(Website
Chính phủ) - Ngày 2/2/2008, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã ký Nghị quyết số
22-NQ/TW - Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X về
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng
đội ngũ cán bộ, đảng viên.
I - Tình
hình tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên
Trong những
năm qua, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Quán triệt chủ trương và thực
hiện sự chỉ đạo của Trung ương, công tác xây dựng Đảng ở cơ sở đã có một số
chuyển biến tiến bộ, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới đất nước.
Nhiều tổ chức
cơ sở đảng đã giữ vững và phát huy được vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở;
lãnh đạo cán bộ, đảng viên, nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước và sự chỉ đạo của cấp ủy cấp trên; thực hiện
có kết quả nhiệm vụ chính trị, công tác chuyên môn của địa phương, cơ quan, đơn
vị. Việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở được triển khai và bước
đầu đem lại kết quả tích cực, dân chủ trong Đảng và trong xã hội được mở rộng
hơn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch đội ngũ cán bộ cơ sở được chăm lo.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở được tăng thêm về số lượng và chất lượng;
trình độ, kiến thức các mặt được nâng lên.
Nhiều cấp ủy
viên và cán bộ, đảng viên đã được rèn luyện, thử thách, trưởng thành qua thực
tiễn công tác; kiên định lập trường giai cấp công nhân, trung thành với chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng; gương
mẫu thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, hoàn thành nhiệm vụ được giao; trong đó, nhiều cán bộ trẻ được đào tạo cơ
bản, có phẩm chất, năng lực tốt, từng bước thích ứng với cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới. Công tác kết nạp
đảng viên được cấp ủy các cấp quan tâm chỉ đạo và đạt được một số kết quả tích
cực.
Có được những
chuyển biến tiến bộ trên là do Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí
thư và các cấp ủy đã có những nghị quyết, chỉ thị, quy định và giải pháp lớn về
xây dựng tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Nhiều cấp ủy cấp trên đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng tổ chức cơ sở
đảng trong sạch vững mạnh, củng cố cơ sở yếu kém; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên.
Các cấp ủy cơ
sở đã nhận thức đầy đủ hơn vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ
sở đảng và chăm lo công tác xây dựng Đảng. Đa số cán bộ, đảng viên đã được rèn
luyện, thử thách qua thực tiễn. Cơ sở vật chất, phương tiện và điều kiện làm
việc của cơ sở từng bước được trang bị tốt hơn trước.
Tuy nhiên,
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ
cán bộ, đảng viên còn một số khuyết điểm, yếu kém:
Nhiều cấp ủy
chưa thực sự coi trọng vị trí then chốt của công tác xây dựng Đảng; chưa dành
thời gian, công sức để tập trung chỉ đạo xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng.
Không ít tổ chức cơ sở đảng chưa nhận thức và thực hiện đúng chức năng, nhiệm
vụ của tổ chức cơ sở đảng. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng lý
tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở chưa đúng mức,
tính định hướng, tính chiến đấu và tính giáo dục, thuyết phục chưa cao. Năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu, khả năng nhận thức, vận dụng, cụ thể hóa và tổ
chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước và của cấp ủy cấp trên của nhiều tổ chức cơ sở đảng còn yếu, chưa đủ
sức phát hiện, giải quyết những vấn đề phức tạp xảy ra ở cơ sở; có tổ chức cơ
sở đảng bị mất sức chiến đấu.
Nhiều cấp ủy,
đảng bộ, chi bộ chưa thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng;
chưa thực hiện có nền nếp chế độ sinh hoạt đảng, nội dung sinh hoạt chi bộ chậm
đổi mới; chưa coi trọng đổi mới phương thức lãnh đạo và phong cách, lề lối làm
việc; bệnh thành tích còn nặng và khá phổ biến. Một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí phấn đấu, vi phạm nguyên tắc Đảng,
tự phê bình và phê bình yếu. Tình thương yêu đồng chí bị giảm sút. Tình trạng
suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên rất đáng lo ngại; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực còn
xảy ra ở nhiều nơi nhưng chậm được phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả.
Công tác quản
lý, kiểm tra, giám sát, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên còn bị
buông lỏng. Cấp ủy và chi bộ chưa nắm chắc tình hình tư tưởng và phẩm chất của
cán bộ, đảng viên; chưa chủ động dự báo và chuẩn bị tư tưởng cho cán bộ, đảng
viên trước những diễn biến phức tạp và những vấn đề mới; chưa có biện pháp hữu
hiệu ngăn ngừa, phát hiện, đấu tranh và xử lý kịp thời những đảng viên vi phạm.
Việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên hằng năm còn hình
thức, kết quả chưa phản ánh đúng thực chất. Công tác kết nạp đảng viên còn chú
ý nhiều đến số lượng, chưa chú trọng đúng mức đến chất lượng. Số đảng viên kết
nạp ở địa bàn dân cư, là công nhân trong các thành phần kinh tế còn ít.
Những khuyết
điểm, yếu kém trên có nguyên nhân khách quan, song chủ yếu là do một số nguyên
nhân chủ quan sau:
Trong quá
trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
kinh tế quốc tế, do chưa lường hết tác động bởi mặt trái của cơ chế thị trường
nên công tác xây dựng Đảng nói chung, xây dựng Đảng ở cơ sở nói riêng tuy đã
được đổi mới nhưng chưa theo kịp sự biến đổi của tình hình; chưa quan tâm đúng
mức đến công tác nghiên cứu lý luận, thiếu dự báo về công tác xây dựng Đảng
trong tình hình mới để đề ra nội dung, biện pháp thiết thực.
Chưa nhận thức
đúng, đầy đủ nhiệm vụ then chốt của công tác xây dựng Đảng; chưa quán triệt sâu
sắc vị trí, vai trò và chức năng, nhiệm vụ của chi bộ, của tổ chức cơ sở đảng.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của cấp ủy cấp trên đối với cơ sở chưa
thường xuyên; việc xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm chưa kịp thời, thiếu kiên
quyết.
Việc ban hành
các quy định, hướng dẫn của Trung ương về công tác xây dựng Đảng còn chậm,
thiếu đồng bộ, một số quy định, hướng dẫn chưa sát thực tế. Chế độ, chính sách
đối với cán bộ cơ sở còn bất cập; đội ngũ cấp ủy viên ít được bồi dưỡng về kỹ
năng, nghiệp vụ công tác xây dựng Đảng và cập nhật những kiến thức mới, nhất là
về kinh tế, xã hội và pháp luật.
II – Quan
điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu
1. Quan điểm
- Tổ chức cơ
sở đảng là nền tảng của Đảng, là cầu nối giữa Đảng với dân, có vị trí rất quan
trọng trong hệ thống tổ chức của Đảng. Toàn Đảng phải tập trung lãnh đạo, chỉ
đạo để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng; bảo
đảm sự lãnh đạo của Đảng trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội
ở cơ sở, nhất là ở những địa bàn, lĩnh vực trọng yếu, có nhiều khó khăn. Lấy
hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở làm thước đo kết quả tổng hợp
của công tác xây dựng Đảng.
- Tăng cường
mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng,
phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong việc tham gia xây
dựng Đảng. Tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; tổ chức đảng, cán
bộ, đảng viên phải chịu sự giám sát của nhân dân.
- Thực hiện
đồng bộ các giải pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng. Xây dựng tổ chức cơ sở đảng phải kết hợp chặt chẽ với thực hiện
cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh",
với xây dựng chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở vững mạnh, với
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là bí thư đảng bộ, chi
bộ, người đứng đầu và các cấp ủy viên.
2. Mục tiêu
Trong 5 năm
tới, cần phấn đấu đạt được các mục tiêu sau:
- Tập trung
sức để xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng, tạo được sự chuyển biến rõ rệt về chất lượng hoạt động của các loại
hình tổ chức cơ sở đảng, làm cho tổ chức đảng ở cơ sở vững mạnh về chính trị,
tư tưởng và tổ chức, thực sự là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, lãnh đạo thực
hiện tốt nhiệm vụ chính trị và kịp thời giải quyết những vấn đề xảy ra ở cơ sở.
- Kiện toàn,
sắp xếp tổ chức của hệ thống chính trị đồng bộ, thống nhất, bảo đảm sự lãnh đạo
của Đảng ở cơ sở. Tập trung củng cố, xây dựng tổ chức đảng và kết nạp đảng viên
ở những nơi chưa có tổ chức đảng, có ít hoặc chưa có đảng viên. Bảo đảm các
loại hình tổ chức cơ sở đảng đều có quy định về chức năng, nhiệm vụ và quy chế
làm việc phù hợp.
- Chăm lo xây
dựng đội ngũ cấp ủy viên, trước hết là bí thư cấp ủy và cán bộ, đảng viên thật
sự tiền phong gương mẫu, có phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ
luật, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Kiên quyết thay thế những cán bộ yếu
kém về phẩm chất, năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời đưa ra khỏi
Đảng những người không đủ tư cách đảng viên.
3 - Nhiệm vụ
và giải pháp chủ yếu trong thời gian tới
Các cấp ủy, tổ
chức đảng cần thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau đây:
3.1- Tăng
cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trí tuệ, phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý
thức tổ chức kỷ luật, thực sự tiền phong gương mẫu, đủ năng lực hoàn thành
nhiệm vụ được giao.
Các cấp ủy
phải quan tâm làm tốt công tác chính trị tư tưởng, chủ động dự báo tình hình để
kịp thời trang bị những thông tin có định hướng của Đảng cho cán bộ, đảng viên.
Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giảng dạy và học tập lý luận chính trị;
chú ý bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên kỹ năng lãnh đạo, giải quyết những tình
huống cụ thể xảy ra ở cơ sở. Chủ động khắc phục những biểu hiện phai nhạt lý
tưởng; chống chủ nghĩa cơ hội, thực dụng, vụ lợi, cá nhân, trung bình chủ
nghĩa; kiên quyết đấu tranh với những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, phản
động, góp phần làm thất bại mọi âm mưu "diễn biến hòa bình" của các
thế lực thù địch.
Xây dựng sự
đoàn kết thống nhất trong cấp ủy, chi bộ, đảng bộ trên cơ sở Cương lĩnh chính
trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chính sách của Đảng và tình đồng chí. Cấp ủy phải
nắm chắc tình hình tư tưởng, phát hiện kịp thời những cán bộ, đảng viên vi phạm
về đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực khác; có biện pháp
cụ thể để phòng ngừa, giáo dục, giúp đỡ và xử lý nghiêm minh đối với những cán
bộ, đảng viên sai phạm.
3.2- Hoàn
thiện mô hình tổ chức của các loại hình tổ chức cơ sở đảng theo hướng gắn tổ
chức cơ sở đảng với lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và lãnh đạo các tổ
chức chính trị - xã hội; chăm lo kết nạp đảng viên, nhất là ở những địa bàn,
đơn vị chưa có tổ chức đảng, chưa có đảng viên.
Tiếp tục kiện
toàn, sắp xếp tổ chức của các tổ chức cơ sở đảng cho đồng bộ, thống nhất với
các tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở. Đồng thời, xây dựng mô hình tổ chức
phù hợp với những tổ chức cơ sở đảng có tính đặc thù, vừa tạo sự thống nhất
chung, vừa phù hợp với đặc điểm cụ thể của từng địa phương, đơn vị.
Đối với khu
vực xã, phường, thị trấn, tiến hành sắp xếp mô hình tổ chức của đảng bộ, chi
bộ, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn dân cư theo
hướng: dưới đảng bộ xã là chi bộ thôn (ấp, bản); dưới đảng bộ phường, thị trấn
nói chung là chi bộ tổ dân phố. Những thôn, tổ dân phố có đông đảng viên thì
thành lập đảng bộ bộ phận, có các chi bộ trực thuộc. Đối với những đảng bộ cơ
sở trong cơ quan, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước hoạt động trên địa
bàn nhiều tỉnh, thành phố, tổ chức đảng và các đoàn thể quần chúng trực thuộc
nhiều cấp trên khác nhau, cần sắp xếp lại cho phù hợp, bảo đảm sự lãnh đạo của
tổ chức cơ sở đảng trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác cán bộ và
lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội.
Đối với tổ chức
cơ sở đảng trong các tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn hoạt động theo mô hình
công ty mẹ - công ty con và các tổng công ty hạng đặc biệt có nhiệm vụ chính
trị thống nhất, có cùng ngành nghề và sản phẩm chính, gắn bó và chi phối lẫn
nhau, thì trên cơ sở tổng kết, rút kinh nghiệm những mô hình đã có để từng bước
thực hiện chủ trương thành lập tổ chức đảng toàn tập đoàn, toàn tổng công ty;
đồng thời cũng cho phép có một số mô hình có tính đặc thù. Gắn công tác xây
dựng Đảng với lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, công tác cán bộ
của doanh nghiệp; có quy định cụ thể về mối quan hệ giữa đảng ủy tập đoàn, đảng
ủy tổng công ty với các cấp ủy địa phương có liên quan.
Đối với các
tỉnh, thành phố có nhiều khu công nghiệp tập trung thì thành lập đảng bộ cơ sở
khu công nghiệp, đặt trực thuộc cấp ủy cấp trên trực tiếp phù hợp. Những doanh
nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có quy mô lớn, đông công
nhân và đông đảng viên thì thành lập tổ chức cơ sở đảng; những doanh nghiệp có
quy mô vừa và nhỏ, số lượng công nhân và đảng viên ít thì thành lập chi bộ trực
thuộc đảng ủy cơ sở phù hợp. Những địa phương còn nhiều thôn, làng, ấp, bản, tổ
dân phố, trường học, doanh nghiệp chưa có tổ chức đảng, chưa có đảng viên, cấp
ủy cấp trên trực tiếp của cơ sở phân công cấp ủy viên và các ban, ngành, đoàn
thể phụ trách từng đơn vị để chỉ đạo công tác kết nạp đảng viên, xây dựng tổ
chức đảng và các tổ chức chính trị - xã hội. Những đảng viên làm việc ổn định
trong các doanh nghiệp phải chuyển sinh hoạt đảng về nơi làm việc hoặc tổ chức
đảng phù hợp. Nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên mới, khắc phục bệnh thành
tích, chỉ chú ý nhiều đến số lượng mà hạ thấp tiêu chuẩn.
3.3- Thực
hiện mạnh mẽ chủ trương trẻ hóa, tiêu chuẩn hóa, thể chế hóa và từng bước nhất
thể hóa chức danh cán bộ; tạo bước chuyển có tính đột phá về xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức ở cơ sở.
Để trẻ hóa và
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở, cần sớm ban hành chính
sách thu hút để thực hiện chủ trương đưa sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng
về công tác ở xã, phường, thị trấn, doanh nghiệp; có cơ chế, chính sách để giải
quyết đối với những cán bộ chưa được chuẩn hóa nhưng chưa đủ tuổi, đủ năm công
tác để nghỉ theo chế độ. Đối với các tỉnh miền núi, vùng có đông đồng bào dân
tộc thiểu số, cần tăng cường đầu tư, nâng cao chất lượng đào tạo của các trường
phổ thông dân tộc nội trú, trường thiếu sinh quân; phối hợp với các quân khu
lựa chọn những thanh niên người dân tộc thiểu số đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự
đưa đi đào tạo nâng cao trình độ học vấn, lý luận chính trị, kiến thức chuyên
môn, nghiệp vụ để tạo nguồn cán bộ cho cơ sở.
Xây dựng hệ thống
chính sách phù hợp và đồng bộ đối với cán bộ, công chức cơ sở xã, phường, thị
trấn theo hướng: Một số chức danh cán bộ chuyên trách ở xã, phường, thị trấn
cần và có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của Chính phủ thì được xem xét
chuyển thành công chức nhà nước để tạo sự liên thông trong đội ngũ cán bộ, công
chức ở các cấp; các chức danh cán bộ chuyên trách khác không đủ điều kiện, tiêu
chuẩn để trở thành công chức nhà nước thì thực hiện theo chế độ hiện hành, khi
được giữ chức vụ do bầu cử thì hưởng chế độ phụ cấp trách nhiệm và thực hiện
chế độ bảo hiểm, khi thôi đảm nhiệm chức vụ thì thôi hưởng phụ cấp và đóng bảo
hiểm tự nguyện. Cán bộ không chuyên trách thì thực hiện theo hướng khoán kinh
phí hoạt động và đóng bảo hiểm tự nguyện. Chính phủ quy định khung số lượng và
khung mức phụ cấp để các địa phương thực hiện phù hợp với tình hình cụ thể.
Thực hiện chế độ phụ cấp trách nhiệm đối với cấp ủy viên các cấp như đối với
đại biểu hội đồng nhân dân cùng cấp; có chế độ phụ cấp thu hút đối với cán bộ công
tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, vùng có đông đồng bào dân tộc
thiểu số. Hằng năm, dành một số biên chế dự phòng để các địa phương thực hiện
việc đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển và tăng cường cán bộ cho cơ sở. Kinh phí
để thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ xã, phường, thị trấn do Chính
phủ quy định phù hợp với Luật Ngân sách nhà nước.
Đổi mới mạnh
mẽ nội dung, hình thức đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở
xã, phường, thị trấn theo chức danh cán bộ; chú ý bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng,
nghiệp vụ và kinh nghiệm giải quyết những tình huống cụ thể ở cơ sở. Hằng năm,
cán bộ chuyên trách, cấp ủy viên cơ sở xã, phường, thị trấn phải được bồi dưỡng
để cập nhật kiến thức mới tại trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện hoặc
trường chính trị tỉnh, thành phố.
Bổ sung, sửa
đổi một số quy định về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng nhằm xác định
rõ hơn vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ
chính trị và công tác cán bộ. Bổ sung, sửa đổi các quy định, hướng dẫn về đánh
giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên theo hướng đánh giá đúng thực
chất. Ban hành hướng dẫn về đảng viên làm kinh tế tư nhân, việc kết nạp chủ
doanh nghiệp tư nhân vào Đảng; xử lý đối với đảng viên có liên quan đến yếu tố
nước ngoài... để thực hiện thống nhất trong toàn Đảng.
Thực hiện thí
điểm chủ trương nhất thể hóa hai chức danh cán bộ chủ chốt ở cơ sở. Thực hiện
thí điểm từng bước việc đại hội đảng bộ cơ sở bầu cấp ủy, ban thường vụ, bí thư
và phó bí thư. Đối với những nơi có khó khăn về cán bộ, có thể vận dụng linh
hoạt hơn chủ trương chủ tịch hội đồng nhân dân, chủ tịch ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn không giữ một chức vụ quá hai nhiệm kỳ.
Các tổ chức cơ
sở đảng trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp, thực hiện thống
nhất chủ trương thủ trưởng cơ quan, đơn vị hoặc một đồng chí lãnh đạo của cơ
quan, đơn vị trực tiếp làm bí thư cấp ủy. Đối với các doanh nghiệp nhà nước,
thực hiện thống nhất chủ trương chủ tịch hội đồng quản trị hoặc tổng giám đốc (giám
đốc) đồng thời là bí thư cấp ủy. Đối với những công ty cổ phần có vốn nhà nước,
cấp ủy và lãnh đạo cấp trên của doanh nghiệp cần lựa chọn những cán bộ, đảng
viên có phẩm chất, năng lực và có đủ điều kiện đại diện phần vốn của Nhà nước
để tham gia cấp ủy và hội đồng quản trị của công ty.
Trong các đơn
vị cơ sở thuộc Công an nhân dân, thực hiện chế độ thủ trưởng đơn vị đồng thời
làm bí thư cấp ủy, đồng chí lãnh đạo cấp phó làm phó bí thư và phụ trách công
tác xây dựng lực lượng. Đồng thời, nghiên cứu việc thực hiện chế độ chính ủy,
chính trị viên ở một số đơn vị cơ động, chiến đấu tập trung và có tính đặc thù.
Trong các học viện, trường đại học thuộc Bộ Công an cần có khoa chuyên ngành để
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác đảng, công tác chính trị và công
tác quần chúng trong lực lượng công an nhân dân.
3.4- Nâng
cao chất lượng, đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động của các loại
hình tổ chức cơ sở đảng theo hướng vừa mở rộng dân chủ, vừa tăng cường kỷ
cương, kỷ luật; khắc phục tính hình thức, đơn điệu trong sinh hoạt, bảo đảm
tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.
Tập trung sức
củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, nâng cao chất lượng sinh
hoạt đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ nghiêm kỷ luật, tăng cường
đoàn kết trong Đảng. Thường xuyên giáo dục, rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính
trị, đạo đức cách mạng, trình độ, kiến thức và năng lực công tác cho đội ngũ cán
bộ, đảng viên.
Các cấp ủy, tổ
chức đảng ở cơ sở thực hiện nghiêm túc, có nền nếp chế độ sinh hoạt đảng định
kỳ. Nội dung sinh hoạt chi bộ phải cụ thể, thiết thực, giải quyết kịp thời
những vấn đề bức xúc xảy ra ở địa phương, cơ quan, đơn vị. Mỗi quý, các chi bộ
phải sinh hoạt chuyên đề ít nhất một lần để bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới
cho đảng viên trong chi bộ.
Việc tự phê
bình và phê bình trong sinh hoạt đảng cần tiến hành thường xuyên, nghiêm túc,
thiết thực, nhất là trong các đợt tự phê bình và phê bình trong quá trình thực
hiện cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh"; kịp thời phát hiện và nêu gương những đảng viên tiền phong gương
mẫu, có thành tích xuất sắc và giáo dục, giúp đỡ những đảng viên có sai phạm. Thi
hành kỷ luật nghiêm minh đối với đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng và đưa ra khỏi
Đảng những người không đủ tư cách đảng viên. Động viên những đảng viên không
còn tác dụng tự nguyện xin ra Đảng.
Định kỳ 6
tháng một lần, cấp ủy cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng kiểm tra việc
thực hiện nền nếp, nội dung, chất lượng sinh hoạt của các chi bộ và thông báo
kết quả kiểm tra trong toàn đảng bộ. Các cấp ủy viên, người đứng đầu địa
phương, cơ quan, đơn vị và đảng viên là cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp phải
chăm lo chỉ đạo công tác xây dựng Đảng ở nơi mình đang sinh hoạt và phải chịu
trách nhiệm khi tổ chức cơ sở đảng nơi mình sinh hoạt yếu kém.
Thường xuyên
bồi dưỡng đội ngũ cấp ủy viên, bí thư cấp ủy về kỹ năng cụ thể hóa và tổ chức
thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy cấp trên; về biện pháp quy tụ, tập
hợp quần chúng, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị ở cơ sở để
thực hiện có kết quả nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị. Những
cơ quan, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp có đủ số lượng đảng viên để bố trí cán
bộ chuyên trách thì phân công những đảng viên có phẩm chất, năng lực, kinh
nghiệm làm chuyên trách và hưởng lương từ ngân sách đảng.
3.5- Tăng
cường công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, quản lý đảng viên; dựa vào dân để
xây dựng Đảng.
Các cấp ủy cấp
trên phải nắm chắc tình hình cơ sở, phân công cấp ủy viên trực tiếp phụ trách
cơ sở, kịp thời tháo gỡ khó khăn, giải quyết những vấn đề xảy ra ở cơ sở. Các
văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của cấp ủy cấp trên phải có nội dung ngắn gọn và dễ
hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện, dễ kiểm tra, dễ quy trách nhiệm. Cán bộ lãnh đạo,
quản lý và các cấp ủy viên cấp trên của tổ chức cơ sở đảng phải bố trí thời
gian để gặp gỡ đảng viên và nhân dân tại cơ sở, giải quyết kịp thời những kiến
nghị chính đáng của đảng viên và quần chúng; bảo vệ những cán bộ tốt, những
người trung thực, thẳng thắn đấu tranh chống tiêu cực.
Thực hiện
nghiêm túc Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X về
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; Quy định của Bộ Chính trị về
xử lý đảng viên vi phạm; về những điều đảng viên không được làm. Cấp ủy cơ sở
phải giám sát đảng viên về các mặt, kể cả đảng viên là cán bộ do cấp ủy cấp trên
quản lý. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã
hội trong việc vận động nhân dân giám sát cán bộ, đảng viên ở địa bàn dân cư;
tổ chức tốt việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do hội đồng nhân dân
cấp xã bầu ra.
Các chi bộ
phải thực hiện tốt việc phân công công tác cho đảng viên, bảo đảm mọi đảng viên
trong chi bộ đều được phân công công tác phù hợp. Đối với những đảng viên là
cán bộ nghỉ hưu, sức khỏe yếu và tự nguyện, được chi bộ và cấp ủy cơ sở đề
nghị, cấp ủy cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng xem xét, cấp giấy chứng
nhận miễn sinh hoạt và công tác. Những đảng viên 2 năm liền xếp loại vi phạm tư
cách thì đưa ra khỏi Đảng bằng hình thức phù hợp.
Hằng năm, các
tổ chức cơ sở đảng phải đăng ký phấn đấu thực hiện các nhiệm vụ với cấp ủy cấp
trên, trong đó có nội dung cam kết không có cán bộ, đảng viên tham nhũng, lãng
phí, tiêu cực và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Cuối năm, cấp ủy cấp trên căn cứ vào nội dung đăng ký để đánh giá chất lượng tổ
chức cơ sở đảng và đảng viên.
Tiếp tục đổi
mới nội dung và phương pháp đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng
viên. Đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng phải gắn với kết quả thực hiện
nhiệm vụ chính trị, sự vững mạnh của các tổ chức trong hệ thống chính trị và
chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, đồng thời thông báo để cán bộ, đảng viên
và nhân dân tham gia ý kiến. Cấp ủy cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng
phải kiểm tra, thẩm định chặt chẽ và chịu trách nhiệm về kết quả đánh giá chất
lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên. Biểu dương, khen thưởng những tổ chức cơ
sở đảng, đảng viên có thành tích xuất sắc và tuyên truyền, phổ biến kinh nghiệm
để nhân rộng.
III – Tổ
chức thực hiện
1- Bộ
Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo cụ thể hóa nội dung Nghị quyết thành các đề án và
chỉ đạo xây dựng, ban hành các quy định, quy chế, hướng dẫn để thực hiện.
2- Các
tỉnh ủy, thành ủy, ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc
Trung ương tổ chức nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết và xây dựng kế hoạch hoặc
chương trình hành động cụ thể để thực hiện phù hợp với tình hình, đặc điểm của
ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị.
3- Đảng
đoàn Quốc hội chỉ đạo các cơ quan chức năng rà soát, bổ sung, sửa đổi một số
văn bản pháp luật có liên quan tới nội dung Nghị quyết.
4- Ban
cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo các cơ quan chức năng phối hợp với Ban Tổ chức
Trung ương và các ban của Trung ương Đảng nghiên cứu bổ sung, sửa đổi một số
điểm trong các Nghị định 114, 121/NĐ-CP của Chính phủ và một số quy định khác
có liên quan tới nội dung Nghị quyết.
5- Theo
chức năng, nhiệm vụ của mình, Đảng đoàn Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các đoàn thể ở Trung ương nghiên cứu, ban hành các quy định và hướng dẫn
để chỉ đạo cấp dưới thực hiện theo yêu cầu của Nghị quyết này.
6- Ban
Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan ở Trung ương
hướng dẫn việc quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện Nghị quyết.
7- Ban Tổ
chức Trung ương chủ trì, phối hợp với các ban, cơ quan đảng ở Trung ương hướng dẫn,
theo dõi, đôn đốc và kiểm tra việc thực hiện nghị quyết, định kỳ báo cáo Bộ
Chính trị, Ban Bí thư và Ban Chấp hành Trung ương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét