Chủ Nhật, 19 tháng 2, 2012

KẾT LUẬN HỘI NGHỊ LẦN THỨ BA BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG KHÓA XI

Ảnh: TTXVN
-----------------
NỘI DUNG HỌC TẬP
Thực hiện Chương trình làm việc toàn khóa XI, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ ba đã họp từ ngày 6 đến ngày 10 tháng 10 năm 2011. Hội nghị tập trung thảo luận và cho ý kiến, thông qua các nội dung rất quan trọng là:
Thứ nhất, bàn và cho ý kiến về phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015.
Thứ hai, bàn và cho ý kiến về tình hình kinh tế - xã hội năm 2011 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012.
Thứ ba, bàn và xem xét, quyết định việc ban hành Quy định thi hành Ðiều lệ Ðảng.
Thứ tư, bàn và thông qua Hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Ðảng (trong Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng).
Thứ năm, bàn và xem xét, quyết định việc ban hành Quy định những điều đảng viên không được làm.
Ngoài ra, Hội nghị Trung ương 3 cũng thảo luận và cho ý kiến về các nội dung quan trọng khác.
Với tinh thần làm việc nghiêm túc, khẩn trương, Hội nghị lần thứ 3, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thông qua: "Kết luận về tình hình kinh tế - xã hội, tài chính - ngân sách nhà nước 5 năm 2006 - 2010 và năm 2011; kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tài chính - ngân sách nhà nước 5 năm 2011 – 2015 và năm 2012"; "Quy định về những điều đảng viên không được làm"; "Quy định thi hành Ðiều lệ Ðảng"; "Hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Ðảng (trong Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng)".
Trung ương đã thảo luận, cho ý kiến cụ thể về các dự thảo : Quy định thi hành Điều lệ Đảng; Hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong Chương VII, Chương VIII Điều lệ Đảng khoá XI và Quy định về những điều đảng viên không được làm. Ban Chấp hành Trung ương khẳng định việc ban hành ba văn kiện này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện Điều lệ Đảng, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, nâng cao trách nhiệm, tính gương mẫu và hiệu quả hoạt động của đảng viên, các cấp uỷ, tổ chức đảng cũng như nâng cao sức mạnh, sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng.
Trung ương đánh giá cao công tác chuẩn bị của Bộ Chính trị, cho rằng, ba văn kiện này được chuẩn bị công phu, nghiêm túc, kỹ lưỡng, đúng quy trình; bố cục hợp lý; nội dung thiết thực, có cơ sở thực tế, cơ bản đáp ứng được những yêu cầu mới trong thực tiễn công tác và sinh hoạt đảng. Một số vấn đề quan trọng của 3 văn kiện này, Ban Chấp hành Trung ương đã biểu quyết làm cơ sở để hoàn chỉnh, ban hành văn bản. Về Điều lệ Đảng (sửa đổi, bổ sung) do Đại hội XI của Đảng thông qua đã được cán bộ, đảng viên học tập, quán triệt trong đợt học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XI của Đảng; đồng thời, Trung ương sẽ có Hướng dẫn riêng về các văn bản này (do Ban Tổ chức Trung ương và Ủy ban Kiểm tra Trung ương thực hiện), trong đó sẽ có các quy định về tổ chức thực hiện và hình thức quán triệt riêng.

Chuyên đề 1

TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2006-2010 VÀ NĂM 2011

I.TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN HINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2006-2010.

1.Thành tựu
Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận, thống nhất cao với đánh giá của Ban cán sự đảng Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010. Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã phấn đấu vượt qua nhiều khó khăn, thách thức. Trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có rất nhiều khó khăn, thách thức, nhất là do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, các cấp, các ngành, các doanh nghiệp, nhân dân và toàn bộ hệ thống chính trị đã nỗ lực phấn đấu, đạt được những thành tựu quan trọng : Ứng phó có kết quả với những diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới và trong nước; cơ bản giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá (bình quân đạt 7,0%); GDP năm 2010 gấp 2 lần năm 2000; nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện, tỉ lệ hộ nghèo giảm nhanh; đã hoàn thành hầu hết mục tiêu Thiên niên kỷ cam kết với quốc tế, chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững; hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế được mở rộng, vị thế, uy tín nước ta được nâng cao; phát huy dân chủ có tiến bộ; khối đại đoàn kết toàn dân tiếp tục được củng cố... tạo môi trường hoà bình, ổn định cho phát triển đất nước.
2.Hạn chế, yếu kém
Ban Chấp hành Trung ương cũng phân tích, do những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và trong nước nên còn những hạn chế, yếu kém khiến những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. 
Một số chỉ tiêu, nhiệm vụ Đại hội X đề ra chưa đạt.
Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm.

Chế độ phân phối chưa thật hợp lý, phân hoá giàu nghèo tăng lên.
Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm yếu cản trở sự phát triển.
Công tác xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chuyển biến chậm. Còn tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội.
 Trung ương cũng xác định sõ các nguyên nhân nhưng chủ yếu vẫn là nguyên nhân chủ quan, như: chậm chuyển dịch cơ cấu lại nền kinh tế theo mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu; đổi mới doanh nghiệp nhà nước còn chậm; chính sách tiền tệ, tài khoá chưa thật sự hợp lý; công tác dự báo còn yếu; sự quản lý, điều hành của chính quyền các cấp còn nhiều bất cập...
II.TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2011
1.Thành tựu
Từ đầu năm 2011, tình hình trong nước và thế giới đã xuất hiện nhiều khó khăn, thách thức mới, song với sự nỗ lực to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong việc triển khai thực hiện Kết luận số 02 – KL/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 59/2011/QH12 của Quốc hội và Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ.
Ban Chấp hành Trung ương đánh giá cao công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ. Nhờ đó, kinh tế - xã hội đã đạt được một số kết quả bước đầu quan trọng. Tình hình kinh tế - xã hội 9 tháng đầu năm đã có những chuyển biến và đạt một số kết quả bước đầu. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cả năm 2011 ước đạt 5,8 - 6%, là mức tăng khá trong điều kiện phải tập trung kiềm chế lạm phát. Sản xuất nông nghiệp phát triển khá toàn diện, đạt mức kỷ lục về sản lượng lương thực và xuất khẩu gạo. Sản xuất công nghiệp tăng trưởng khá. Khu vực dịch vụ tiếp tục có bước phát triển. Chỉ số giá tiêu dùng có xu hướng giảm dần; thu ngân sách tăng cao; bội chi giảm; tốc độ tăng xuất khẩu gấp trên 3 lần so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra; nhập siêu giảm mạnh; thị trường ngoại tệ và tỉ giá ngoại tệ từng bước ổn định; dự trữ ngoại tệ tăng cao hơn nhiều so với đầu năm. Lao động, việc làm, thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, xoá đói, giảm nghèo có nhiều cố gắng và đạt kết quả tích cực.
Các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học – công nghệ, y tế, văn hoá – thông tin có tiến bộ.
An ninh - chính trị, trật tự - an toàn xã hội được giữ vững; quốc phòng được tăng cường, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.
14 trong số 22 chỉ tiêu đề ra cho kế hoạch năm 2011 có thể đạt và vượt kế hoạch. Những kết quả tích cực trên khẳng định các giải pháp, chính sách trong Kết luận 02-KL/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết 59/2011/QH12 của Quốc hội, Nghị quyết 11/2011/NQ-CP của Chính phủ là đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tế của đất nước, củng cố thêm niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước trước những khó khăn, thách thức hiện nay.

2.Hạn chế, yếu kém
Một số chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011 chưa hoàn thành, nhất là mục tiêu kiềm chế làm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Đến nay, nền kinh tế nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức; kinh tế vĩ mô chưa thật ổn định; lạm phát còn ở mức cao; dữ trữ ngoại tệ mỏng, áp lực đối với tỷ giá còn lớn; thanh khoản của một số ngân hàng thương mại còn yếu.
Thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản giảm sút, tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn.
Việc triển khai thực hiện chủ trương của Đại hội XI về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế còn chậm.
Đời sống của nhân dân, nhất là người nghèo, các đối tượng chính sách xã hội, người lao động ở các đô thị, khu công nghiệp, vùng miền núi, biên giới, hải đảo, đồng bào dân tộc thiểu số gặp nhiều khó khăn.
Lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, thể thao còn nhiều bất cập.
Tai nạn và ùn tắc giao thông chưa giảm; khiếu kiện đông người, đình công xảy ra ở nhiều nơi; số vụ tội phạm, tệ nạn xã hội gia tăng.
Công tác quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn hạn chế, yếu kếm trên một số mặt.
Tình hình trên có nguyên nhân khách quan là do tác động của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu; nguyên nhân chủ quan là do yếu kém của nội tại nền kinh tế với mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế lạc hậu, kém hiệu quả, tích tụ, kéo dài từ lâu, chậm được khắc phục và do những hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lỹ, điều hành của các cấp, các ngành; đắc biệt là trong điều hành chính sách tiền tệ, tài khoá; quản lý quy hoạch, đầu tư, đất đai, tài nguyên; quản lý thị trường...

Chuyên đề 2

QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2011 – 2015 VÀ NĂM 2020

I. BỐI CẢNH, QUAN ĐIỂM
1. Bối cảnh
1.1.Thuận lợi
Bước vào năm 2012 và kế hoạch 5 năm 2011 – 2015, nước ta có những thuận lợi cơ bản sau:
Những thành tựu to lớn của 20 năm đổi mới, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 và kế hoạch 5 năm 2006-2010.
Những tiềm năng, lợi thế của một nước đi sau, đang trong quá trình công nghiệp hoá với nền nông nghiệp giàu tiềm năng sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản.
Có điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài và thị trường tiêu thụ nội địa phát triển nhanh…
1.2. Khó khăn
Dự báo về tình hình năm 2012 và một số năm tiếp theo, tình hình khủng hoảng nợ công và lạm phát tăng cao ở nhiều nước không chỉ làm chậm quá trình phục hồi kinh tế thề giới trong năm 2011 mà còn tiếp tục gây khó khăn, thậm chí có nguy cơ đẩy kinh tế thế giới vào tình trạng suy thoái mới. Do vậy, năm 2012 vẫn là năm có nhiều khó khăn, thách thức đối với nền kinh tế nước ta, nhất là trước yêu cầu khắc phục những yếu kém của nền kinh tế và đổi mới, phát triển ở tầm cao mới, chiến lược mới.
2. Quan điểm
- Xử lý thật tốt các mối quan hệ mà Đại hội XI của Đảng đã nêu ra, đặc biệt phải nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát triển; giữa tăng trưởng cao và ổn định kinh tế vĩ mô; giữa kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội; giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng an ninh.
- Phát huy tốt hơn nữa vai trò của Nhà nước trong kiến tạo, điều tiết sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên cơ sở tôn trọng, vận dụng đầy đủ, đúng đắn các quy luật, nguyên tắc của kinh tế thị trường, xem nhu cầu thị trường, cơ chế thị trường và hiệu quả, lợi ích là căn cứ chính để quyết định việc phân bổ các nguồn lực cho phát triển; đồng thời có biện pháp tích cực ngăn ngừa và khắc phục những hạn chế, mặt trái của cơ chế thị trường.
- Trong năm 2012 và những năm tiếp theo, tiếp tục thực hiện Kết luận số 02-KL/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ ưu tiên hàng đầu cho việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho tăng trưởng cao hơn ở những năm cuối của kế hoạch 5 năm.
- Trong quản lý, điều hành chú ý:
+ Trong tình hình kinh tế thế giới biến động nhanh và khó lường, vì vậy việc điều hành thực hiện phải sát với thực tế và linh hoạt.
+ Giữ mục tiêu, chỉ tiêu tổng quát theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.
+ Phấn đấu để đạt kết quả toàn diện, song tuỳ tình hình mà xếp thứ tự ưu tiên sao cho hợp lý nhất.
+ Để ứng phó với tình hình trong nước, thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, cần nâng cao năng lực phân tích, dự báo.
+ Ưu tiên huy động và phân bổ nguồn lực bảo đảm thực hiện thành công ba khâu đột phá chiến lược mà Đại hội XI đã xác định; chú trọng phát triển nông nghiệp, nông thôn; phát triển văn hoá - xã hội, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học -  công nghệ và chủ động ứng phó với thiên tai, dịch bệnh, nước biển dâng do biến đổi khí hậu toàn cầu.
II.MỤC TIÊU, CHỈ TIÊU
1.Mục tiêu
- Mục tiêu tổng quát của 5 năm 2011-2015: Phát triển kinh tế nhanh, bền vững, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh. Bảo đảm phúc lợi xã hội và an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tăng cường hoạt động đối ngoại và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và trật tự, an toàn xã hội, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
- Mục tiêu của năm 2012: Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình thế giới, trong nước và căn cứ Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương xác định mục tiêu tổng quát của năm 2012 là: Ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo đảm phúc lợi xã hội và an sinh xã hội, cải thiện đời sống nhân dân; giữ vững ổn định chính trị; củng cố quốc phòng; bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.
2. Một số chỉ tiêu chủ yếu
2.1. Chỉ tiêu của 5 năm 2011-2015
Trên cơ sở mục tiêu tổng quát và để phù hợp với tình hình thực tế, định hướng các chỉ tiêu chủ yếu như sau:
- Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm 2011-2015 khoảng 6,5-7%/năm.
- Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng đến năm 2015 giảm còn khoảng 5-7%.
- Bội chi ngân sách nhà nước dưới 4,5% GDP; nợ công dưới 65% GDP; nhập siêu khoảng 10% kim ngạch xuất khẩu.
- Hàng năm, Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định phương án tăng trưởng cụ thể với một số chỉ tiêu chủ yếu tương ứng về tốc độ tăng trưởng, mức lạm phát, bội chi ngân sách, nợ công, nhập siêu, dự trữ ngoại tệ…
2.2. Chỉ tiêu của năm 2012
- Tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 6-6,5%.
- Chỉ số giá tiêu dùng tăng dưới 10%.
- Bội chi ngân sách nhà nước dưới 4,8% GDP, nhập siêu 11-12% kim ngách xuất khẩu.
- Trong mọi trường hợp, phải cố gắng bảo đảm thực hiện các mục tiêu xã hội như: tạo việc làm, nâng cao đời sống nhân dân, giảm tỷ lệ hộ nghèo, bảo đảm an sinh xã hội…
III, GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2011-2015 VÀ NĂM 2012
1.Về định hướng chung
Trung ương đã thảo luận, thống nhất : Trong điều kiện kinh tế thế giới biến động nhanh và khó lường, công tác điều hành thực hiện kế hoạch 5 năm 2011 - 2015 phải sát thực tế và linh hoạt, giữ mục tiêu tổng quát theo Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã xác định.
Tất cả các chính sách, biện pháp phải tập trung phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, khẩn trương khắc phục những nguyên nhân gây trở ngại cho sự phát triển bền vững, nhất là nguyên nhân chủ quan, do lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành. Trong năm 2012, cần tiếp tục thực hiện tốt hơn các mục tiêu, chính sách và biện pháp nêu trong Kết luận số 02-KL/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ. Trước hết, thực hiện chính sách tiền tệ, tài khoá đồng bộ, chặt chẽ; thực hiện nghiêm việc cắt giảm và quản lý tốt đầu tư công; tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh hỗ trợ có chọn lọc cho những ngành, lĩnh vực quan trọng và các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, có lợi thế cạnh tranh.
Trong 5 năm tới, cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện tốt 11 nhóm nhiệm vụ và giải pháp, đặc biệt là các định hướng giải pháp nhằm đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế.
1. Ưu tiên kiềm chế làm phát, ổn định kinh tế vĩ mô bảo đảm cho nền kinh tế phát triển bền vững.
2. Tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh.
3. Phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế nông, lâm nghiệp, thuỷ sản; phát triển công nghiệp, xây dựng; phát triển các ngành dịch vụ.
4. Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực; phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế trí thức.
5. Chăm lo phát triển văn hóa, thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển.
6. Bảo vệ và cải thiện mội trường, chủ động phòng tránh thiên tai, ứng phó có hiệu quả với tình trạng biến đổi khí hậu.
7. Phát triển hài hòa, bền vững các vùng, xây dựng đô thị và nông thôn mới.
8. Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, từng bước xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại
9. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
10. Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; mở rộng, nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
11. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
2. Hệ thống các giải pháp chủ yếu
2.1. Đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh
Cơ cấu lại nền kinh tế phải gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; phải được thực hiện đồng bộ tất cả các ngành, các lĩnh vực trên phạm vi cả nước và từng địa phương, đơn vị, cơ sở trong nhiều năm.
Trong 5 năm tới, cần tập trung vào 3 lĩnh vực quan trọng nhất: tái cơ cấu đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính; tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước.
a) Về tái cấu trúc đầu tư với trọng tâm là đầu tư công
Cần tiếp tục đổi mới tư duy và phương pháp xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm và 5 năm để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả nhất, theo thứ tự ưu tiên hợp lý nhất các nguồn lực của Nhà nước và xã hội, nội lực và ngoại lực cho đầu tư phát triển theo quy hoạch. Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách đầu tư phải có tầm nhìn xa, không bị “tư duy nhiệm kỳ”, tư tưởng cục bộ, bệnh thành tích, chủ quan duy ý chí hay “lợi ích nhóm” chi phối.
Quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm và 5 năm 2011-2015 phải cụ thể hoá được những mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ do Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020 đề ra và gắn kết chặt chẽ với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực và vùng lãnh thổ phù hợp với tình hình đất nước và thế giới trong từng thời kỳ. Trên cơ sở đó, cần khẩn trương soát xét, điều chỉnh pháp luật đối với chính sách, cơ chế quản lý đầu tư nói chung và đầu tư công nói riêng, đặc biệt là vấn đề phân cấp quản lý nhà nước về thu chi ngân sách và đầu tư.
Khẩn trương xác định các tiêu chí và thứ tự ưu tiên làm căn cứ để phê duyệt hay từ chối hoặc cắt giảm các dự án đầu tư, nhất là dự án đầu tư công. Khắc phục tình trạng phất triển quá nhiều các khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khai thác quá mức tài nguyên, khoáng sản; tình trạng phê duyệt quá nhiều dự án vượt  khả năng nguồn lực hiện có, kế hoạch đầu tư bị cắt khúc ra nhiều năm, dẫn đến đầu tư dàn trải, kéo dài thời gian thi công, nợ xây dựng cơ bản lớn, gây lãng phí, thất thoát, hiệu quả thấp.
Nội dung của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phải tính toán đầy đủ đến kế hoạch huy động vốn, phát triển nguồn nhân lực và khoa học – công nghệ; đồng thời, phải bao gồm đồng bộ các chính sách, biện pháp cụ thể, có tính khả thi,bảo đảm thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.
b) Cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính
Cần đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường tiền tệ, đặc biệt là thị trường vàng và ngoại tệ, khắc phục tình trạng đôla hóa; kiểm soát chặt chẽ nợ công, nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước, vay trả nợ nước ngoài, các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nhất là đầu tư vào lĩnh vực bất động sản, thị trường chứng khoán và các nguồn vốn khác.
Từng bức giảm tỷ lệ cung cấp vốn cho đầu tưu phát triển từ hệ thống ngân hàng thương mại; nâng cao chất lượng các hoạt động dịch vụ ngân hàng. Cấu trúc lại hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính theo hướng giảm số lượng; giảm nhanh số lượng ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính yếu kém; sáp nhập, hợp nhất các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính nhỏ… để có số lượng phù hợp các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính có quy mô và uy tín, hoạt động lành mạnh, bảo đảm tính thanh khoản và an toàn hệ thống.
c) Tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước, trung tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước
Phải quán triệt thực hiện nghiêm túc các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước đã được xác định trong các nghị quyết của Đảng.
Kiên quyết chấm dứt tình trạng các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đầu tư dàn trải ra ngoài ngành, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính trước năm 2015.
Tập trung phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những ngành, lĩnh vực quan trọng có ý nghĩa then chốt của nền kinh tế quốc dân, chủ yếu thuộc các chuyên ngành kinh tế, kỹ thuật liên quan đến kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, dịch vụ công, ổn định kinh tế vĩ mô.
Hoàn thiện thể chế quản lý doanh nghiệp nhà nước, thực hiện quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nước đối với vốn và tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp, đảm bảo công khai, minh bạch về tài chính.
Đổi mới quản trị và cơ chế hoạt động của doanh nghiệp nhà nước theo hướng chuyển sang tổ chức và hoạt động theo mô hình công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn phù hợp với quy định của Luật doanh nghiệp, cạnh tranh bình đẳng trên thị trường. Đối với mỗi tập đoàn, tổng công ty nhà nước, cần xây dựng đề án tái cấu trúc và phương án nhân sự lãnh đạo chủ chốt phù hợp, có tình đến việc thuê tổng giám đốc là người nước ngoài trong trường hợp thực sự cần thiết và có hiệu quả.
2.2. Các định hướng chính sách, biện pháp bảo đảm an ninh lương thực gắn với bảo vệ môi trường sinh thái và đảm bảo an ninh năng lượng.
Trong suốt quá trình phát triển, phải luôn quan tâm thực hiện các định hướng chính sách, biện pháp bảo đảm an ninh lương thực gắn với bảo vệ môi trường sinh thái và đảm bảo an ninh năng lượng.
Để đảm bảo an ninh lương thực gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, cần tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khoáX) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; kiên quyết giữ 3,8 triệu hécta đất trồng lúa, có chính sách điều tiết ngân sách hợp lý đối với vùng đồng bằng, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long để các vùng này chuyên tâm sản xuất, chế biến lúa gạo và các hàng nông sản, thực phẩm khác, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Tập trung ưu tiên phát triển nông nghiệp công nghệ cao, quy mô lớn, chất lượng cao đối với một số sản phẩm có lợi thế nhằm hình thành các vùng chuyên can. Đồng thời, chủ động, tích cực chuẩn bị đối phó có hiệu quả với nguy cơ nước biển dâng và thiên tai, dịch bệnh do tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu; tăng cường các chính sách, biện pháp bảo vệ tài nguyên, môi trường, nhất là chính sách trồng và bảo vệ rừng, khai thác và sử dụng tài nguyên nước.
Chấm dứt tình trạng khai thác quá đáng, làm cạn kiệt tài nguyên, gây hại cho môi trường. Kiểm soát chặt chẽ việc xử lý chất thải công nghiệp, đáp ứng tiêu chuẩn bảo vệ môi trường.
Bảo đảm an ninh năng lượng trên cơ sở đẩy mạnh hoạt động mọi nguồn lực phát triển nguồn cung theo đúng sơ đồ tổng thể quy hoạch phát triển hệ thống điện lực Việt Nam và chiến lược phát triển ngành dầu khí, ngành than đến năm 2020; đồng thời kiểm soát có hiệu quả các nhu cầu sử dụng năng lượng, tăng cường các biện pháp tiết kiệm điện gắn với lộ trình chuyển sang áp dụng thị trường đối với điện, than và xăng dầu.
2.3. Áp dụng đồng bộ các chính sách, biện pháp phát triển kinh tế gắn với phát triển văn hóa - xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Đi đôi với phát triển kinh tế, cần quan tâm đến thực hiện các mục tiêu xã hội
Áp dụng đồng bộ các chính sách, biện pháp phát triển kinh tế gắn với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; chú trọng bảo đảm an sinh xã hội, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, tạo việc làm, nâng cao thu nhập, xóa đói, giảm nghèo, giảm chênh lệch giàu nghèo, giải quyết các bức xúc của nhân dân.
Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, quan tâm đến nhân lực lãnh đạo, quản lý, quản trị doanh nghiệp, khoa học - công nghệ, văn hóa, nghệ thuật; nâng cao chất lượng giáo dục, nhất là bậc đại học; tập trung chuyển từ đào tạo chiều rộng sang chiều sâu, quan tâm đặc biệt đến đào tạo nghề; điều chỉnh chính sách về giáo dục mầm non, giáo dục miền núi; làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục để đảm bảo nhu cầu học tập của các đối tượng, nhất là giáo dục mầm non.
Đẩy mạnh đầu tư phát triển mạnh mẽ khoa học - công nghệ, đổi mới căn bản cơ chế quản lý khoa học - công nghệ, phát triển kinh tế tri thức; quan tâm phát triển mạnh mẽ công tác nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ, gắn khoa học - công nghệ với sản xuất trong tất cả các ngành và lĩnh vực; phát triển mạnh thị trường khoa học, công nghệ.
Có chính sách tạo đột phá giảm nghèo bền vững, tạo môi trường thuận lợi cho ngườì nghèo phát huy nội lực vươn lên thoát nghèo; huy động các nguồn lực xã hội cho công tác giảm nghèo; có giải pháp nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc.
Củng cố và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, đa dạng, tăng cường hiệu quả hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa ở các cấp; đồng thời cải tạo, nâng cấp và đầu tư xây dựng mới một số công trình văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao hiện đại.
2.4. Các giải pháp về chính trị - xã hội
Quan tâm củng cố an ninh, quốc phòng, đối ngoại vững mạnh, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; không ngừng nâng cao vị trí, uy tín đất nước trên trường quốc tế.
Giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, do đó, cần tập trung giải quyết những vấn đề gây bức xúc trong nhân dân, nhất là trong việc giải tỏa, đền bù, thu hồi đất và những tiêu cực trong giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân; củng cố niềm tin trong nhân dân.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp; tăng cường hơn nữa việc đảm bảo thực thi nghiêm chỉnh pháp luật, xử lý nghiêm và kịp thời những sai phạm; khẩn trương bổ sung những văn bản pháp luật mới để từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa; tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy Chính phủ và chính quyền các cấp, sớm thực hiện thí điểm mô hình chính quyền đo thị nhất là ở những thành phố lớn; siết chặt trật tự, kỷ cương, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; đẩy lùi tệ nạn, tiêu cực, tai nạn giao thông, phòng, chống các loại tội phạm.

(Theo tài liệu của Ban Tuyên giáo Trung ương)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét