Điều 2. Nguyên tắc xử lý kỷ luật
1- Tất cả đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng.
Đảng viên ở bất cứ cương vị, lĩnh vực công tác nào, nếu vi phạm kỷ luật của
Đảng đều phải được xem xét, xử lý kỷ luật nghiêm minh.
2- Việc thi hành kỷ luật đảng viên vi phạm phải thực hiện
đúng phương hướng, phương châm, nguyên tắc, thủ tục và thẩm quyền theo quy định
của Điều lệ Đảng, quy định, hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính
trị, Ban Bí thư và của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương.
3- Khi xem xét, xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm, phải căn cứ
vào nội dung, tính chất, mức độ, tác hại, nguyên nhân vi phạm, các tình tiết
tăng nặng hoặc giảm nhẹ, thái độ tiếp thu phê bình và sửa chữa, khắc phục
khuyết điểm, vi phạm; mục tiêu, yêu cầu của việc thực hiện nhiệm vụ chính trị
và công tác xây dựng Đảng.
Trong xử lý kỷ luật, phải kết hợp xem xét kết quả tự phê
bình và phê bình với kết quả thẩm tra, xác minh của tổ chức đảng để bảo đảm kết
luận dân chủ, khách quan, trung thực, đầy đủ, chính xác. Cần làm rõ nguyên
nhân, phân biệt sai lầm, khuyết điểm của đảng viên do trình độ, năng lực hoặc
động cơ vì lợi ích chung hay vì lợi ích cá nhân, cục bộ mà cố ý làm trái; vi
phạm nhất thời hay có hệ thống; đã được giáo dục, nhắc nhở, ngăn chặn vẫn làm
trái; ý thức tự phê bình và phê bình kém, không tự giác nhận lỗi, không bồi
hoàn vật chất kịp thời hoặc để kéo dài; có hành vi đối phó, gây khó khăn, trở
ngại cho việc kiểm tra; phân biệt đảng viên khởi xướng, tổ chức, quyết định với
đảng viên bị xúi giục, lôi kéo, đồng tình làm sai.
4- Các hình thức kỷ luật đảng viên vi phạm thực hiện theo
đúng quy định của Điều lệ Đảng. Đối với đảng viên chính thức : khiển trách,
cảnh cáo, cách chức, khai trừ. Đối với đảng viên dự bị : khiển trách, cảnh cáo.
Đảng viên vi phạm đến mức khai trừ thì phải khai trừ,
không áp dụng hình thức xoá tên; cấp uỷ viên vi phạm đến mức cách chức thì phải
cách chức, không cho thôi giữ chức; đảng viên dự bị vi phạm đến mức phải thi
hành kỷ luật thì áp dụng hình thức khiển trách hoặc cảnh cáo, không đủ tư cách
thì xoá tên trong danh sách đảng viên.
5- Đảng viên vi phạm pháp luật đến mức phải truy cứu trách
nhiệm hình sự thì phải truy cứu trách nhiệm hình sự, không "xử lý nội
bộ"; bị toà án tuyên phạt từ hình phạt cải tạo không giam giữ trở lên thì
phải khai trừ; nếu bị xử phạt bằng hình phạt thấp hơn cải tạo không giam giữ
hoặc được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự, bị xử phạt hành chính thì tuỳ nội
dung, mức độ, tính chất, tác hại và nguyên nhân vi phạm mà xem xét, thi hành kỷ
luật đảng một cách thích hợp.
6- Kỷ luật đảng không thay thế kỷ luật hành chính, kỷ luật
đoàn thể và các hình thức xử lý của pháp luật. Đảng viên bị thi hành kỷ luật về
Đảng thì cấp uỷ quản lý đảng viên đó phải kịp thời chỉ đạo tổ chức nhà nước,
đoàn thể chính trị - xã hội có thẩm quyền, trong thời hạn 30 ngày làm việc kể
từ ngày công bố quyết định kỷ luật về Đảng, phải xem xét, xử lý kỷ luật về hành
chính, đoàn thể (nếu có) theo quy định của cơ quan nhà nước và điều lệ của đoàn
thể.
Khi các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể
chính trị - xã hội đình chỉ công tác, khởi tố bị can hoặc thi hành kỷ luật đối
với cán bộ, hội viên, đoàn viên là đảng viên thì phải thông báo ngay bằng văn
bảncho tổ chức đảng quản lý đảng viên đó biết. Chậm nhất là 30 ngày làm việc kể
từ ngày nhận được thông báo, tổ chức đảng quản lý đảng viên phải xem xét, xử lý
kỷ luật về Đảng.
7- Một nội dung vi phạm chỉ bị xử lý kỷ luật một lần bằng
một hình thức kỷ luật. Trong thời điểm kiểm tra, xem xét xử lý vụ việc, nếu
đảng viên có từ hai nội dung vi phạm trở lên thì xem xét, kết luận từng nội
dung vi phạm và quyết định chung bằng một hình thức kỷ luật; không tách riêng
từng nội dung vi phạm của đảng viên để xử lý kỷ luật nhiều lần với các hình
thức kỷ luật khác nhau.
8- Trong cùng một vụ việc có nhiều đảng viên vi phạm thì mỗi
đảng viên đều phải bị xử lý kỷ luật về nội dung vi phạm của mình.
9- Cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra các cấp,
chi bộ có thẩm quyền thi hành kỷ luật, khi quyết định kỷ luật oan, sai đối với
đảng viên phải chủ động thay đổi hoặc huỷ bỏ quyết định đó; nếu tổ chức đảng đã
quyết định kỷ luật đối với đảng viên mà tổ chức đảng đócó vi phạm trong việc
xem xét, xử lý kỷ luật đến mức phải kỷ luật thì cấp uỷ hoặc uỷ ban kiểm tra cấp
trên xem xét, quyết định.
10- Sau một năm, kể từ ngày có quyết định kỷ luật hoặc quyết
định giải quyết khiếu nại kỷ luật (trừ quyết định kỷ luật khai trừ), nếu đảng
viên không tái phạm hoặc không có vi phạm mới đến mức phải xử lý kỷ luật thì
quyết định kỷ luật đương nhiên chấm dứt hiệu lực.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét