tranh cách mạng, trực tiếp tham gia vào hoạt
động lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, bất kỳ người đảng viên nào, đảm nhiệm chức vụ
gì trong Đảng, trong bộ máy nhà nước, đều phải hoạt động trong một tổ chức cơ
sở đảng nhất định. Người muốn vào Đảng phải có mối liên hệ mật thiết với tổ
chức cơ sở đảng, chịu sự lãnh đạo, giáo dục, giúp đỡ để rèn luyện, thử thách và
trưởng thành; được tổ chức cơ sở đảng xem xét kết nạp vào Đảng theo đúng thẩm
quyền và thủ tục quy định.
3. Qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân
tín nhiệm
Điều lệ quy
định, người muốn vào Đảng phải hoạt động trong phong trào quần chúng, tỏ rõ
tính tích cực, tiên tiến so với quần chúng, cả về nhận thức, hành động và được
quần chúng tín nhiệm. Phải lao động, học tập, công tác đạt năng suất, chất
lượng, hiệu quả cao, có đạo đức, lối sống trong sạch, có khả năng cảm hoá, giáo
dục, tập hợp quần chúng, được quần chúng tin cậy và noi theo. Đảng viên là
người lãnh đạo quần chúng, vì vậy, người không được nhân dân tín nhiệm thì
không thể là đảng viên.
Trở thành
một người ưu tú là kết quả phấn đấu, rèn luyện qua một quá trình nhất định. Chỉ
có thông qua rèn luyện, thử thách trong thực tiễn "lửa thử vàng, gian nan
thử sức" mới chứng tỏ là người ưu tú, được Đảng lựa chọn. Sự đánh giá
trung thực, khách quan của nhân dân giúp Đảng xem xét, kết nạp đúng những người
thực sự ưu tú trong quần chúng vào Đảng.
Ngoài những điều
kiện được quy định trong Điều lệ Đảng, Quy định số 23-QĐ/TW, ngày 31-10-2006
của Ban Chấp hành Trung ương về thi hành Điều lệ Đảng còn có quy định về trình
độ học vấn của người vào Đảng:
"(a)
Người vào Đảng nói chung phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở hoặc tương
đương trở lên".
"(b)
Người vào Đảng đang sinh sống ở vùng cao, vùng sâu, vùng có điều kiện kinh tế -
xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, không bảo đảm được quy định tại điểm (a)
nêu trên thì nói chung cũng phải có trình độ học vấn tối thiểu là tiểu
học".
II. PHẤN ĐẤU TRỞ THÀNH ĐẢNG VIÊN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM
1. Xác định động cơ vào Đảng đúng đắn
- Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã dạy: "Vì sao chúng ta vào Đảng? Phải chăng để thăng quan,
phát tài? Không phải!... Chúng ta vào Đảng là để hết lòng hết sức phục vụ giai
cấp, phục vụ nhân dân, làm trọn nhiệm vụ của người đảng viên”. Bác còn căn dặn
nếu sợ không phục vụ được nhân dân, phục vụ được cách mạng thì đừng vào hay là
khoan hãy vào Đảng. Bởi vì Đảng là tổ chức cách mạng có sứ mệnh cao cả đoàn kết
và lãnh đạo nhân dân đấu tranh cho độc lập và chủ nghĩa xã hội, chứ không phải
là nơi để tìm kiếm danh vọng, địa vị, thu hái lợi lộc.
Phấn đấu vào
Đảng là để được đứng trong một tổ chức của những người cùng chung chí hướng đấu
tranh xây dựng một xã hội mới tốt đẹp dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ,
văn minh. Vào Đảng là dấn thân theo lý tưởng cách mạng, chấp nhận hy sinh, phấn
đấu, quyết tâm đi theo con đường mà Đảng, Bác Hồ và dân tộc ta đã chọn là xây
dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Cái được lớn nhất khi vào Đảng là
được phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, được Đảng và nhân dân tin cậy, yêu
mến.
- Trong quá
trình phấn đấu vào Đảng, việc xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn là điều có ý
nghĩa quyết định. Đảng chỉ kết nạp những người thực sự giác ngộ về mục đích, lý
tưởng cách mạng, quyết không thu nhận vào hàng ngũ mình những người mang động
cơ thiếu trong sáng, lệch lạc; càng không để cho các phần tử cơ hội lọt vào
Đảng. Để có động cơ vào Đảng đúng đắn, cần hiểu sâu sắc bản chất, mục đích của
Đảng, tích cực góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra;
thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng, đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện của
chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, vụ lợi, xa lạ với bản chất của người chiến sĩ
cách mạng.
- Xây dựng
động cơ vào Đảng đúng đắn hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng. Trong điều kiện
hoà bình, Đảng cầm quyền và cơ chế kinh tế thị trường, mỗi người chúng ta nói
chung, người đảng viên nói riêng, luôn phải đối mặt với biết bao khó khăn, thử
thách và những cám dỗ của quyền lực, tiền tài... Nếu người vào Đảng không có
động cơ vào Đảng trong sáng sẽ không thể vượt qua được những thử thách, không
thắng nổi sự cám dỗ vật chất và những thủ đoạn "diễn biến hoà bình"
của các thế lực thù địch.
2. Rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách
mạng
Bản lĩnh chính trị thể hiện ở nhận thức đúng
đắn và kiên định mục tiêu, lý tưởng đã lựa chọn; trong bất kỳ tình huống khó
khăn nào cũng không dao động, giảm sút niềm tin và ý chí chiến đấu. Khí tiết
của người cách mạng là “giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể
chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”. Đồng thời, bản lĩnh đó còn thể hiện ở
tinh thần độc lập, sáng tạo, không thụ động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ. Trong
điều kiện hiện nay, khi cách mạng thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, cần đặc
biệt nhấn mạnh đến sự kiên định lập trường, quan điểm chính trị, trung thành
với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, với lợi ích của nhân dân lao động và của dân
tộc.
- Để có bản lĩnh
chính trị vững vàng, người phấn đấu vào Đảng cần đứng vững trên lập trường của
giai cấp công nhân, giữ vững niềm tin. Trước khó khăn, thử thách không nao núng
tinh thần, không mất phương hướng chính trị và có thái độ, chính kiến rõ ràng,
kiên định.
- Bản lĩnh chính
trị được hình thành chủ yếu bằng nỗ lực của bản thân trong quá trình học tập,
nắm vững lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng.
Tích cực học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt, tích luỹ kiến thức và kinh
nghiệm, làm giàu vốn hiểu biết của mình. Bản lĩnh chính trị được rèn luyện qua
hoạt động thực tiễn. Muốn trở thành đảng viên của Đảng cần thường xuyên tự rèn
luyện mình qua thực tế sản xuất, công tác, hoạt động chính trị - xã hội. Chỉ có
sự hiểu biết sâu rộng, trải nghiệm dày dạn qua trường học đấu tranh thực tiễn,
chúng ta mới trở nên vững vàng, kiên định.
- Cùng với
rèn luyện bản lĩnh chính trị, cần thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng. Có
đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Đạo đức cách
mạng có nội dung hết sức phong phú, nhưng như lời Bác Hồ dạy: “Nói tóm tắt, thì
đạo đức cách mạng là: Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó
là điều chủ chốt nhất”. Trong Đảng ta, biết bao đồng chí đã vì dân, vì Đảng mà
hy sinh oanh liệt, đã nêu gương chói lọi về đạo đức cách mạng. Ngày nay, đại bộ
phận đảng viên vẫn giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng, được nhân dân quý mến,
tin cậy. Đạo đức cách mạng hoàn toàn trái ngược với chủ nghĩa cá nhân. Chủ
nghĩa cá nhân gây ra nhiều tác hại, có khi nghiêm trọng. Xây dựng đạo đức cách
mạng phải đi đôi với chống chủ nghĩa cá nhân.
Đạo đức cách
mạng là kết quả của quá trình tu dưỡng, rèn luyện suốt đời, không ngừng nghỉ,
như Bác Hồ đã dạy: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu
tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng
mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Ngày nay, đạo đức cách mạng còn là
ý chí, quyết tâm và góp sức đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển,
trở thành quốc gia giàu mạnh, văn minh, nhân dân làm chủ xã hội và có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc. Không thể có đạo đức cách mạng nếu làm gì cũng tính
toán thiệt hơn với Đảng, lúc nào cũng đòi hỏi hưởng thụ, muốn lựa chọn công
việc theo ý thích và lợi ích cá nhân, sống cơ hội, thực dụng, coi đồng tiền là
tất cả; lợi dụng cơ chế, chính sách để tham nhũng, lãng phí, làm giàu phi pháp…
- Đấu tranh chống
chủ nghĩa cá nhân không phải là phủ định vai trò, lợi ích cá nhân. Mỗi người
đều có tính cách riêng, sở thích riêng, đời sống riêng của bản thân và gia
đình. Lợi ích cá nhân được tôn trọng khi nó không trái với lợi ích chung của
cộng đồng. Đường lối của Đảng là kết hợp hài hoà ba loại lợi ích: lợi ích toàn
xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân, trong đó, lợi ích cá nhân là động
lực trực tiếp. Đảng luôn luôn tôn trọng và quan tâm đến lợi ích cá nhân, đồng
thời kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, đặt lợi ích cá nhân mình lên
trên, lên trước lợi ích tập thể và toàn xã hội.
3. Nâng cao năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao
- Đảng viên
phải hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Phấn đấu trở thành người sản xuất, công
tác, chiến đấu và học tập giỏi. Để xứng đáng với vai trò tiên phong, gương mẫu
“đảng viên đi trước, làng nước theo sau” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy.
- Để trở
thành đảng viên, người đang phấn đấu vào Đảng cần hoàn thành tốt nhiệm vụ công
tác của mình và nhiệm vụ được tổ chức đảng, đoàn thể giao cho, bảo đảm đạt chất
lượng, hiệu quả cao. Đó là điều kiện chủ yếu để quần chúng tin cậy giới thiệu
và tổ chức đảng xem xét kết nạp vào Đảng. Trong điều kiện hiện nay, ngoài nhiệt
tình cách mạng cần đặc biệt coi trọng nâng cao năng lực trí tuệ và năng lực
thực tiễn; không ngừng học tập, thường xuyên tiếp nhận những hiểu biết mới để
đủ kiến thức đáp ứng các yêu cầu do thực tiễn đặt ra. Phải coi trọng việc học tập
chính trị cùng với chuyên môn, nghiệp vụ. Đảng không thể kết nạp những người
lười học tập, hoặc học lấy lệ, chỉ cốt lấy bằng cấp, không thể hiện được tính
tiên phong, gương mẫu.
4. Gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia
hoạt động đoàn thể, công tác xã hội
- Một trong
những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự gắn bó mật thiết,
máu thịt với nhân dân. Đảng viên phải giữ vững và phát huy truyền thống đó,
trước hết thể hiện sự gắn bó với quần chúng ở nơi làm việc và nơi cư trú của
mình. Phải hoà mình với quần chúng, tin tưởng, am hiểu và lắng nghe ý kiến của
quần chúng. Thường xuyên chăm lo đời sống, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước.
- Muốn trở thành
đảng viên, người phấn đấu vào Đảng phải gắn bó với tập thể, với nhân dân, với
đồng nghiệp, bạn bè trong đơn vị công tác, với bà con làng xóm, khối phố; tôn
trọng, chia sẻ, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau. Hoà mình với quần chúng nhưng không
bị động theo những suy nghĩ và việc làm tiêu cực, sai trái, mà luôn luôn đề cao
tinh thần trách nhiệm, vận động mọi người đoàn kết, thực hiện thắng lợi mục
tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra.
- Người phấn đấu vào Đảng phải nhiệt tình tham gia sinh hoạt đoàn thể mà
bản thân là thành viên, góp phần phát huy vai trò của đoàn thể trong sự nghiệp
đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Qua hoạt
động đoàn thể, người phấn đấu vào Đảng thể, hiện rõ vai trò, khả năng lãnh đạo,
tập hợp quần chúng, phát huy tính tiên phong, gương mẫu - những phẩm chất cần
thiết để trở thành đảng viên của Đảng. Ở nơi có tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh, người trong độ tuổi thanh niên muốn vào Đảng nhất thiết phải
là đoàn viên ưu tú.
- Người muốn
vào Đảng càng phải chú trọng mở rộng quan hệ xã hội và tích cực tham gia công
tác xã hội, gương mẫu và vận động gia đình, người thân tham gia các phong trào,
các hoạt động đoàn thể, các hoạt động nhân đạo, từ thiện, phát huy truyền
thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc; chống tệ nạn xã hội, quan liêu, tham nhũng,
tiêu cực, lãng phí.
5. Tích cực tham gia xây dựng Đảng ở cơ sở
- Để được đứng
trong hàng ngũ của Đảng, người phấn đấu vào Đảng phải tích cực tham gia xây
dựng Đảng. Nhân dân ta gắn bó với Đảng và luôn tham gia đóng góp cho Đảng. Vì
vậy, tham gia xây dựng tổ chức đảng ở cơ sở trong sạch, vững mạnh là trách
nhiệm của người phấn đấu vào Đảng.
- Nội dung tham gia
xây dựng tổ chức cơ sở đảng của người phấn đấu vào Đảng là: Bằng sự hiểu biết
và kinh nghiệm thực tế của mình quan tâm đóng góp ý kiến với chi bộ, đảng bộ
trong việc lãnh đạo cơ quan, đơn vị chấp hành tốt đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước; phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh
doanh, cải thiện đời sống nhân dân và động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối
với Nhà nước.
- Tham gia xây dựng
Đảng ở cơ sở còn bao gồm các nội dung sau:
+ Tích cực hưởng
ứng các phong trào, các hoạt động triển khai thực hiện chủ trương, nhiệm vụ do
đảng bộ, chi bộ đề ra với tinh thần chủ động, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu cao
nhất. Góp phần tích cực đưa những chủ trương, nhiệm vụ đó vào cuộc sống, tạo ra
bước phát triển mới của cơ sở, đơn vị, nhất là về phát triển kinh tế, xoá đói,
giảm nghèo, cải thiện đời sống của người lao động, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, đẩy lùi những biểu hiện tiêu cực.
+ Chủ động nắm bắt
tình hình thực tế, nắm bắt tình hình tư tưởng của quần chúng nhân dân, kết quả
thực hiện chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng, kịp thời phản ánh, đề
xuất với tổ chức đảng.
+ Tích cực và mạnh
dạn tham gia góp ý kiến đối với sự lãnh đạo của tổ chức đảng và đội ngũ đảng
viên, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng,
nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
+ Tham gia ý kiến
khi được hỏi về việc giới thiệu những đảng viên ưu tú, đủ tiêu chuẩn để tổ chức
đảng xem xét, bầu vào cấp uỷ; giới thiệu những quần chúng ưu tú có đủ điều kiện
để tổ chức đảng xét kết nạp.
+ Tham gia góp ý
kiến đối với hoạt động của chính quyền và đoàn thể, góp phần xây dựng cơ sở
chính trị trong sạch, vững mạnh.
+ Tích cực và kiên
quyết đấu tranh bảo vệ Đảng, giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở cơ sở, đơn
vị. Góp phần làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn phá hoại của các phần tử xấu,
các thế lực thù địch lợi dụng dân chủ để xuyên tạc chủ trương, chính sách của
Đảng; vu cáo, bôi nhọ những cán bộ, đảng viên, tích cực, trung thực; kích động,
chia rẽ đoàn kết, gây rối nội bộ.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Những người như thế nào thì có thể được xét để kết nạp
vào Đảng?
2. Vì sao vấn đề xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn được
đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa quyết định đối với việc phấn đấu trở thành đảng
viên?
3. Cần làm gì và phấn đấu như thế nào để trở thành đảng
viên?
2. Đảng Cộng
sản Việt Nam :
Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.21, tr.500.
1. Đảng Cộng
sản Việt Nam :
Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.37, tr.471.
1.
Đảng Cộng sản Việt Nam :
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1996, tr.67-68.
1.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,
tr.173.
1. Hồ
Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2002, t.9, tr.283.
2. Sđd, t.5, tr.252-253.
1. Sđd, t.9, tr.293.
2. Sđd, t.12, tr.557-558.
1. Sđd, t.12,
tr.560-561.
1. Sđd, t.4,
tr.22.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét