BAN
CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
-------- |
ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
---------------- |
Số:
181-QĐ/TW
|
Hà
Nội, ngày 30 tháng 03 năm 2013
|
QUY
ĐỊNH
XỬ
LÝ KỶ LUẬT ĐẢNG VIÊN VI PHẠM
Căn cứ Điều
lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, kết luận của Đảng, pháp luật
của Nhà nước;
Căn cứ Quy
định số 47-QĐ/TW ngày 01-11-2011 của Ban Chấp hành Trung ương về những điều
đảng viên không được làm;
Căn cứ Quy
chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư khóa XI;
1. Quy định này
quy định nội dung vi phạm và hình thức xử lý kỷ luật đối với đảng viên vi phạm
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định,
quy chế, kết luận của Đảng, pháp luật của Nhà nước, điều lệ, nghị quyết, quy
định của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, cơ quan, đơn vị
mà đảng viên là thành viên. Trường hợp đảng viên vi phạm những nội dung chưa có
trong Quy định này thì căn cứ vào quy định của Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà
nước và vận dụng Quy định này để xử lý kỷ luật cho phù hợp.
2. Đảng viên vi
phạm trước đây, nhưng sau khi chuyển công tác, nghỉ việc hoặc nghỉ hưu mới phát
hiện vi phạm vẫn phải xem xét, kết luận; nếu vi phạm đến mức phải thi hành kỷ
luật thì phải thi hành kỷ luật theo đúng quy định của Điều lệ Đảng, pháp luật
của Nhà nước và những nội dung nêu trong Quy định này.
1. Tất cả đảng
viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng. Đảng viên ở bất cứ cương vị, lĩnh
vực công tác nào, nếu vi phạm kỷ luật của Đảng đều phải được xem xét, xử lý kỷ
luật nghiêm minh.
2. Việc thi hành
kỷ luật đảng viên vi phạm phải thực hiện đúng phương hướng, phương châm, nguyên
tắc, thủ tục và thẩm quyền theo quy định của Điều lệ Đảng, quy định, hướng dẫn
của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và của Ủy ban Kiểm tra
Trung ương.
3. Khi xem xét,
xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm, phải căn cứ vào nội dung, tính chất, mức độ,
tác hại, nguyên nhân vi phạm, các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ, thái độ
tiếp thu phê bình và sửa chữa, khắc phục khuyết điểm, vi phạm; mục tiêu, yêu
cầu của việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng.
Trong xử lý kỷ luật,
phải kết hợp xem xét kết quả tự phê bình và phê bình với kết quả thẩm tra, xác
minh của tổ chức đảng để bảo đảm kết luận dân chủ, khách quan, trung thực, đầy
đủ, chính xác. Cần làm rõ nguyên nhân, phân biệt sai lầm, khuyết điểm của đảng
viên do trình độ, năng lực hoặc động cơ vì lợi ích chung hay vì lợi ích cá
nhân, cục bộ mà cố ý làm trái; vi phạm nhất thời hay có hệ thống; đã được giáo
dục, nhắc nhở, ngăn chặn vẫn làm trái; ý thức tự phê bình và phê bình kém,
không tự giác nhận lỗi, không bồi hoàn vật chất kịp thời hoặc để kéo dài; có
hành vi đối phó, gây khó khăn, trở ngại cho việc kiểm tra; phân biệt đảng viên
khởi xướng, tổ chức, quyết định với đảng viên bị xúi giục, lôi kéo, đồng tình
làm sai.
4. Các hình thức
kỷ luật đảng viên vi phạm thực hiện theo đúng quy định của Điều lệ Đảng. Đối
với đảng viên chính thức: khiển trách, cảnh cáo, cách chức, khai trừ. Đối với
đảng viên dự bị: khiển trách, cảnh cáo.
Đảng viên vi
phạm đến mức khai trừ thì phải khai trừ, không áp dụng hình thức xóa tên; cấp
ủy viên vi phạm đến mức cách chức thì phải cách chức, không cho thôi giữ chức;
đảng viên dự bị vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật thì áp dụng hình thức
khiển trách hoặc cảnh cáo, không đủ tư cách thì xóa tên trong danh sách đảng
viên.
5. Đảng viên vi
phạm pháp luật đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì phải truy cứu
trách nhiệm hình sự, không “xử lý nội bộ”; bị tòa án tuyên phạt từ hình phạt
cải tạo không giam giữ trở lên thì phải khai trừ; nếu bị xử phạt bằng hình phạt
thấp hơn cải tạo không giam giữ hoặc được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự, bị
xử phạt hành chính thì tùy nội dung, mức độ, tính chất, tác hại và nguyên nhân
vi phạm mà xem xét, thi hành kỷ luật đảng một cách thích hợp.
6. Kỷ luật đảng
không thay thế kỷ luật hành chính, kỷ luật đoàn thể và các hình thức xử lý của
pháp luật. Đảng viên bị thi hành kỷ luật về Đảng thì cấp ủy quản lý đảng viên
đó phải kịp thời chỉ đạo tổ chức nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội có thẩm
quyền, trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày công bố quyết định kỳ luật về
Đảng, phải xem xét, xử lý kỷ luật về hành chính, đoàn thể (nếu có) theo quy
định của cơ quan nhà nước và điều lệ của đoàn thể.
Khi các cơ quan
nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội đình chỉ công tác, khởi
tố bị can hoặc thi hành kỷ luật đối với cán bộ, hội viên, đoàn viên là đảng
viên thì phải thông báo ngay bằng văn bản cho tổ chức đảng quản lý đảng viên đó
biết. Chậm nhất là 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo, tổ chức
đảng quản lý đảng viên phải xem xét, xử lý kỷ luật về Đảng.
7. Một nội dung
vi phạm chỉ bị xử lý kỷ luật một lần bằng một hình thức kỷ luật. Trong thời
điểm kiểm tra, xem xét xử lý vụ việc, nếu đảng viên có từ hai nội dung vi phạm
trở lên thì xem xét, kết luận từng nội dung vi phạm và quyết định chung bằng
một hình thức kỷ luật; không tách riêng từng nội dung vi phạm của đảng viên để
xử lý kỷ luật nhiều lần với các hình thức kỷ luật khác nhau.
8. Trong cùng
một vụ việc có nhiều đảng viên vi phạm thì mỗi đảng viên đều phải bị xử lý kỷ
luật về nội dung vi phạm của mình.
9. Cấp ủy, ban
thường vụ cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp, chi bộ có thẩm quyền thi hành kỷ
luật, khi quyết định kỳ luật oan, sai đối với đảng viên phải chủ động thay đổi
hoặc hủy bỏ quyết định đó; nếu tổ chức đảng đã quyết định kỳ luật đối với đảng
viên mà tổ chức đảng đó có vi phạm trong việc xem xét, xử lý kỷ luật đến mức
phải kỷ luật thì cấp ủy hoặc ủy ban kiểm tra cấp trên xem xét, quyết định.
10. Sau một năm, kể từ ngày có quyết định
kỳ luật hoặc quyết định giải quyết khiếu nại kỷ luật (trừ quyết định kỳ
luật khai trừ), nếu đảng viên không tái
phạm hoặc không có vi phạm mới đến mức phải xử lý kỷ luật thì quyết định kỳ
luật đương nhiên chấm dứt hiệu lực..........................
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét