ĐỀ CƯƠNG BÀI THU HOẠCH HỌC TẬP QUÁN TRIỆT NQ TW7
Nội
dung bài thu hoạch cần trình bày ngắn
gọn, tập trung thể
hiện nhận thức cá nhân về thực trạng (thành
tựu, hạn chế và nguyên nhân), những điểm mới, quan điểm, mục tiêu, giải
pháp trong các nghị quyết của Trung ương 7 (khóa XII) của Đảng; liên hệ với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị và cá
nhân. Chú trọng đề xuất, kiến nghị về các biện pháp thực hiện tại đơn vị, doanh nghiệp và trách nhiệm cụ thể của cá nhân. Việc
tham gia học tập, quán triệt nghị quyết và viết thu hoạch cá nhân là một căn cứ
đánh giá, phân loại, bình xét thi đua cuối năm của các đơn vị.
----------------
Thực hiện Chương
trình làm việc toàn khóa, từ ngày 7/5 đến ngày 12/5/2018, tại Thủ đô Hà Nội,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 7 khóa XII. Hội nghị đã
thông qua 3 Nghị quyết quan trọng về công tác cán bộ, cải cách chính sách tiền
lương và cải cách chính sách bảo hiểm xã hội.
Ngày 19/5/2018,
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội nghị lần
thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ
các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm
nhiệm vụ. Trong đó, Trung ương xác định 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp, 2
trọng tâm và 5 đột phá.
Mục tiêu tổng
quát xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược có phẩm chất, năng
lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đủ về số lượng, có chất lượng và cơ cấu phù hợp
với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm sự chuyển
tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ, đủ sức lãnh đạo đưa nước ta trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trở
thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, ngày càng phồn vinh, hạnh
phúc.
Tiếp đó, ngày
21/5/2018, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW Hội
nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII về cải cách chính sách tiền lương
đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động
trong doanh nghiệp, trong đó nêu rõ 7 nhiệm vụ giải pháp chủ yếu để thực
hiện.
Mục tiêu đặt ra
là xây dựng hệ thống chính sách tiền lương quốc gia một cách khoa học, minh bạch,
phù hợp với tình hình thực tiễn đất nước, đáp ứng yêu cầu phát triển của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập quốc tế,
xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ; tạo động lực giải phóng
sức sản xuất, nâng cao năng suất lao động, chất lượng nguồn nhân lực; góp phần
xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả;
phòng, chống tham nhũng, lãng phí; bảo đảm đời sống của người hưởng lương và
gia đình người hưởng lương, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Ngày 23/5/2018,
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW Hội nghị lần
thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội.
Nghị quyết về cải
cách chính sách bảo hiểm xã hội hướng đến mục tiêu để bảo hiểm xã hội thực sự
là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, từng bước mở rộng vững chắc
diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân.
Phát triển hệ thống
bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại và hội nhập quốc tế theo
nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững. Nâng cao
năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và phát triển hệ thống thực hiện
chính sách bảo hiểm xã hội tinh gọn, chuyên nghiệp, hiện đại, tin cậy và minh bạch.
Trong các Nghị quyết, Nghị quyết số 26- NQ/TW về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp,
nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng.
Đây là một trong
những Nghị quyết rất quan trọng nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Nghị quyết số 26- NQ/TW có một số điểm mới sau đây:
Một là, về quan điểm, Nghị quyết lần
này khẳng định rõ cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Công
tác cán bộ là khâu then chốt của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.
Mặc dù quan điểm này đã được Đảng ta nhiều lần đề cập, song trong bối cảnh hiện
nay khi công tác cán bộ nhiều nơi còn đơn giản, có xu hướng khoán trắng cho
ngành tổ chức xây dựng Đảng thì vấn đề này lại hết sức thời sự. Một điểm mới được
xác định trong Nghị quyết là đặt việc xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược trở
thành một trọng tâm trong công tác cán bộ, là vấn đề hệ trọng của Đảng, phải tiến
hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng
đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững. Như vậy, công tác
cán bộ không thể tiến hành theo phong trào mà phải làm thường xuyên, liên tục một
cách khoa học. Tiếp cận công tác cán bộ trên quan điểm hiệu quả cũng là vấn đề
mới được đặt ra trong Nghị quyết lần này. Từ góc độ hiệu quả cho thấy cần đánh
giá cán bộ bằng sản phẩm cụ thể. Đánh giá cán bộ vì thế trở thành khâu đột phá
trong công tác cán bộ.
Nghị quyết cũng
bổ sung quan điểm mới, đó là xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp,
toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị.
Chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo môi trường, cơ chế và điều
kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm vì lợi
ích chung; phân công, phân cấp gắn với giao quyền, ràng buộc trách nhiệm, đồng
thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và xử lý nghiêm minh
sai phạm. Điểm mới nổi bật của quan điểm này là nhận diện và xác định cách thức
giải quyết hai mối quan hệ giữa chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương với xây
dựng thể chế, tạo môi trường thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo của cán bộ; giữa
phân cấp, phân quyền với kiểm tra, giám sát, ràng buộc quyền hạn với trách nhiệm,
kiểm soát quyền lực, xử lý nghiêm sai phạm. Trong đó, cơ chế bảo vệ cán bộ dám
nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung là một điểm thể hiện tinh thần đổi
mới mạnh mẽ của Trung ương lần này.
Hai là, về mục tiêu, Nghị quyết
Trung ương 7 về công tác cán bộ đã xác định rõ mục tiêu chung là xây dựng đội
ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược trong thời gian tới phải có đủ phẩm
chất, năng lực và uy tín, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới - thời kỳ
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động, tích cực
hội nhập quốc tế, thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nền kinh
tế số, kinh tế tri thức và ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Đồng
thời, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ trong bối cảnh tình hình trong nước, khu vực và thế giới
diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Nghị quyết cũng xác định mục tiêu
và tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ trong từng lĩnh vực cho từng giai đoạn.
Trong đó, có những chỉ tiêu rất mới như: đến năm 2030, đối với cán bộ cấp chiến
lược, yêu cầu phải thực sự tiêu biểu về chính trị, tư tưởng, phẩm chất, năng lực
và uy tín; trên 15% dưới 45 tuổi; từ 40 - 50% đủ khả năng làm việc trong môi
trường quốc tế. Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý ở địa phương: Từ 15 - 20% cán
bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh dưới 40 tuổi, từ 25 - 35% đủ khả năng làm việc
trong môi trường quốc tế; từ 20 - 25% cán bộ lãnh đạo chủ chốt và ủy viên ban
thường vụ cấp ủy cấp huyện dưới 40 tuổi. Đối với cán bộ chuyên trách cấp xã:
100% có trình độ cao đẳng, đại học và được chuẩn hóa về lý luận chính trị,
chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng công tác... Đối với cán bộ quản lý doanh nghiệp
nhà nước: Nâng cao tính Đảng và ý thức tuân thủ pháp luật; sản xuất, kinh doanh
hiệu quả; từ 70 - 80% có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Phải
có cán bộ nữ trong cơ cấu ban thường vụ cấp ủy và tổ chức đảng các cấp. Tỷ lệ nữ
cấp ủy viên các cấp đạt từ 20 - 25%; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND
các cấp đạt trên 35%. Ở những địa bàn có đồng bào dân tộc thiểu số, phải có cán
bộ lãnh đạo là người dân tộc thiểu số phù hợp với cơ cấu dân cư…
Ba là, về nhiệm vụ và giải pháp,
Nghị quyết nhấn mạnh đến việc nâng cao nhận thức, tăng cường giáo dục chính trị,
tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên; Tiếp tục đổi mới, nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ; Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến
lược ngang tầm nhiệm vụ; Kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ; Chống
chạy chức, chạy quyền; Phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ
cán bộ và nâng cao chất lượng công tác tham mưu, coi trọng tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận về công tác tổ chức, cán bộ. Trong đó có những điểm nhấn rất
mới như: Trung ương yêu cầu phải có phương pháp đánh giá cán bộ một cách khách
quan, chính xác; có cơ chế tạo động lực, đổi mới sáng tạo, rèn luyện qua thực
tiễn có nhiều khó khăn, thách thức lớn của đội ngũ cán bộ và đề cao giải pháp
kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền, chủ nghĩa cá nhân, cục bộ địa
phương, họ hàng trong công tác cán bộ; Coi đây là một trong những nhiệm vụ, giải
pháp quan trọng để đấu tranh ngăn chặn sự tha hóa quyền lực trong bộ máy công
quyền, sự suy thoái, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên để củng cố và
nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta.
Một
điểm mới nữa, Nghị quyết lần này xác định rõ 2 trọng tâm và 5 đột phá trong
công tác cán bộ.
Hai trọng tâm là: Tiếp tục đổi mới mạnh
mẽ, toàn diện, đồng bộ, hiệu quả công tác cán bộ; chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật,
kỷ cương đi đôi với tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo phục
vụ phát triển và có cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu
trách nhiệm vì lợi ích chung. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược
và bí thư cấp ủy, người đứng đầu các cấp đi đôi với phân cấp, phân quyền nhằm
phát huy tính chủ động, sáng tạo, đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm
soát chặt chẽ quyền lực.
Năm đột phá là: Đổi mới công tác đánh
giá cán bộ theo hướng: Xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí, bằng sản
phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương
đương. Kiểm soát chặt chẽ quyền lực, sàng lọc kỹ càng, thay thế kịp thời; chấm
dứt tình trạng chạy chức, chạy quyền. Thực hiện nhất quán chủ trương bố trí bí
thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương ở những nơi đủ điều kiện.
Cải cách chính sách tiền lương và nhà ở để tạo động lực cho cán bộ phấn đấu,
toàn tâm, toàn ý với công việc; có cơ chế, chính sách để tạo cạnh tranh bình đẳng,
lành mạnh và thu hút, trọng dụng nhân tài. Hoàn thiện cơ chế để cán bộ, đảng
viên thật sự gắn bó mật thiết với nhân dân và phát huy vai trò của nhân dân
tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ.
Trên đây là những
điểm mới của Nghị quyết Trung ương 7 (khoá XII) so với Nghị quyết Trung ương 3
(khóa VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Liên hệ với tình hình thực tiễn tại đơn vị
và những giải pháp cơ bản để thực hiện Nghị quyết:
1. Đặc
điểm tình hình Công ty
2. Nội
dung giải pháp về công tác cán bộ tại Chi bộ công ty
3. Đề
xuất với cấp ủy cấp trên (nếu có)