TÀI
LIỆU BỒI DƯỠNG CẤP ỦY
BÍ
THƯ CHI BỘ
-----------------------
NỘI
DUNG CƠ BẢN CỦA CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO
(Theo
tài liệu của Ban Tuyên giáo Trung ương)
Để
giúp cấp ủy cơ sở, bí thư chi bộ và các đồng chí báo cáo viên làm nhiệm vụ công
tác xây dựng Đảng, chúng tôi xin giới thiệu một số nội dung cơ bản của công tác
tuyên giáo ở cơ sở gồm 3 chuyên đề như sau:
Công
tác tư tưởng ở cơ sở;
Công
tác giáo dục lý luận chính trị và giáo dục truyền thống cách mạng ở cơ sở;
Công
tác tuyên truyền cổ động ở cơ sở.
---------------------------
Chuyên
đề 1
CÔNG
TÁC TƯ TƯỞNG Ở CƠ SỞ
Công tác tuyên giáo
là cụm từ chỉ các hoạt động tham mưu, chỉ đạo, kiểm tra của tổ chức đảng về
lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và khoa giáo.
Công
tác tuyên giáo được tiến hành tại tất cả các cấp, các ngành, các địa phương, cơ
quan, đơn vị, trường học, lực lượng vũ trang…, trong đó công tác tuyên giáo ở
cơ sở có vai trò đặc biệt quan trọng bởi vai trò nền tảng của cơ sở trong hệ
thống chính trị nước ta.
Trong
chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ công tác tuyên giáo ở cơ sở, có 3 chuyên đề,
đề cập đến 3 lĩnh vực: tư tưởng, văn hoá và khoa giáo ở cơ sở. Chuyên đề
này đề cập đến công tác tư tưởng ở cơ sở.
1. Khái niệm
Công
tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một
chính đảng, nhằm hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp
trong quần chúng, thúc đẩy quần chúng đi tới hành động.
Công
tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận cấu thành rất quan trọng
trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, là hoạt động truyền bá và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm xây dựng thế giới quan
khoa học, nhân sinh quan cộng sản, giá trị đạo đức đúng đắn. Công tác tư tưởng
góp phần tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân,
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy tính chủ động sáng tạo của
các tầng lớp nhân dân, thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội. “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Công tác tư tưởng ở cơ sở là một mặt công tác chủ yếu của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể cơ sở, nhằm tác động vào đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân ở cơ sở, củng cố nền tảng tư tưởng, động viên, cổ vũ tính tích cực, sáng tạo của nhân dân trên địa bàn hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị của cơ sở, góp phần vào thắng lợi chung của đất nước.
2. Vị trí, vai trò của công
tác tư tưởng ở cơ sở
a. Vị trí
Công tác tư tưởng ở cơ sở là một bộ phận hợp
thành trong hoạt động lãnh đạo của tổ chức đảng, một mặt công tác trọng yếu của
chính quyền và các tổ chức, đoàn thể trong hệ thống chính trị ở cơ sở.
Công tác tư tưởng ở cơ sở có
vị trí và ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc giữ vững và tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa ở cơ sở; xây
dựng cơ sở vững mạnh, toàn diện.
b. Vai trò
- Công tác tư tưởng ở cơ sở trước hết nhằm
xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, có sức chiến đấu cao và
không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở
cơ sở.
- Công tác tư tưởng ở cơ sở
có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc đưa đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với mỗi người dân; khơi dậy và phát huy
tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, tính chủ động, sáng tạo của quần
chúng nhằm biến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thành hiện thực,
thành phong trào hành động cách mạng của quần chúng.
- Công tác tư tưởng ở cơ sở có vai trò quan
trọng trong việc tạo nên sự thống nhất cao trong tổ chức đảng, sự đồng thuận
trong xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa
ở cơ sở.
3. Nội dung công tác tư
tưởng ở cơ sở
Nội dung công tác tư tưởng ở
cơ sở gồm các mặt công tác sau:
- Công tác giáo dục lý luận
chính trị, giáo dục truyền thống cách mạng. Đây là nội dung quan trọng hàng đầu, nhằm bồi
dưỡng, nâng cao nhận thức lý luận chính trị, lòng yêu nước, yêu quê hương, tình
cảm cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ở cơ sở, thông qua việc tổ chức
nghiên cứu, học tập, quán triệt nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, lịch sử, truyền thống đấu tranh cách mạng của đảng bộ và
nhân dân địa phương. Công tác giáo dục lý luận chính trị tạo nên sự nhất trí,
tin tưởng và quyết tâm thực hiện thắng lợi các chương trình, kế hoạch phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
- Công tác tuyên truyền nhằm phổ biến, truyền bá
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kiến thức
khoa học, kỹ thuật, công nghệ phục vụ sản xuất, đời sống, thông tin kịp thời
tình hình thời sự, chính trị…, định hướng tư tưởng trước các sự kiện tác động
đến tư tưởng, tình cảm, tâm trạng của quần chúng ở cơ sở.
- Công tác cổ động, nêu gương tốt, điển hình
tiên tiến nhằm cổ vũ hành động của quần chúng nhân dân, biến nhận thức tư tưởng
thành niềm tin, hành động cách mạng cụ thể, thành phong trào quần chúng rộng
rãi…
- Công tác văn hóa, văn nghệ
nhằm thỏa
mãn nhu cầu tinh thần của nhân dân, qua đó giáo dục đạo đức, lối sống, phát huy
truyền thống cách mạng, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.
- Công tác nắm bắt tình hình
tư tưởng, dư
luận xã hội và định hướng tư tưởng, dư luận xã hội ở cơ sở…
- Công tác đấu tranh tư
tưởng, phê
phán các quan điểm sai trái, thù địch, tin đồn và tài liệu xấu lan truyền, phát
tán tại cơ sở.
Ngoài các nội dung cơ bản
trên, công tác tư tưởng ở cơ sở còn có các nội dung khác như giáo dục thẩm mỹ,
giáo dục thể lực, giáo dục về sinh thái, môi trường… qua các hoạt động trong
lĩnh vực khoa giáo.
4. Nguyên tắc, phương châm
công tác tư tưởng ở cơ sở
a. Nguyên tắc công tác tư
tưởng
- Nguyên tắc tính đảng
Tính đảng là nguyên tắc cơ
bản nhất của công tác tư tưởng. Công tác tư tưởng phải đứng vững trên lập
trường của giai cấp công nhân, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng; chủ động đấu tranh không
khoan nhượng với những tư tưởng thù địch, phản khoa học, đi ngược lại với lợi
ích giai cấp, lợi ích dân tộc.
Công tác tư tưởng ở cơ sở là
một bộ phận trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp,
toàn diện của cấp ủy đảng, phục vụ kịp thời công tác lãnh đạo của cấp ủy, quản
lý của chính quyền; góp phần xây dựng cơ sở vững mạnh, toàn diện.
- Nguyên tắc tính khoa học
Công tác tư tưởng được tiến hành trên cơ sở
khoa học, tuân theo các quy luật vận động, biến đổi của lĩnh vực tư tưởng.
Nguyên tắc tính khoa học yêu cầu công tác tư tưởng được tiến hành có kế hoạch,
nội dung và hình thức phù hợp với từng đối tượng, đáp ứng nhu cầu giải đáp
vướng mắc và định hướng tư tưởng cho mọi đối tượng. Công tác tư tưởng phải sử
dụng các phương tiện tác động ngày càng hiện đại.
- Nguyên tắc thống nhất giữa
lý luận với thực tiễn
Công tác tư tưởng phải xuất
phát từ thực tiễn và phục vụ thực tiễn; đồng thời phải được soi sáng, định
hướng bằng lý luận, được chỉ đạo, tổ chức thực hiện một cách khoa học. Tổng kết
thực tiễn là nhiệm vụ và phương thức căn bản để thực hiện sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong công tác tư tưởng, khắc phục chủ nghĩa giáo điều và chủ
nghĩa kinh nghiệm.
Thực hiện đúng đắn và đầy đủ
những nguyên tắc trên là yêu cầu chung của công tác tư tưởng của Đảng, có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư
tưởng của Đảng nói chung và ở cơ sở nói riêng.
b. Phương châm công tác tư
tưởng ở cơ sở
Phương châm công tác tư
tưởng của Đảng là những định hướng có tính chỉ đạo trong hoạt động công tác tư
tưởng ở các cấp, các ngành. Phương châm công tác tư tưởng ở cơ sở bao gồm:
- Công tác tư tưởng phải gắn
chặt với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, với phong trào cách mạng của quần
chúng, với từng đối tượng ở cơ sở.
- Kết hợp chặt chẽ ba nội
dung giáo dục: chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiến thức khoa học, phẩm
chất và đạo đức cách mạng; kết hợp giáo dục lý luận với giáo dục tình hình và
nhiệm vụ trước mắt.
- Kết hợp công tác tư tưởng
với công tác tổ chức và các mặt công tác khác.
- Kết hợp giáo dục tư tưởng
trong học tập với việc rèn luyện trong thực tiễn cách mạng.
- Kết hợp giáo dục tư tưởng
trong nội dung sinh hoạt của tất cả các tổ chức, kết hợp công tác tư tưởng trong
Đảng với công tác tư tưởng trong xã hội.
- Kết hợp bồi dưỡng tư
tưởng, tình cảm cách mạng với phê phán mạnh mẽ những biểu hiện tư tưởng sai
trái; biểu dương những ưu điểm đi đôi với phê bình nghiêm khắc những khuyết
điểm.
5. Nhiệm vụ công tác tư tưởng
ở cơ sở
Công tác tư tưởng ở cơ sở có
sáu nhiệm vụ cơ bản:
Một là, giáo dục mục tiêu độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân có
nhận thức đúng đắn, kiên định, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức. Kiên
quyết đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch; ngăn ngừa ảnh hưởng
của chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc.
Hai là, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn
ở cơ sở góp phần phát triển, hoàn thiện đường lối và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội của Việt Nam .
Tiến hành phổ biến, quán triệt sâu rộng các nghị quyết của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước.
Ba là, nâng cao bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức, kiến thức và năng lực thực tiễn của cán bộ, đảng viên và
nhân dân, khắc phục những biểu hiện của chủ nghĩa thực dụng, suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Bốn là, giữ gìn và phát huy các giá
trị văn hóa của địa phương, cơ sở, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người mới, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Năm là, xây dựng và phát huy nhân tố
con người qua thực hiện tốt các lĩnh vực khoa giáo ở cơ sở. Chỉ đạo, hướng dẫn,
cổ vũ thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước và các phong trào xã hội khác ở cơ
sở, coi trọng việc bồi dưỡng, nhân rộng các điển hình, nhân tố mới, góp phần hoàn
thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương trong từng giai đoạn.
Sáu là, giáo dục ý thức cảnh giác,
chống các hoạt động “diễn biến hòa bình”, cơ hội chính trị, lôi kéo, chia rẽ sự
đoàn kết toàn dân ở cơ sở. Kịp thời giải quyết các mâu thuẫn nội bộ nhân dân,
không để xảy ra khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện tập thể, không có điểm nóng ở cơ
sở.
II. LỰC LƯỢNG LÀM CÔNG TÁC
TƯ TƯỞNG Ở CƠ SỞ
Công tác tư tưởng là nhiệm
vụ của toàn Đảng, là trách nhiệm của mỗi
cán bộ, đảng viên, đồng thời cần phải
có lực lượng chuyên trách, có nghiệp
vụ và kinh nghiệm công tác. Ngay từ khi thành lập Đảng ta đã thành lập Ban
Tuyên giáo (ngày truyền thống ngành Tuyên giáo của Đảng lấy ngày 01-8-1930), cơ
quan tham mưu và giúp cấp ủy thực hiện công tác tư tưởng của Đảng.
Nhiệm vụ của Ban Tuyên giáo
đảng ủy cơ sở gồm:
Một là, giúp cấp ủy xây dựng và tổ
chức thực hiện kế hoạch công tác giáo dục lý luận chính trị, nâng cao nhận thức
và sự thống nhất tư tưởng và hành động trong Đảng, thực hiện thắng lợi các
nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
Hai là, giúp cấp ủy xây dựng và tổ
chức thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức, lối sống, đấu tranh chống quan liêu,
tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống, ngăn chặn các
tệ nạn xã hội; là thường trực Ban chỉ đạo của Cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” của đảng ủy cơ sở.
Ba là, giúp cấp ủy xây dựng kế
hoạch công tác tư tưởng của chi bộ, đảng bộ trong cuộc vận động xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh. Ban Tuyên giáo vừa
xây dựng kế hoạch (kế hoạch theo nhiệm kỳ đại hội của chi bộ, đảng bộ; kế hoạch
năm, quý, kế hoạch thực hiện chương trình hành động của cấp ủy…) vừa trực tiếp
tác nghiệp trên các lĩnh vực sau:
+ Giữ vai trò nòng cốt trong
việc tuyên truyền, giáo dục, vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Ban Tuyên giáo
cùng với mạng lưới cộng tác viên từ xã, phường đến thôn, làng, ấp, bản, tổ dân
phố, tổ nhân dân tự quản, các đoàn thể nhân dân, các nghiệp đoàn, hội… là lực
lượng quan trọng trong công tác giáo dục cán bộ, đảng viên làm theo Điều lệ
Đảng, xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh.
+ Phát hiện kịp thời những
vấn đề tư tưởng mới nảy sinh để tham mưu giúp cấp ủy các biện pháp giải quyết.
Phát hiện kịp thời gương người tốt, việc tốt để tuyên truyền và nhân rộng trong
Đảng, trong nhân dân.
+ Hướng dẫn, phối hợp, đôn
đốc, kiểm tra các lực lượng trong xã, phường, thôn, làng, ấp, bản, khu phố…
thực hiện nhiệm vụ công tác tư tưởng.
+ Trực tiếp
chỉ đạo về nội dung chính trị, tư tưởng của các tài liệu phục vụ cho hoạt động
tuyên truyền của mạng lưới báo cáo viên, tuyên truyền viên, đội văn nghệ, đài
truyền thanh, nhà văn hóa, điểm bưu điện – văn hóa, thư viện, tủ sách, bản
tin,…
- Hướng dẫn nội dung sinh
hoạt định kỳ hoặc đột xuất của đảng bộ, chi bộ.
Bốn là, tham mưu cho cấp ủy về kế
hoạch, nội dung tiến hành thường xuyên cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa
bình” về tư tưởng, văn hóa, lối sống…
Ban tuyên giáo cơ sở phải
xây dựng kế hoạch, xác định rõ nội dung, phương pháp, phối hợp lực lượng, tiến
hành sơ kết theo từng đợt, từng chủ đề; báo cáo cấp ủy theo định kỳ và không
định kỳ về tình hình diễn biến tư tưởng trong Đảng, trong nhân dân, đánh giá
khả năng “đề kháng” của cán bộ, đảng viên, nhân dân trước những diễn biến phức
tạp của tình hình thế giới, trong nước, địa phương; trước những khó khăn, biến
động trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Phương thức hoạt động chủ
yếu của ban tuyên giáo đảng ủy cơ sở là:
+ Xây dựng kế hoạch hoạt
động: bao gồm kế hoạch dài hạn (theo nhiệm kỳ đại hội của đảng bộ, chi bộ) kế
hoạch năm, quý, tháng, kế hoạch theo các chủ đề… Đây là vấn đề có tính nguyên
tắc, làm cơ sở cho các mặt công tác khác.
+ Lên lịch sinh hoạt: họp
định kỳ; giao ban tư tưởng định kỳ với cấp ủy; mạng lưới cộng tác viên (các
đoàn thể, báo cáo viên, tuyên truyền viên, các nghiệp đoàn, các hội đoàn, các
cơ quan giáo dục, y tế…). Xây dựng chế độ báo cáo và phân công giải quyết công
việc cho các thành viên của Ban.
2. Phối hợp lực lượng làm
công tác tư tưởng ở cơ sở
a. Các lực lượng chủ yếu làm
công tác tư tưởng ở co sở
- Ban Tuyên giáo đảng ủy cơ
sở, các đồng chí bí thư các chi bộ, tổ trưởng tổ nhân dân tự quản, báo cáo
viên, tuyên truyền viên.
- Ban Công tác Mặt trận và
trưởng các đoàn thể, hội, nghiệp đoàn, phụ trách nhà văn hóa, bưu điện – văn
hóa xã, trung tâm giáo dục cộng đồng, đài truyền thanh…
- Ban Giám hiệu trường phổ
thông cơ sở, Trưởng Trạm y tế…
- Các đơn vị quân đội, công
an, bộ đội biên phòng đóng trên địa bàn…
b. Các hình thức phối hợp
lực lượng
- Phối hợp lực lượng trong
công tác tuyên truyền, giáo dục thực hiện các cuộc sinh hoạt chính trị, các
phong trào thi đua yêu nước, các ngày kỷ niệm, các sự kiện lớn của đất nước.
- Phối hợp tổ chức các hội
nghị, hội thảo về các lĩnh vực tư tưởng – văn hóa.
- Cấp ủy làm nhiệm vụ kiểm
tra thường xuyên việc thực hiện các nhiệm vụ công tác tư tưởng – văn hóa của
các đoàn thể nhân dân, các đơn vị văn hóa, thông tin trên địa bàn.
- Cấp ủy lực chọn, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng – văn hóa.
III - ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC TƯ
TƯỞNG Ở CƠ SỞ TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
1. Thực trạng tư tưởng và
công tác tư tưởng ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay
a. Tình hình tư tưởng ở cơ
sở
Sự nghiệp đổi mới đất nước
dưới sự lãnh đạo của Đảng trong những năm qua đạt được những thành tựu to lớn
và có ý nghĩa lịch sử. Đó là nguồn động viên, cổ vũ lớn lao đối với toàn Đảng,
toàn dân ta. Đại bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân ta phấn khởi, tin tưởng
và quyết tâm thực hiện thắng lợi nghị quyết của Đảng và các chính sách, pháp
luật của Nhà nước, các chủ trương, nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
của địa phương.
Trong cơ chế thị trường, một
bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng năng động, tích cực, thích ứng
và phát huy tài năng, trí tuệ vươn lên, vượt qua đói nghèo, chiến thắng lạc
hậu. Nhiều tấm gương tiêu biểu có mặt trên khắp mọi miền của Tổ quốc, ở mọi
cấp, mọi ngành đã có sức động viên lôi cuốn đông đảo quần chúng vươn lên. Sự ổn
định về tư tưởng, chính trị ở cơ sở ngày càng vững chắc.
Tuy nhiên, ở nhiều nơi, do
sản xuất chậm phát triển, đời sống của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, thiếu
thốn, dân trí thấp, công tác giáo dục tư tưởng và quản lý xã hội còn thiếu sót,
khuyết điểm, nên tình hình tư tưởng ở một số cơ sở còn có diễn biến phức tạp.
Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, xa dân của một số cán bộ, đảng viên, công
chức, các tiêu cực và tệ nạn xã hội đang có chiều hướng phát triển đã tác động
đến niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ, đặc biệt tại cơ sở. Tại một số
vùng trọng yếu, các thế lực thù địch đang tập trung chống phá quyết liệt, tạo
nên sự mất ổn định về tư tưởng, gây mơ hồ về chính trị, ảo tưởng về chủ nghĩa
tư bản, thiếu sự nhất trí và đồng thuận với chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước trong một bộ phận nhân dân. Tệ nạn xã hội,
sự xuống cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ
phận cán bộ, đảng viên và nhân dân vẫn là vấn nạn và rất bức xúc hiện nay. Hiện
tượng phai nhạt lý tưởng trong một bộ phận thanh niên, tư tưởng thực dụng, sùng
ngoại trong nhân dân có chiều hướng gia tăng…
b. Công tác tư tưởng ở cơ sở
trong thời gian qua
Trong những năm qua, nhất là
từ khi có Nghị quyết Trung ương 5, khóa IX về “nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư
tưởng, lý luận trong tình hình mới” và gần đây là Nghị quyết Trung ương 5 khóa
X về “Công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới”, công tác tư
tưởng ở cơ sở đã được các cấp ủy đảng, ban tuyên giáo các cấp quan tâm, chỉ đạo
sâu sát hơn, đầu tư lực lượng cán bộ, cơ sở vật chất… ngày càng tốt hơn.
Bên cạnh đó, công tác tư
tưởng ở cơ sở còn nhiều hạn chế, yếu kém:
Công tác tư tưởng ở một số
cơ sở chưa được tổ chức và tiến hành chu đáo, chặt chẽ, có biểu hiện buông
lỏng, coi nhẹ. Một số nơi đầu tư cho công tác tư tưởng ở cơ sở quá yếu, cả về
lực lượng và phương tiện. Đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng ở cơ sở nhìn
chúng vừa thiếu lại vừa yếu.
2. Một số kinh nghiệm trong
tổ chức và hoạt động công tác tư tưởng ở cơ sở
a. Tăng cường sự chỉ đạo,
hướng dẫn của cấp ủy và ban tuyên giáo các cấp đối với công tác tư tưởng ở cơ
sở
b. Phát huy vai trò của cấp
ủy, chính quyền và các đoàn thể nhân dân trong hệ thống chính trị ở cơ sở để
tiến hành công tác tư tưởng
c. Bám sát thực tiễn cuộc
sống ở cơ sở, kịp thời giáp đáp những đòi hỏi của thực tiễn làm cho công tác tư
tưởng có sức sống và hiệu quả cao
d. Phát huy nhân tố tích cực
trong nhân dân, dựa vào nhân dân để tuyên truyền giáo dục, vận động nhân dân.
3. Đổi mới công tác tư tưởng
ở cơ sở
Với phương châm hướng về cơ
sở, xây dựng cơ sở vững mạnh, tạo tiền đề tiến hành công tác tư tưởng có chiều
rộng, chiều sâu và sức sống bền vững trong toàn xã hội, vấn đề đổi mới công tác
tư tưởng ở cơ sở đang được đặt ra một cách bức xúc.
a. Đổi mới nhận thức của cấp
ủy và nhận thức của cán bộ, đảng viên đối với công tác tư tưởng ở cơ sở
Cần thống nhất quan điểm,
nhận thức về vị trí, vai trò quan trọng, tác dụng to lớn của công tác tư tưởng
đối với mọi hoạt động ở cơ sở. Khắc phục mọi biểu hiện coi nhẹ, trông chờ, ỷ
lại vào cấp trên, khoán trắng cho cán bộ chuyên trách.
b. Đổi mới nội dung công tác
tư tưởng ở cơ sở
Trước hết, cần đổi mới nội
dung và hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước.
c. Đổi mới phương thức tiến
hành công tác tư tưởng ở cơ sở
Đang dạng hóa các hình thức
tiến hành công tác tư tưởng ở cơ sở, làm cho công tác tư tưởng luôn phong phú,
sinh động, đáp ứng yêu cầu của mọi đối tượng, trong mọi hoành cảnh.
d. Đổi mới cơ chế, chính
sách đối với công tác tư tưởng
Trước hết, cần tăng cường
điều kiện vật chất, phương tiện làm công tác tư tưởng ở cơ sở, như sách, báo,
tài liệu, phương tiện nghe nhìn, phương tiện thông tin, cổ động… Đảm bảo mỗi
thành viên của ban tuyên giáo cơ sở có đủ các tài liệu và được bồi dưỡng về
nghiệp vụ, cung cấp thông tin kịp thời. Có chế độ bồi dưỡng nghiệp vụ hàng năm
(theo định kỳ) do ban tuyên giáo cấp huyện tổ chức.
Chuyên đề 2
CÔNG TÁC GIÁO DỤC LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ VÀ GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG Ở CƠ SỞ
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG
TÁC GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
1. Khái niệm
Công tác giáo dục lý luận
chính trị là
một bộ phận cơ bản trong công tác tư tưởng của Đảng, thực hiện việc truyền bá
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối, quan điểm
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong cán bộ, đảng viên và nhân
dân. Công tác giáo dục lý luận chính trị nhằm hình thành thế giới quan, phương
pháp luận khoa học, nhận thức tư tưởng, bản lĩnh chính trị, niềm tin và năng
lực hoạt động thực tiễn cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân, đáp ứng yêu
cầu của từng thời kỳ phát triển của đất nước.
2. Vai trò công tác giáo dục
lý luận chính trị
Công tác giáo dục lý luận
chính trị có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, xuất
phát từ những yếu tố sau:
Thứ nhất, vai trò của lý luận chính
trị đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Chính đảng của giai cấp công
nhân không ra đời một cách tự phát. Đó là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ
nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân. Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào công nhân
và phong trào yêu nước. Phong trào công nhân và phong trào yêu nước là cơ sở
vật chất, chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở tinh thần cho sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam .
Không có sự truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào công nhân thì không
thể có sự ra đời của Đảng.
Thứ hai, công tác giáo dục lý luận
chính trị giữ vai trò quan trọng trong mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam .
Thứ ba, công tác giáo dục lý luận
chính trị có vai trò quan trọng trong công tác xây dựng Đảng vững mạnh về chính
trị, tư tưởng, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, xây dựng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo của Đảng, xây dựng con người mới.
Chính vì vậy, công tác giáo
dục lý luận chính trị có vai trò quan trọng trong công tác xây dựng Đảng từ
Trung ương đến cơ sở.
3. Yêu cầu, nhiệm vụ công
tác giáo dục lý luận chính trị trong thời kỳ mới
Hiện nay toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân đang tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Nhiệm vụ chính trị trong thời kỳ mới hết sức nặng nề.
Mặt khác, các lực lượng thù
địch đang tăng cường chống phá cách mạng nước ta trên cả lĩnh vực lý luận và
thực tiễn.
a) Yêu cầu của công tác giáo
dục lý luận chính trị trong thời kỳ mới
Một là, tạo ra sự nhất trí cao đối
với đường lối của Đảng, có ý chí nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, đẩy mạnh
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hai là, xây dựng con người Việt Nam
đủ khí phách bản lĩnh, phẩm chất, đạo đức và kiến thức trong thời kỳ mới, thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu xã hội chủ
nghĩa, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”.
Ba là, phát huy tinh thần cách mạng
tiến công, giữ vững và tăng cường chủ động trên trận địa tư tưởng, làm thất bại
mọi âm mưu, thủ đoạn và hành động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng –
văn hóa của các thế lực thù địch.
b. Nhiệm vụ của công tác
giáo dục lý luận chính trị trong thời kỳ mới
Một là, tiếp tục giáo dục trong Đảng
và nhân dân kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối mới của
Đảng, làm cho ý chí kiên định đó trở thành lập trường chính trị không thể lay
chuyển, kiên quyết đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch, ngăn
ngừa ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc. Kiên định nhưng phải sáng
tạo, phát triển không ngừng.
Hai là, tiếp tục giáo dục sâu rộng
trong Đảng và nhân dân đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
Giai đoạn hiện nay cần tập
trung quán triệt quan điểm cơ bản của Đảng “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước kém phát triển” và “phấn
đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại”.
Ba là, giáo dục nâng cao bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức, kiến thức và năng lực thực tiễn của cán bộ, đảng
viên và nhân dân, thực hiện thắng lợi Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và
nhân dân.
Bốn là, giáo dục, nâng cao cảnh
giác, chống các âm mưu, thủ đoạn và hành động “diễn biến hòa bình” gây bạo
loạn, lật đổ và răn đe quân sự của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.
II. CÔNG TÁC GIÁO DỤC LÝ
LUẬN CHÍNH TRỊ Ở CƠ SỞ
1. Đối tượng, nội dung giáo
dục lý luận chính trị ở cơ sở
- Công tác giáo dục lý luận
chính trị ở cơ sở thuộc hệ giáo dục phổ cập, vì vậy phải quan tâm đến mọi thành
viên ở cơ sở, trước hết là cán bộ, đảng viên và đội ngũ cán bộ, công chức trong
hệ thống chính trị ngoài diện đào tạo, bồi dưỡng do trường chính trị tỉnh,
thành phố phụ trách và các đoàn viên, hội viên của các đoàn thể nhân dân ở cơ
sở.
- Nội dung cơ bản của giáo
dục lý luận chính trị ở cơ sở là những vấn đề cơ bản, thiết thực nhất của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước… theo hướng dẫn của Ban Tuyên giáo
Trung ương.
2. Tổ chức lực lượng làm
công tác giáo dục lý luận chính trị ở cơ sở
Theo đối tượng được phân
cấp, tổ chức lực lượng làm công tác giáo dục lý luận chính trị ở cơ sở bao gồm
những lực lượng chủ yếu sau:
- Ban Tuyên giáo và Trung
tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện.
- Ban Tuyên giáo cấp xã là
cơ quan tham mưu và là lực lượng chủ yếu trực tiếp giúp cấp ủy tổ chức học tập
Nghị quyết và các chỉ thị của Đảng.
- Lãnh đạo các đoàn thể nhân
dân: Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên, Công đoàn, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến
binh, Hội Phụ nữ… tuyên truyền và tổ chức học tập chính trị cho hội viên, đoàn
viên các đoàn thể nhân dân.
- Giáo viên của hệ thống
trường học ở cơ sở tuyên truyền, giáo dục chính trị cho học sinh theo các
chương trình thuộc hệ thống giáo dục quốc dân.
3. Một số vấn đề nghiệp vụ
công tác giáo dục lý luận chính trị ở cơ sở
a. Về giáo dục chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Xây dựng quy hoạch, kế
hoạch bồi dưỡng lý luận chính trị hàng năm cho các đối tượng: Bí thư đảng bộ,
chi bộ, cấp ủy viên; trưởng thôn, trưởng bản; đảng viên mới; đối tượng phát
triển Đảng; trưởng các ban, ngành, đoàn thể… Kế hoạch được cấp ủy thông qua rồi
gửi lên Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện để Trung tâm đưa vào kế hoạch mở
lớp.
b. Về triển khai học tập
nghị quyết của Đảng
- Tổ chức học tập nghị quyết
cho đảng viên
+ Xây dựng kế hoạch học tập
nghị quyết, chuẩn bị tài liệu và những điều kiện vật chất khác, thông báo sớm
để đảng viên sắp xếp công việc đến dự đông đủ, nghiêm túc. Cố gắng tổ chức để
tất cả đảng viên trong đảng bộ được học. Nếu số lượng đảng viên đông có thể
phân chai thành hai, ba lớp nối tiếp nhau, hoặc tổ chức học tập kỹ cho đội ngũ
đảng ủy viên, bí thư chi bộ, chi ủy viên để về truyền đạt, hướng dẫn lại cho
đảng viên trong chi bộ.
+ Lựa chọn, bố trí báo cáo
viên nắm chắc tinh thần nội dung cơ bản của nghị quyết và có phương pháp trình
bày, phân tích dễ hiểu, dễ nhớ để giúp người học hiểu đúng, hiểu rõ nghị quyết.
+ Mỗi lần học nghị quyết
nhất thiết phải có báo cáo của cấp ủy về chương trình hành động thực hiện nghị
quyết của cơ sở.
+ Cố gắng bảo đảm cho mỗi
chi bộ có ít nhất một cuốn Văn kiện nghị quyết và cuốn tài liệu học tập nghị
quyết (tài liệu dành cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở) giúp đảng viên trong chi bộ
nghiên cứu sâu và kỹ hơn.
+ Khi đã học nghị quyết, đã
có chương trình hành động phải tập trung chỉ đạo có hiệu quả, tạo chuyển biến
thực sự, đảm bảo lời nói đi đôi với việc làm. Đảng viên nào không làm, làm
không đầy đủ hoặc làm trái nghị quyết của Đảng phải bị phê bình, xử lý nghiêm
túc.
- Tổ chức tuyên truyền nghị
quyết trong nhân dân.
+ Việc giáo dục nghị quyết,
trước hết thông qua các hình thức sinh hoạt của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân ở cơ sở, chú trọng bồi dưỡng đội ngũ cán bộ để họ phát huy được
vai trò tích cực trong việc tổ chức học tập và thực hiện nghị quyết trong tổ
chức, đoàn thể mình.
+ Gắn nội dung tuyên truyền,
phổ biến nghị quyết với nội dung các kỳ sinh hoạt xóm, thôn, tổ dân phố. Sử
dụng có hiệu quả hệ thống truyền thanh xã, phường để giúp nhân dân hiểu được
những điều thật cần thiết trong nghị quyết.
Tài liệu phổ biến rộng rãi
dành cho nhân dân là cuốn sách Hỏi – Đáp do Ban Tuyên giáo Trung ương biên
soạn. Chương trình hành động của đảng bộ phải được tuyên truyền, phổ biến rộng
rãi và trở thành các phong trào hoạt động cụ thể của nhân dân hưởng ứng và làm
theo nghị quyết của Đảng.
c. Về tổ chức giáo dục sâu
rộng chính sách, pháp luật của Nhà nước
- Chính sách pháp luật của
Nhà nước là sự thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng. Vì vậy, giáo dục
chính sách, pháp luật chính là nội dung, hình thức giáo dục lý luận chính trị.
Cần có kế hoạch tổ chức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nghiên cứu về các
chính sách, pháp luật hiện hành, nhất là các chính sách pháp luật có quan hệ
trực tiếp đến đời sống của nhân dân, như Luật Đất đai, Luật Bảo vệ rừng, Luật
Hợp tác xã, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí, Bộ luật Hình sự, Bộ Luật Dân sự, Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Giáo dục,
Pháp lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo, Luật Hôn nhân và gia đình v.v…
- Mọi đảng viên phải học,
nắm vững và thực hiện nghiêm túc, đồng thời phổ biến sâu rộng và vận động nhân
dân chấp hành đúng chính sách, pháp luật hiện hành của Nhà nước.
- Hình thức giáo dục chủ yếu
là thông qua sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt đoàn thể, thôn xóm, tổ dân phố… Mặt
khác, cần thường xuyên theo dõi kiểm tra kịp thời biểu dương những gương chấp
hành tốt; nhắc nhở, phê phán những trường hợp làm sai, nhất là những việc cố ý
làm trái quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Sử dụng có
hiệu quả tủ sách pháp luật của xã, phường, đơn vị.
d) Thực hiện nhiệm vụ kiểm
tra công tác giáo dục lý luận chính trị ở cơ sở
Đảng ủy cơ sở cần thường
xuyên kiểm tra cán bộ, đảng viên thực hiện các quy định nói trên, kịp thời biểu
dương những tấm gương học tập tốt; nhắc nhở, phê bình những trường hợp lười
học, ngại học. Hàng năm, khi phân tích chất lượng chi bộ, đảng viên cần lấy kết
quả học tập, nhất là học tập lý luận chính trị làm một tiêu chuẩn để xem xét,
đánh giá.
III. CÔNG TÁC BIÊN SOẠN LỊCH
SỬ ĐẢNG BỘ CẤP XÃ VÀ GIÁO DỤC TRUYỀN THÔNG CÁCH MẠNG
1. Về biên soạn lịch sử đảng bộ
cấp xã
a. Một số công việc cần tiến
hành để biên soạn lịch sử đảng bộ xã, phường, thị trấn.
- Công tác nghiên cứu biên
soạn lịch sử đảng bộ cấp xã do Ban Thường vụ cấp ủy đảng trực tiếp lãnh đạo về
mọi mặt.
- Sự lãnh đạo của Ban thường
vụ cấp ủy đảng bao gồm những công việc sau:
+ Quyết định những chủ
trương về nghiên cứu lịch sử Đảng.
+ Cho ý kiến về những kết
luận trong nội dung nhất là kết luận về bước ngoặt của lịch sử đảng bộ.
+ Ra quyết định cung cấp
kinh phí cho việc hoàn thành cuốn lịch sử đảng bộ.
+ Thành lập Hội đồng chỉ đạo
biên soạn lịch sử đảng bộ.
+ Thành lập Ban biên soạn
gồm một chủ biên và các thành viên (có sự kết hợp với Ban Tuyên giáo tỉnh và
huyện).
b. Xã hội hóa các công trình
lịch sử đảng bộ
Sau khi cuốn lịch sử đảng bộ
đã được in ấn, cần có kế hoạch tuyên truyền, giáo dục trong Đảng, trong nhà
trường, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Ban Tuyên giáo lập kế hoạch phổ biến
và phát huy vai trò của cuốn lịch sử trình ban thường vụ thông qua. Trong tổ
chức tuyên truyền và phổ biến cuốn lịch sử cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa
thường trực Đảng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
Để phát huy tác dụng của
Lịch sử đảng bộ, cần thực hiện nhiều hình thức phong phú. Trong thời gian qua,
đã có nhiều địa phương tổ chức cuộc thi tìm hiểu về lịch sử đảng bộ địa phương
nhân ngày kỷ niệm thành lập đảng bộ. Ban Tuyên giáo phối hợp với các phương
tiện thông tin đại chúng, báo, đài, truyền hình trong việc tuyên truyền, giáo
dục lịch sử đảng bộ địa phương. Nhiều tỉnh đưa vào chương trình học tập của nhà
trường…
2. Công tác giáo dục truyền
thống cách mạng ở cơ sở
a. Mục đích của giáo dục
truyền thống
- Truyền thống là thói quen
được hình thành từ lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế
hệ này sang thế hệ khác. Truyền thống có tính cộng đồng và tính lịch sử; có
tính ổn định và bền vững tương đối; có thể trở thành những chuẩn mực, định
hướng hành động cho các cá nhân và cộng đồng.
- Truyền thống cách mạng là
truyền thống của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản.
Giáo dục truyền thống cách
mạng nhằm nâng cao lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho quần chúng nhân dân
là một nhiệm vụ thường xuyên, cần thiết đối với Đảng Cộng sản cầm quyền trong
tiến trình xây dựng và phát triển đất nước.
b. Nội dung chủ yếu của giáo
dục truyền thống cách mạng
- Giáo dục chủ nghĩa yêu
nước. Yêu nước là giá trị truyền thống cao quý nhất của nhân dân ta được hun
đúc suốt quá trình hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, trở thành cội nguồn sức
mạnh của dân tộc. Ngày nay giáo dục truyền thống yêu nước cần gắn liền với yêu
cầu chủ nghĩa xã hội, đó là mục tiêu lý tưởng của Đảng ta và của dân tộc ta.
- Giáo dục truyền thống đoàn
kết, gắn bó trong cộng đồng dân tộc. Lòng nhân ái “Thương người như thể thương
thân”, truyền thống đoàn kết hợp tác, giúp nhau trong khó khăn, hoạn nạn… là
truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta, ngày nay được Đảng ta kế thừa và
phát huy trên tinh thần của chủ nghĩa nhân đạo mác xít, trên tinh thần quốc tế
vô sản cao cả.
- Truyền thống anh hùng, bất
khuất trong đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta được Đảng ta phát
huy và phát triển thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu và lao
động sáng tạo trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc hiện nay.
- Cần cù và sáng tạo trong
lao động là nét đẹp truyền thống của nhân dân ta. Trong cách mạng, truyền thống
ấy được kế thừa và phát huy trên tinh thần tự hào và tự tôn dân tộc, trở thành
thái độ lao động mới, lao động sáng tạo, có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất
lao động cao, phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
- Tinh thần lạc quan cách
mạng trong cuộc sống và trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng. Đây cũng là truyền
thống tốt đẹp của dân tộc được Đảng ta phát huy và phát triển trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam .
- Trong quá trình cách mạng
dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với những truyền thống vốn có của dân tộc thì
nhiều giá trị tinh thần mới được hình thành và phát triển, trở thành truyền
thống tốt đẹp của nhân dân ta như tinh thần dân chủ, thi đua yêu nước, “uống
nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, tinh thần quốc tế thủy chung trong sáng…
Giáo dục truyền thống cách
mạng là nhằm “xây dựng những con người và thế hệ Việt Nam gắn bó thiết tha với
lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí
kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, giữ gìn và phát huy các giá trị của văn hóa dân tộc, có năng lực tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại, phát huy tiềm năng của dân tộc và con người
Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ
tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực
hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khỏe,
là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như
lời căn dặn của Bác Hồ.
c. Hình thức giáo dục truyền
thống cách mạng
Tùy theo nội dung và điều
kiện cụ thể của từng cơ sở mà có thể lựa chọn các hình thức phù hợp
Theo sự tập hợp từ các
ngành, địa phương, có một số hình thức sau:
- Tổ chức mít tinh tuyên
truyền cổ động ở cơ sở vào dịp vác ngày lễ lớn của dân tộc và cách mạng.
- Tổ chức tốt công tác tuyên
truyền miệng, thông tin cổ động về đề tài này qua hoạt động của các đoàn thể
chính trị ở địa phương.
- Tổ chức sinh hoạt chính
trị tư tưởng, thi tìm hiểu các đề tài về truyền thống cách mạng; nêu gương;
tham quan; lễ hội quần chúng.
- Sử dụng các loại hình văn
học nghệ thuật, thể dục, thể thao…
Cần tổ chức sơ kết, tổng kết
rút kinh nghiệm công tác giáo dục truyền thống theo định kỳ hàng tháng, quý,
năm. Tổ chức rút kinh nghiệm sau mỗi đợt phát động phong trào, tổ chức các hội
thi… Đây là việc làm cần thiết góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả
công tác giáo dục truyền thống cách mạng.
3. Về tổ chức lấy ý kiến của
các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước
- Thông qua các cuộc tổ chức
lấy ý kiến cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia xây dựng đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ giáo dục lý luận
chính trị.
- Để đạt được yêu cầu tập
hợp trí tuệ của đông đảo cán bộ, đảng viên, nhân dân ở cơ sở và thực hiện nhiệm
vụ giáo dục lý luận chính trị, cần tạo điều kiện để mọi người chuẩn bị những ý
kiến có chất lượng; tổ chức các cuộc đóng góp ý kiến nghiêm túc, dân chủ, khơi
dậy được không khí thảo luận, tranh luận xây dựng thẳng thắn. Khắc phục tình
trạng làm hình thức, chiếu lệ, chỉ cốt cho xong việc trên giao.
Chuyên đề 3
CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, CỔ
ĐỘNG Ở CƠ SỞ
1. Khái niệm
Tuyên truyền, cổ động theo nghĩa rộng là hoạt động
có mục đích của một chủ thể nhằm truyền bá những tri thức, giá trị tinh thần,
tư tưởng đến đối tượng, biến những tri thức, giá trị tinh thần, tư tưởng đó
thành nhận thức, niềm tin, tình cảm, cổ vũ đối tượng hành động theo những định
hướng do chủ thể tuyên truyền đặt ra. Cùng với công tác lý luận, công tác tuyên
truyền và công tác cổ động là ba bộ phận họp thành của công tác tư tưởng.
Tuyên truyền và cổ động là
hai hình thái của công tác tư tưởng, có mối quan hệ, gắn bó mật thiết với nhau.
2. Vai trò của công tác
tuyên truyền, cổ động
Tuyên truyền, cổ động là
những bộ phận quan trọng của công tác tư tưởng. Trong điều kiện bùng nổ thông
tin, công tác tuyên truyền, cổ động càng trở nên quan trọng để định hướng thông
tin, làm cho cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân tiếp nhận các chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước một cách đầy đủ, đúng đắn.
- Là công cụ để định hướng
tư tưởng, hướng dẫn suy nghĩ và hành động của toàn xã hội.
- Góp phần quan trọng để xây
dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa.
- Góp phần tăng cường mối
quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, xây dựng khối đoàn kết thống nhất
trong Đảng, tăng cường sự đồng thuận trong xã hội.
- Là công cụ sắc bén trong
đấu tranh bảo vệ chân lý, chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”
của các thế lực thù địch; phê phán các quan điểm sai trái, lệch lạc nảy sinh
trong cán bộ, đảng viên và nhân dân trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới
của Đảng và Nhà nước.
3. Những hình thức chủ yếu
của tuyên truyền cổ động
Hình thức tuyên truyền, cổ
động rất đa dạng, nhưng tập trung vào mấy loại hình sau đây:
a. Tuyên truyền
- Tuyên truyền miệng. Đây là hình thức tuyên
truyền đặc biệt quan trọng, nhất là ở cơ sở, được thực hiện chủ yếu bởi đội ngũ
báo cáo viên, tuyên truyền viên, thông qua các hình thức giao tiếp trực tiếp,
như nói chuyện thời sự, tọa đàm, hội thảo, kể chuyện gương người tốt, việc tốt…
- Tuyên truyền thông qua các
ấn phẩm viết, như
sách, báo (báo in, báo điện tử), bản tin, khẩu hiệu, biểu ngữ, truyền đơn, tờ
gấp…
- Tuyên truyền thông qua
nghe, nhìn, như
phát thanh truyền hình, phim ảnh, triển lãm, tham quan…, trong đó vai trò của
truyền hình ngày càng trở nên quan trọng do tính phổ cập, nhanh chóng và rộng
rãi trong toàn xã hội.
Tuyên truyền bằng các hoạt
động văn hóa, nghệ thuật, thông qua các hoạt động của ngành văn hóa, nghệ thuật…
- Tuyên truyền tổng hợp, kết hợp cổ động, tuyên
truyền miệng, phim ảnh, thơ ca, hò, vè… (tuyên truyền lồng ghép).
b. Cổ động
- Cổ động miệng qua hệ thống
loa, phát thanh, truyền thanh, v.v…
- Cổ động bằng panô, áp phích,
các khẩu hiệu.
- Cổ động bằng và trên các
phương tiện thông tin đại chúng.
- Cổ động bằng tuần hành,
mít tinh…
Mỗi hình thức tuyên truyền,
cổ động nêu trên đều quan trọng và có ưu thế riêng. Việc quyết định sử dụng
hình thức nào phải xuất phát từ nội dung, tính chất và yêu cầu cụ thể của từng
vấn đề, từng đợt tuyên truyền, đối tượng và khả năng kinh tế của địa phương, cơ
sở.
4. Nguyên tắc cơ bản của
công tác tuyên truyền, cổ động
Công tác tuyên truyền, cổ
động có các nguyên tắc cơ bản sau:
a. Tính đảng
- Tính đảng là một trong
những nguyên tắc cơ bản của công tác tuyên truyền, cổ động. Nguyên tắc tính
đảng đòi hỏi việc xem xét, lý giải mọi hiện tượng, sự kiện của đời sống xã hội
đều phải dựa trên lập trường, quan điểm, của giai cấp công nhân, vì lợi ích của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
- Nguyên tắc tính đảng trong
công tác tuyên truyền, cổ động đòi hỏi người làm công tác tuyên truyền, cổ động
phải có niềm tin vững chắc vào chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sự
lãnh đạo của Đảng và thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Nội dung tuyên truyền,
cổ động phải định hướng xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học, nhân
sinh quan cách mạng cho quần chúng.
- Phải nêu cao tinh thần
chiến đấu trong công tác tuyên truyền, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh
chống các quan điểm sai trái, phản động, các biểu hiện tiêu cực, tham nhũng,
xâm phạm quyền làm của của nhân dân.
b. Tính khoa học, thực tiễn
- Tính khoa học đòi hỏi công
tác tuyên truyền, cổ động phải phân tích, đánh giá, tìm ra mối liên hệ giữa các
hiện tượng và lý giải đúng đắn bản chất sự việc và hiện tượng trên cơ sở khoa
học.
- Công tác tuyên truyền phải
xuất phát từ thực tiễn và phục vụ thực tiễn ở cơ sở, tham gia giải quyết các
vấn đề thực tiễn đặt ra.
- Nội dung, hình thức tuyên
truyền, cổ động phải phù hợp với từng đối tượng cụ thể.
c. Tính chân thực
Tính chân thực là
nguyên tắc quan trọng của công tác tuyên truyền. Tính chân thực đòi hỏi việc
tuyên truyền, cổ động phải giải thích những thành tựu cũng như những sai lầm,
thiếu sót trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội một cách trung thực, khách quan,
không được nói dối, nói quá, thổi hồng, bao che, xuyên tạc sự thật…
d. Tính chiến đấu
- Tính chiến đấu chính là
bản chất của công tác tuyên truyền, cổ động chính trị. Tính chiến đấu biểu hiện
ở sự nhạy bén chính trị, tinh thần tiến công cách mạng trong thực hiện tuyên
truyền, cổ động.
- Trong mỗi sự việc cần phân
biệt rõ ràng sai – đúng, phải – trái, phù hợp – không phù hợp, biểu dương, phê
phán kịp thời.
- Tính chiến đấu còn thể
hiện ở việc kiên quyết phê phán các luận điệu tuyên truyền phản động, phản khoa
học, trái với quan điểm, đường lối của Đảng.
e. Tính phổ thông, đại chúng
Tính phổ thông, đại chúng trong công tác
tuyên truyền đòi hỏi:
- Tuyên truyền, cổ động phải
đến với toàn dân, muốn vậy cách nói, cách làm trong tuyên truyền phải bám sát
từng đối tượng để chọn ra phương pháp phù hợp.
- Phải động viên nhiều
người, nhiều lực lượng cùng tham gia vào công tác tuyên truyền.
- Tuyên truyền phải gắn liền
với phong trào. Tuyên truyền còn để tổ chức, hướng dẫn phong trào.
- Hình thức, nội dung tuyên
truyền phải linh hoạt, sáng tạo, phù hợp phong tục tập quán, truyền thống của
từng dân tộc, từng vùng, từng địa phương.
5. Phương châm công tác
tuyên truyền, cổ động
a. Bám sát nhiệm vụ chính
trị của Đảng, phát huy tinh thần cách mạng của các tầng lớp nhân dân
b. Công tác tuyên truyền, cổ
động phải kịp thời, nhạy bén, nội dung chính xác, có tính chiến đấu cao
c. Kết hợp tuyên truyền, cổ
động nâng cao nhận thức tư tưởng với hướng dẫn hành động và cổ vũ phong trào
d. Kết hợp giữa biểu dương
và phê phán
Biểu dương và phê phán là hai mặt không thể
thiếu được trong tuyên truyền, cổ động. Hai mặt này gắn bó mật thiết với nhau,
hỗ trợ, tạo điều kiện cho nhau. Khắc phục khuynh hướng chỉ nhấn mạnh một mặt
xem nhẹ mặt kia vì cả hai khuynh hướng này đều hạn chế hiệu quả tuyên truyền,
thậm chí có thể gây ra phản tác dụng tuyên truyền.
e. Tuyên truyền, cổ động
phải cụ thể, thiết thực, sinh động
- Cụ thể thiết thực, trước hết cần nắm vững
tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân để tuyên truyền đúng đối tượng.
- Trong tuyên truyền phải sử
dụng cách nói dễ hiểu, đơn giản, bằng ngôn ngữ của quần chúng để nói với quầng
chúng, tránh những từ hoa mỹ, trống rỗng. Sử dụng những hình thức phù hợp với
đối tượng ở cơ sở.
- Những nhiệm vụ đặt ra phải
cụ thể, thiết thực quần chúng có thể làm được.
f. Phối hợp tốt các mặt hoạt
động của công tác tuyên truyền, cổ động
Kết hợp các lực lượng và hình thức tuyên
truyền. Kết hợp tuyên truyền thường xuyên với tuyên truyền theo chủ đề, từng
thòi gian. Kết hợp tuyên truyền với cổ động.
II - NHIỆM VỤ, NỘI DUNG
TUYÊN TRUYỀN, CỔ ĐỘNG Ở CƠ SỞ
1. Nhiệm vụ của công tác
tuyên truyền, cổ động ở cơ sở
Công tác tuyên truyền, cổ động ở cơ sở có ba
nhiệm vụ cơ bản sau:
- Nâng cao nhận thức của cán
bộ, đảng viên và nhân dân về lý luận chính trị, đó là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, những kiến thức khoa học…, tạo sự thống nhất cao trong Đảng và đồng thuận
trong nhân dân.
- Cổ vũ, động viên các tầng
lớp nhân dân tham gia các phong trào và hành động cách mạng, thực hiện thắng
lợi nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và góp phần xây
dựng con người mới, nề văn hóa mới, xây dựng quê hương giàu đẹp, văn minh.
- Đấu tranh chống mọi thủ
đoạn tuyên truyền của các lực lượng thù địch, chống những quan điểm sai trái,
cơ hội, lệch lạc, phản động, bài trừ các loại thủ tục lạc hậu, các biểu hiện
phi văn hóa trong nhân dân.
Từ ba nhiệm vụ cơ bản nêu
trên, tùy theo nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ và tình hình, đặc điểm của
địa phương, đơn vị để xác định nhiệm vụ cụ thể của công tác tuyên truyền, cổ
động ở cơ sở.
2. Nội dung của công tác
tuyên truyền, cổ động ở cơ sở
Nội dung tuyên truyền, cổ động ở cơ sở rất
phong phú, nhưng có thể khái quát thành những nội dung cơ bản sau đây:
- Tuyên truyền, cổ động về
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và của địa
phương. Đây là một nội dung chủ yếu, thường xuyên của công tác tuyên truyền, cổ
động, nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, nhân dân, biến những chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thành những kết quả trong thực tế.
- Thông tin có định hướng
tình hình thời sự địa phương, trong nước và quốc tế.
- Tiến hành các hoạt động
tuyên truyền, giáo dục nhân các ngày kỷ niệm và các đợt vận động chính trị lớn
của đất nước và địa phương. Tuyên truyền, giáo dục truyền thống dân tộc, truyền
thống cách mạng trong nước và địa phương.
- Tuyên truyền, phổ biến
kiến thức mới, quy trình công nghệ mới trong sản xuất, đời sống và bảo vệ môi
trường ở cơ sở.
- Tuyên truyền, cổ động về
những thành tựu chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… của đất nước và của địa
phương, những thuận lợi và khó khăn, những kinh nghiệm trong việc tổ chức thực
hiện các nhiệm vụ của địa phương.
- Tuyên truyền, giáo dục về
người tốt, việc tốt và các điển hình tiên tiến, thúc đẩy các phong trào thi đua
ở cơ sở.
- Tuyên truyền, cổ động về
đạo đức, lối sống, nếp sống…, góp phần xây dựng con người mới và nền văn hóa
mới ở địa phương.
- Chỉ rõ âm mưu, thủ đoạn
“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; về nhiệm vụ đấu tranh chống quan
liêu, tham nhũng, tệ nạn xã hội, phê phán những thói hư, tật xấu… tại cơ sở.
III. MỘT SỐ NGHIỆP VỤ TỔ
CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TUYÊN TRUYỀN, CỔ ĐỘNG Ở CƠ SỞ
1. Chuẩn bị đề cương cho nội
dung tuyên truyền, cổ động
- Đề cương tuyên truyền, cổ động là loại văn
bản sử dụng ngôn ngữ viết để phân tích, giải thích, minh họa đường lối, quan
điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhằm giúp cho cán bộ tuyên
truyền, cổ động có nội dung tư tưởng thống nhất, có những thông tin cần thiết
để tiến hành tuyên truyền, cổ động. Nó giúp cho đối tượng nhận thức đúng đắn,
chính xác các quan điểm của Đảng, định hướng suy nghĩ, hành động theo mục tiêu
đề ra. Có hai dạng đề cương tuyên truyền chủ yếu: Bài luận văn giải thích và
dạng hỏi – đáp.
- Các bước xây dựng đề cương tuyên truyền, cổ động:
+ Xác định rõ mục đích, yêu
cầu đạt được về mặt nhận thức và tạo chuyển biến về tư tưởng, hành động phù hợp
với đối tượng và nhiệm vụ chính trị. Với mỗi loại đề cương cần xác định rõ phục
vụ cho đối tượng cụ thể.
+ Thu thập thông tin từ các
nguồn: các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
văn kiện, chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước; những bài viết của các đồng chí lãnh đạo, các nhà khoa học; sách báo,
băng ghi âm, những tài liệu tuyên truyền của cấp trên về vấn đề đó. Chú ý những
thông tin chính thống, thông tin có tính thời sự. Ngoài ra, cần sưu tầm các
thông tin về các quan điểm khác nhau và cách lập luận khác nhau.
+ Phân tích, xử lý thông
tin, chọn lọc những thông tin càn thiết, quan trọng, có giá trị, sắp xếp tư
liệu theo trình tự nội dung của đề cương.
+ Xác định dạng và bố cục đề
cương tuyên truyền, cổ động. Chú ý từng dạng đề cương có yêu cầu, có logic, có
đặc điểm riêng. Xác định dạng đề cương tùy theo nội dung và nhiệm vụ tuyên
truyền, cổ động đối tượng. Xây dựng dàn ý chi tiết, chú trọng luận đề, luận
điểm, luận chứng, luận cứ của đề cương. Số liệu nêu trong đề cương phải tiêu
biểu, làm luận chứng để chứng minh cho luận đề. Xác định rõ vấn đề trọng tâm
của đề cương, cấu trúc của đề cương phải hợp lý, chặt chẽ.
+ Xác định ngôn ngữ thể
hiện, ngôn ngữ phải phổ thông, trong sáng, dễ hiểu, phù hợp với trình độ và quá
trình nhận thức của đối tượng.
+ Chọn phong cách thể hiện
làm sao đạt được hiệu quả tuyên truyền, cổ động. Tùy theo từng chủ đề, đối
tượng và điều kiện ở cơ sở mà sử dụng phong cách thể hiện phù hợp. Có thể sử
dụng phong cách cởi mở thân thiện, hoặc nghiêm trang, lịch sử v.v… Có thể dùng
phương pháp diễn giảng, quy nạp, hoặc kết hợp cả hai v.v…
Đề cương tuyên truyền cần có
sự tham gia của các ban, ngành và được cấp ủy có thẩm quyền duyệt và được dùng
cho nhiều người tuyên truyền.
Chuẩn bị đề cương tuyên
truyền, cổ động có vai trò rất quan trọng, nó là một yếu tố quyết định đến hiệu
quả của công tác này. Vì vậy, phải chuẩn bị đề cương tuyên truyền, cổ động công
phu, nghiêm túc.
2. Xây dựng lực lượng, chuẩn
bị phương tiện, phương thức cho công tác tuyên truyền, cổ động ở cơ sở
- Lực lượng tuyên truyền, cổ động ở cơ sở có
vai trò quan trọng, quyết định trực tiếp đến hiệu quả công tác. Lực lượng tuyên
truyền, cổ động ở cơ sở rất đông đảo, bao gồm: Cấp ủy viên, báo cáo viên của cơ
sở, báo cáo viên của các ngành, đoàn thể, tuyên truyền viên, cán bộ, đảng viên,
trưởng thôn, trưởng xóm… Lực lượng tuyên truyền, cổ động phải là những người
nhiệt tình, có năng lực, say mê nghề nghiệp…
- Phương tiện tuyên truyền
có vai trò quan trọng trong công tác tuyên truyền, cổ động ở cơ sở. Trước hết,
phải sử dụng có hiệu quả các phương tiện hiện có, như sách, báo, tài liệu tuyên
truyền, các phương tiện thông tin đại chúng, các hoạt động văn hóa – văn nghệ, hệ
thống giáo dục quốc dân…
- Thời gian tổ chức buổi
tuyên truyền và hoạt động cổ động phải phù hợp với hoàn cảnh học tập, công tác
của đối tượng, để cổ động tham gia, tránh thời điểm như ca kíp, lúc mùa vụ v.v…
Thời điểm tuyên truyền cũng cần căn cứ vào nhu cầu thông tin của đối tượng. Khi
đối tượng đang khao khát, có nhu cầu được thông tin, muốn biết những vấn đề đó
thì hiệu quả tuyên truyền sẽ cao hơn.
Chọn vị trí đi lại thuận
lợi, nơi tập trung đông người, có điều kiện ánh sáng, không ồn ào, thuận lợi
cho tiếp nhận thông tin của đối tượng.
Ở xã, phường không nên tuyên
truyền thời gian quá dài. Việc tuyên truyền không đúng lúc cũng sẽ làm giảm
hiệu quả hoạt động tuyên truyền, cổ động.
3. Một số thao tác nghiệp vụ
của người cán bộ tuyên truyền miệng
Tuyên truyền miệng là hoạt động tuyên truyền
chủ yếu và có hiệu quả nhất ở cơ sở. Hiệu quả tuyên truyền miệng phụ thuộc trực
tiếp vào trình độ nghiệp vụ, nghệ thuật tuyên truyền miệng của báo cáo viên. Để
nâng cao chất lượng và hiệu quả tuyên truyền miệng, cần chú ý một số vấn đề
nghiệp vụ sau đây:
a. Tìm hiểu tâm lý và đặc
điểm đối tượng
Đối tượng tuyên truyền miệng ở cơ sở rất đa
dạng, có đặc điểm tâm lý, nghề nghiệp và điều kiện sống khác nhau và có nhu
cầu, sự quan tâm đến các vấn đề khác nhau. Vì vậy, am hiểu đặc điểm và tâm lý
đối tượng là yêu cầu đầu tiên để tiến hành có hiệu quả công tác tuyên truyền
miệng.
Muốn nắm được tâm lý, đặc
điểm đối tượng ở cơ sở cần nghiên cứu, tìm hiểu trước, thông qua thông báo,
trao đổi của các cơ quan, tổ chức. Nắm tâm lý, đặc điểm đối tượng qua nắm bắt
tư tưởng và dư luận xã hội, trao đổi với đội ngũ cán bộ chính quyền, đoàn thể ở
cơ sở. Qua việc quan sát trực tiếp phong trào quần chúng ở cơ sở, điều tra bằng
phiếu hỏi, quan sát trong các buổi báo cáo để thấy được thái độ, phản ứng của
người nghe. Khi nắm được thái độ, đặc điểm của đối tượng phải lựa chọn nội
dung, phương pháp tuyên truyền cho phù hợp để đạt hiệu quả cao.
b. Lựa chọn nội dung và chất
lượng thông tin
Nhu cầu nhận thức của con người rất phong
phú, đa dạng. Chỉ khi đáp ứng được nhu cầu, thỏa mãn những mong đợi, khát khao
của họ thì nội dung thông tin mới được họ tiếp thu tích cực, tự giác. Vì vậy,
lựa chọn nội dung tuyên truyền cần chú ý đến những yêu cầu thông tin của đối
tượng.
Khi trình bày các vấn đề, sự
kiện, báo cáo viên cần phân tích, khai thác các khía cạnh của bản chất sự kiện,
tổng hợp, khái quát định hướng suy nghĩ và hành động, thỏa mãn nhu cầu nhận
thức, trí tuệ và tình cảm của người nghe, để từ đó mà đạt được mục đích của
tuyên truyền.
Chất lượng thông tin phụ
thuộc vào mức độ “sâu” và mức độ “mới” của nó. Những thông tin được phân tích
trên cơ sở khoa học và thực tiễn sâu sắc, chỉ rõ bản chất, quy luật, dự báo xu
hướng phát triển sẽ giải đáp trúng những vướng mắc của người nghe. Đó là những
thôn tin có giá trị soi sáng về tư tưởng, hướng dẫn dư luận và hướng dẫn hành
động.
Giá trị thông tin mới rất
quan trọng, nên cần chú ý cập nhật thông tin và khai thác để tuyên truyền. Tuy
nhiên, với các thông tin cũ, sự phân tích sâu sắc, nhận xét, bình luận tinh tế,
dự báo có cơ sở khoa học, liên hệ thực tiễn gần gũi, sống động, phương pháp
trình bày hấp dẫn, lôi cuốn… cũng có thể được coi là mới với người nghe. Vì
vậy, đổi mới cách trình bày phù hợp với đối tượng là yêu cầu quan trọng của
tuyên truyền miệng.
c. Chuẩn bị đề cương bài nói
Hoạt động tuyên truyền miệng bao gồm xây dựng
nội dung và trình bày bài nói. Sự chuẩn bị chu đáo bài nói, đáp ứng được yêu
cầu tuyên truyền và yêu cầu của người nghe sẽ góp phần lớn vào thành công của
buổi nói chuyện. Đề cương tuyên truyền có thể là đề cương khái quát hoặc đề
cương chi tiết, thậm chí là một bài viết hoàn chỉnh, thường có những phần sau:
- Phần mở đầu, có tính chất giới thiệu vấn
đề và làm quen, có tác dụng tạo ra sự thân mật, gần gũi giữa người nói và người
nghe. Mở đầu cần định hướng sự theo dõi, chú ý của người nghe vào nội dung
tuyên truyền, giới thiệu những phần chính sẽ trình bày, thời gian sẽ kết thúc
và phương thức tiến hành để người nghe chủ động theo dõi.
Mở đầu cần ngắn gọn, súc
tích, tránh dài dòng, có thể mở đầu trực tiếp, bắc cầu, tương phản, dẫn câu của
lãnh tụ, danh nhân v.v…
- Phần nội dung, đây là phần quan trọng nhất
của bài nói. Chuẩn bị từng vấn đề, từng sự kiện, theo lôgic, tầm quan trọng
hoặc tiến trình lịch sử, có nguồn gốc, nguyên nhân trực tiếp, gián tiếp; những
nét diễn biến chính, xu hướng vận động, ý kiến đánh giá bình luận; thái độ và
biện pháp xử lý. Kết thúc mỗi vấn đề cần tóm tắt, chốt lại những ý chính. Cấu
trúc của bài nói phải đảm bảo tính lôgic chặt chẽ, hợp lý.
Với từng vấn đề, cần phải
dùng các luận điểm, luận cứ, luận chứng, các ví dụ xác đáng, tiêu biểu, rõ ràng
để giải thích và chứng minh. Giữa các phần có chuyển ý để cho người nghe thấy
liền mạch trong suy nghĩ. Dẫn chứng các câu nói phải trung thực, có xuất xứ.
Tùy theo từng loại bài nói mà ta chú ý đến các nội dung lý luận, tính thực
tiễn, phù hợp với đối tượng.
- Phần kết luận có giá trị khái quát những
điều đã trình bày, nhấn mạnh điểm chính, khêu gợi suy nghĩ và cổ vũ hành động,
định hướng tư tưởng để người nghe nâng cao niềm tin và xác định rõ trách nhiệm
của mình trong thực hiện nhiệm vụ được giao.
d. Sử dụng ngôn ngữ và phong
cách trong buổi nói chuyện
Ngôn ngữ là công cụ chủ yếu của người tuyên
truyền miệng. Ngôn ngữ còn là biểu hiện của nhân cách, đạo đức, năng lực trí
tuệ, khí chất và thể lực của người nói. Cùng với lời nói, các biểu hiện của nét
mặt, nụ cười, ánh mắt, cử chỉ… cũng có tác dụng quan trọng, tạo nên thành công
của buổi nói chuyện. Nói chuyện tin vui, nói chuyện buồn, thông báo việc quan
trọng… phải có thái độ khác nhau. Thông qua những biểu hiện của người nói,
người nghe hiểu được thái độ, tình cảm, niềm vui, nỗi buồn, sự xót xa, sự mỉa
mai phê phán, thái độ kiên quyết ủng hộ, tình yêu thương, niềm tin vào lẽ phải
của người nói. Những biểu hiện ngoài lời nói của tuyên truyền miệng được hình
thành ổn định, trở thành phong cách riêng của mỗi người. Biểu cảm và phong cách
cùng với lời nói làm cho nội dung tuyên truyền càng trở nên hấp dẫn hơn. Điều
chủ yếu của việc thể hiện phong cách, biểu cảm là phải chân thực, không giả
tạo, không mang tính biểu cảm, để khỏi gây ức chế cho người nghe.
e. Chủ động xử lý các tình
huống trong lúc nói chuyện
Với tinh thần hướng về cơ sở, tăng cường đối
thoại, người nói nên chuẩn bị tinh thần sẵn sàng trao đổi với người nghe. Dù
câu hỏi ở dạng nào cũng cần chủ động, trao đổi chân tình, không lãng tránh hoặc
tỏ ra lúng túng, gây phản ứng với người nghe.
Khi tiến hành buổi nói chuyện,
người nói là “vai chính”, vì vậy, cần phải chủ động xử lý các tình huống có thể
xảy ra:
- Lựa chọn cách mở đầu và
các bước tiếp theo một cách hợp lý, nhằm cuốn hút người nghe theo chủ đề, làm
tăng sự hưng phấn, sự chú ý của người nghe.
- Lựa chọn phương thức tiến
hành phù hợp với đối tượng và vấn đề cần trình bày.
- Chú ý quan sát và phát
hiện các quá trình tâm lý diễn ra ở người nghe khi trình bày để điều chỉnh nội
dung, cách nói, nhịp điệu và thời gian cho phù hợp. Thậm chí phải kích thích
người nghe, tạo ra nhu cầu mới cho họ, dẫn dắt họ theo định hướng của mình, hứa
hẹn đáp ứng nhu cầu mới trong dịp khác. Biết nghỉ giải lao, biết dừng câu
chuyện, biết kết thúc bài nói đúng lúc. Không kết thúc sớm quá, và tốt nhất là
không quá giờ, không kết thúc đột ngột mà có sự chuẩn bị trước về nội dung và
ngữ điệu để kết thúc đúng lúc, kết thúc có hậu bằng sự hứa hẹn gặp lại, cảm ơn
sự chú ý.
4. Cách viết một bản tin
phục vụ đài truyền thanh ở cơ sở
a. Tổ chức hoạt động truyền
thanh ở xã, phường, thị trấn
Hoạt động truyền thanh, xã, phường, thị trấn
có vai trò, vị trí rất quan trọng trong việc tuyên truyền đường lối, chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, các chủ trương, nghị quyết
của cấp ủy, chính quyền địa phương về các lĩnh vực của đời sống ở cơ sở.
Truyền thanh ở xã, phường,
thị trấn có chức năng như một tờ báo (báo nói), là cơ quan ngôn luận của cấp
ủy, chính quyền xã, phường, thị trấn, là tiếng nói của nhân dân ở cơ sở, hoạt
động dưới sự chỉ đạo của đảng ủy, Ủy ban nhân dân. Ban Tuyên giáo cơ sở tham
mưu và trực tiếp giúp cấp ủy cơ sở chỉ đạo về nội dung tư tưởng chính trị của
các hoạt động truyền thanh.
Hoạt động truyền thanh xã,
phường, thị trấn cần phải có chương trình phong phú, đa dạng, hấp dẫn, đáp ứng
yêu cầu của nhân dân và nhiệm vụ tuyên truyền trong những thời điểm khác nhau.
Nội dung chương trình cần tập trung vào các vấn đề:
- Tóm tắt những chủ trương,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước mới ban hành, nhất là những chủ
trương, chính sách, pháp luật có liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân
địa phương, đơn vị.
- Truyền đạt các chủ trương,
nghị quyết, quyết định mới của đảng ủy và chính quyền địa phương. Thông báo nội
dung sinh hoạt của các tổ chức đảng, đoàn thể ở địa phương và tình hình những
sự kiện, vấn đề thời sự đang diễn ra tại địa phương, đơn vị.
- Kịp thời biểu dương những
gương người tốt, việc tốt, phê bình nhắc nhở những hiện tượng tiêu cực mới nảy
sinh trên địa bàn; cổ động các phong trào thi đua, các cuộc vận động đang diễn
ra tại địa phương, đơn vị.
- Phổ biến khoa học, kỹ
thuật, những kiến thức cần thiết đối với các hoạt động kinh tế - xã hội đang
diễn ra, những tri thức và kinh nghiệm bổ ích đối với đời sống của nhân dân địa
phương, đơn vị.
- Các tiết mục văn nghệ do
người địa phương thực hiện.
Liều lượng của các nội dung
nói trên được điều chỉnh linh hoạt, phù hợp với tình hình của địa phương trong
từng thời gian.
Các tin, bài của buổi phát
thanh cần ngắn gọn, dễ hiểu, thiết thực, sát với thực tế địa phương và phải
được duyệt trước khi phát. Cán bộ đài truyền thanh phải được bồi dưỡng chuyên
môn, nghiệp vụ cần thiết, có trình độ lý luận chính trị nhất định, có thể thay
nhau đảm nhiệm việc duyệt tin, bài khi có người đi vắng.
Chỉ đạo truyền thanh xã,
phường, thị trấn cần khắc phục khuynh hướng buông lỏng, khoán trắng cho một số
cán bộ thông tin, văn hóa, làm cho hiệu quả tuyên truyền qua đài truyền thanh
không cao. Cần cảnh giác các lực lượng xấu lợi dụng đài truyền thanh để tuyên
truyền, kích động quần chúng dưới các chiêu bài chống quan liêu, tham nhũng…
b. Cách viết một bản tin
- Bản tin, được hiểu và tin về những sự kiện
quan trọng có tính thời sự và có ảnh hưởng đến mọi người. Đó là sự kiện vừa xảy
ra, có thật trong cuộc sống. Nó đáp ứng yêu cầu thông tin và tạo nên sự hứng
thú cho người đọc, người nghe, bởi tính chân thực, nhiều hình, nhiều vẻ, có
tính thời sự và góp phần nâng cao nhận thức, hình thành tình cảm, thái độ cho
người nghe.
- Khi viết tin cho đài
truyền thanh, phát thanh ở cơ sở phải tuân theo một số nguyên tắc sau:
+ Câu đầu tiên của tin không
dài quá, trả lời được các câu hỏi sau: Cái gì? Ai? Ở đâu? Thời gian nào? Tại
sao? Như thế nào?.
+ Bắt đầu vào bản tin phải
nêu được sự việc đáng lưu ý nhất, có thể là chi tiết quan trọng nhất của sự
kiện chứa đựng chủ đề tư tưởng; cũng có thể vào đầu phải giản dị, cụ thể, làm
nổi bật sự kiện.
+ Tin cần được viết theo thứ
tự: chủ yếu, quan trọng (nghĩa là cái nền, cái cốt lõi) lên đầu. Dựa trên những
nguyên tắc cơ bản này, người viết luôn phải khách quan, không suy diễn sự kiện,
không liên tưởng theo ý chủ quan của riêng mình. Người viết tin đưa ra nguồn
tin tư liệu phải có độ chính xác cao, không bịa đặt. Mô thức kết cấu của tin có
thể là: mô thức hình xoáy ốc, mô thức kết cấu nhân - quả.
- Viết tin cần phải đảm bảo
những yêu cầu sau:
+ Đầu đề tin thường biểu đạt cô đọng nội
dung, thể hiện bản chất chính trị và tạo ra sự chú ý, quan tâm của công chúng
đối với tin. Tùy theo từng loại tin mà trình bày đầu đề cho phù hợp. Có một số
dạng đầu đề đầu đề là nội dung của sự kiện hoặc là phán đoán về nội dung quan
trọng về sự kiện. Đầu đề thể hiện tín đặc trưng của sự kiện, tạo ấn tượng mạnh
trong tâm lý người đọc. Đầu đề trích dẫn: đưa nguyên văn một câu nói hoặc một ý
quan trọng của một nguồn tin có trách nhiệm về sự kiện đó. Đầu đề số liệu: đưa
những con số với tư cách là chi tiết thông tin quan trọng nhất đáng chú ý nhất
về sự kiện.
+ Mở đầu của tin là phần đặc biệt quan trọng,
giữ vai trò chủ đạo, dẫn dắt. Vì vậy, mở đầu phải sinh động, hấp dẫn, có nhiều
cách để mở đầu:
Mở đầu trực tiếp: là thông tin trực tiếp về
sự kiện. Đây là kiểu mở đầu phổ biến nhất, nhanh, kịp thời.
Mở đầu sự kiện: là điều đưa thông tin về
các điều kiện trong đó xảy ra sự kiện.
Mở đầu giai thoại: Đưa những chi tiết thông
tin có kịch tính, nhằm tác động mạnh vào tâm lý của người đọc, tạo ra sự chú ý
ngay từ đầu cho người nghe.
+ Phần thân tin:
Thân tin chứa đựng nội dung thông tin chủ yếu
của tin, thỏa mãn các câu hỏi về quy mô, tính chất, diễn biến của sự kiện, các
yếu tố tác động đến sự kiện và quan hệ của sự kiện đó đến các vấn đề, sự kiện
khác. Các chi biết ở thân tin được liên kết với nhau trong một lôgic nhất định,
tùy theo các mô thức kết cấu của tin.
+ Phần Kết luận của tin thường có xu hướng
vận động, ý nghĩa xã hội của sự kiện.
Nói tóm lại, viết tin là một
hoạt động sáng tạo, tùy theo sự gợi hướng của sự kiện và yêu cầu tuyên truyền,
cổ động ở cơ sở mà người viết tin lựa chọn viết cho phù hợp.
+ Ngôn ngữ của tin:
Ngôn ngữ là một trong những
phương tiện cơ bản để ghi nhận, truyền đạt sự vật mới xảy ra, đang xảy ra hoặc
sắp xảy ra. Do quy định của những chức năng cơ bản của tin nên ngôn ngữ cũng
mang tính đặc thù: ngôn ngữ sự kiện. Các từ và các đơn vị mệnh đề, câu, đều tập
trung để phán đoán trực tiếp về sự kiện. Trong tin ít sử dụng các mỹ từ, tính
từ, hoặc các kiểu câu phức hợp có kết cấu nhiều tầng.
Ngôn ngữ tin thường có đặc
điểm là trực tiếp, cụ thể, xác thực, cô đúc, ngắn gọn, súc tích; rõ ràng, khúc
triết, sinh động, thường dùng câu ngắn; luôn đổi mới và nhiều hình, nhiều vẻ.
Văn phong phải quảng đại quần chúng, sát hợp với trình độ nhận thức của công chúng.
Tránh dùng từ mượn của nước ngoài khi ngôn ngữ quốc gia đã có. %
------------------------------
PHƯƠNG PHÁP TUYÊN TRUYỀN MIỆNG
1. Một số vấn đề chung về tuyên truyền miệng
1.1 Khái niệm tuyên truyền
miệng
Tuyên truyền miệng là một
hình thức đặc biệt của tuyên truyền, được tiến hành thông qua sự giao tiếp trực
tiếp giữa người tuyên truyền với đối tượng tuyên truyền, chủ yếu bằng lời nói
trực tiếp.
1.2 Những ưu thế đặc trưng
của tuyên truyền miệng
- Là sự giao tiếp trực tiếp
để cung cấp và trao đổi thông tin nên sử dụng được mọi ưu thế của giao tiếp
trực tiếp. Có thể giải thích được những vấn đề mà vì một lý do nào đó không thể
đưa công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Tuyên truyền miệng qua
hình thức đối thoại giữa người nói với người nghe, là một hình thức tuyên
truyền dân chủ nhất, thực hiện được chức năng thông tin cả 2 chiều, không mang
tính áp đặt.
- Tuyên truyền miệng có thể
sử dụng triệt để nhất ưu thế của ngôn ngữ nói và "kênh" phi ngôn ngữ.
- Tuyên truyền miệng có điều
kiện và nhiều khả năng tiến hành một cách thường xuyên và rộng rãi ở nhiều nơi,
trong các điều kiện khác nhau. Báo cáo viên có khả năng thích nghi với các điều
kiện và hoàn cảnh cụ thể để tiến hành nhiệm vụ tuyên truyền được giao.
1.3 Những hạn chế của tuyên
truyền miệng
- Lời nói có tính tuyến
tính, chỉ đi một chiều, không quay trở lại. Vì vậy, người nói cần thận trọng,
người nghe cần chú ý nếu không, không lấy lại được lời đã nói và không nghe
được lời báo cáo viên đã nói.
- Phạm vi về không gian có
giới hạn, do khả năng phát ra của lời nói trực tiếp (dù đã có phương tiện
khuyếch đại) và khả năng tập hợp một số đông tại một địa điểm và thời điểm nhất
định.
- Dễ chịu tác động của các
yếu tố ngoại cảnh do tập trung đông người và ở các địa điểm khác nhau.
1.4 Những nguyên tắc cơ bản
của tuyên truyền miệng
- Tính Đảng là nguyên tắc
cơ bản hàng đầu của công tác tuyên truyền miệng. Khi tuyên truyền phải đúng với
định hướng, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Tính chiến đấu của công
tác tuyên truyền nói chung và là ưu thế của tuyên truyền miệng nói riêng. Tuyên
truyền miệng phải khẳng định và bảo vệ cái đúng, xây dựng những tư tưởng tình
cảm lành mạnh, uốn nắn những quan điểm tư tưởng lệch lạc, đấu tranh chống các
luận điểm phản tuyên truyền, các biểu hiện tiêu cực.
- Tính quần chúng: nội dung
tuyên truyền, các biểu hiện tiêu cực, mối quan hệ giữa nhiệm vụ tuyên truyền
đặt ra và yêu cầu, nguyện vọng, lợi ích của người nghe. Bác Hồ đã dạy
"Người tuyên truyền bao giờ cũng phải tự hỏi viết cho ai xem, nói cho ai
nghe".
- Tính khoa học, chân thực, khách
quan: đòi hỏi tuyên truyền miệng phải nói đúng sự thật, không tránh né,
không cực đoan, một chiều, làm cho mọi người hiểu rõ cơ sở khách quan, khoa
học, có đủ căn cứ lý luận và thực tiễn để nâng cao sức thuyết phục, làm cho
người nghe tin tưởng vào sự đúng đắn của vấn đề tuyên truyền đặt ra.
1.5 Phương châm tiến hành
công tác tuyên truyền miệng
- Toàn Đảng phải làm công tác tuyên
truyền miệng. Trước hết, các cấp bộ Đảng, cán bộ Đảng phải tích cực làm
công tác tuyên truyền miệng. Thông qua các chương trình công tác, đi thực tiễn
cơ sở để chủ động tuyên truyền chủ trương, chính sách cho cán bộ, đảng viên và
quần chúng nhân dân. Mọi cán bộ, đảng viên phải chủ động nắm vững đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chương trình công tác
của đảng bộ, chi bộ để kịp thời thông tin, giải thích cho đảng viên và nhân dân
hiểu và thực hiện.
- Chủ động và tích cực phục vụ
nhiệm vụ chính trị. Tuyên truyền phải đi trước một bước và phải dự báo
được tình hình, tránh cho đảng viên, và nhân dân mắc vào những sai lầm tự phát.
Phân tích và hướng dẫn dư luận xã hội là một trong những chức năng cơ bản của
công tác tuyên truyền miệng.
- Nhạy bén, kịp thời. Bám
sát tình hình thời cuộc, tình hình thực tiễn, những vấn đề mới nảy sinh để kịp
thời tuyên truyền giải thích. Tình hình thế giới và trong nước có nhiều diễn
biến phức tạp càng đòi hỏi phải chủ động, nhạy bén để nâng cao hiệu quả công
tác tuyên truyền.
- Cụ thể, thiết thực. Tuyên
truyền miệng phải cụ thể, thiết thực, có số liệu, tư liệu, sự kiện, căn cứ, lập
luận rõ ràng, ngắn ngọn, súc tích, dễ hiểu, làm cho nội dung tuyên truyền trở
nên phong phú, sinh động, hấp dẫn, gợi cảm, có sức thuyết phục cao, đáp ứng yêu
cầu của đối tượng.
- Kết hợp xây và chống.
Tuyên truyền miệng phải kết hợp hài hòa giữa xây và chống, giữa biểu dương cái
tốt, cái mới phê phán cái sai, cái lạc hậu, khắc phục tính chất cực đoan một
chiều, dẫn tới những hậu quả xấu của kết quả tuyên truyền.
- Thường xuyên, liên tục, có hệ
thống. Tuyên truyền miệng phải tiến hành thường xuyên, liên tục, có hệ
thống, vừa có những đợt tập trung cao điểm, vừa thường xuyên, liên tục, không
để dứt quãng.
- Phối hợp nhiều hình thức, biện
pháp và lực lượng. Tuyên truyền miệng phải kết hợp nhiều hình thức,
phương pháp, sử dụng và phối hợp nhiều lực lượng, nhất là với các phương tiện
thông tin đại chúng, hoạt động văn hóa văn nghệ và sinh hoạt, hội họp...
2. Phương pháp và kinh
nghiệm chuẩn bị đề cương một bài tuyên truyền miệng
Tuyên truyền miệng không chỉ
là một khoa học mà còn là một nghệ thuật - nghệ thuật nói chuyện trước công
chúng. Để có thể trở thành người nói giỏi, nói hay, người cán bộ Đảng, người
báo cáo viên, tuyên truyền viên không chỉ nắm vững cơ sở khoa học của hoạt động
tuyên truyền miệng mà còn phải biết sử dụng những kỹ năng, kỹ xảo, nghiệp vụ
chuẩn bị bài nói trước người nghe. Để chuẩn bị cho một bài nói, thường phải trả
lời cho các câu hỏi: Nói để làm gì? Nói về vấn đề gì? Nói ở đâu, vào thời gian
nào? Nói cho ai nghe? Lấy tài liệu nào, ở đâu để nói? Bố cục bài nói như thế
nào?...
2.1 Xác định mục đích của
bài nói
- Mục đích chung của công
tác tuyên truyền là nâng cao nhận thức, hình thành niềm tin và cổ vũ hành động
người nghe. Mục đích của bài nói bao giờ cũng cần đạt được 3 yêu cầu là:
- Nâng cao nhận thức,
- Xây dựng, củng cố niềm
tin,
- Cổ vũ đi tới hành động.
Tuỳ theo mỗi nội dung và yêu
cầu của đối tượng để xử lý mối quan hệ của 3 yêu cầu đó.
2.2 Xác định chủ đề bài nói
Chủ đề bài nói cần đáp ứng
yêu cầu cơ bản: thoả mãn nhu cầu người nghe (tính thời sự, tính thiết thực, có
thông tin mới), trong thời gian cho phép. Để xác định chủ đề bài nói, cần căn
cứ vào 3 yếu tố sau:
- Yêu cầu tư tưởng của cấp
uỷ theo chương trình kế hoạch.
- Yêu cầu của đối tượng
tuyên truyền thông qua cơ quan, tổ chức "đặt hàng".
- Dựa vào kinh nghiệm và
hiểu biết của báo cáo viên về đặc điểm đối tượng.
2.3 Tìm hiểu đặc điểm người
nghe (đối tượng)
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói: "Công tác tuyên truyền phải cụ thể, thiết thực. Tuyên truyền
cái gì? Tuyên truyền cho ai? Tuyên truyền để làm gì? Tuyên truyền cách thế
nào?". Như vậy, muốn cho bài nói thành công, người cán bộ Đảng, báo cáo
viên, tuyên truyền viên phải đặt câu hỏi: nói cho ai nghe? "Ai" ở đây
chính là đối tượng mà cán bộ tuyên truyền tác động đến. Phải nắm vững đối tượng
mà cán bộ tuyên truyền tác động đến.
- Phải nghiên cứu đặc điểm
về mặt xã hội: giai cấp, dân tộc, nghề nghiệp, học vấn, giới tính, tuổi tác...
của người nghe.
- Nghiên cứu các đặc điểm về
tư tưởng và tâm lý - xã hội: quan điểm, chính kiến, động cơ, khuôn mẫu tư duy,
tâm trạng, trạng thái thể chất... của họ.
- Nghiên cứu về nhu cầu, thị
hiếu thông tin: thái độ của người nghe đối với nguồn thông tin và nội dung
thông tin; con đường, cách thỏa mãn thông tin của đối tượng.
Trên cơ sở đó mà lựa chọn
nội dung, cách thức tuyên truyền cho phù hợp. Có như vậy mới đem lại hiệu quả
cao cho bài nói chuyện.
- Tìm hiểu đối tượng có thể
dựa trên 3 cách:
+ Tìm hiểu qua tổ chức, cá
nhân người đến "đặt hàng", yêu cầu nói.
+ Tìm hiểu qua những báo cáo
viên đã trình bày một lần với đối tượng đó.
+ Quan quan sát tại chỗ khi
tiếp xúc với đối tượng, từ đó có sự điều chỉnh phù hợp.
2.4 Không gian, thời gian
diễn ra buổi nói chuyện
a) Không gian diễn ra buổi nói chuyện
Đây là một vấn đề người
tuyên truyền phải quan tâm bởi nó có ảnh hưởng đến hiệu quả tuyên truyền. Có
thể có những trường hợp sau đây:
- Nói trong phòng họp với
vài ba chục người nghe.
- Nói trong hội trường rộng.
- Nói ở ngoài trời.
Ngoài ra, cách bài trí trong
phòng họp, trong hội trường, các yếu tố ngoại cảnh khác cũng tác động đến tâm
lý người nghe.
Báo cáo viên cần hỏi trước
người "đặt hàng" để có thể chủ động nắm được những thông tin cơ bản
về không gian buổi nói chuyện. Ví dụ, hỏi người mới nói về: nói ở đâu, khoảng
bao nhiêu người nghe, có micrô không, có bảng không... Ngoài ra, khi bước vào
hội trường, khi Ban Tổ chức còn chuẩn bị và giới thiệu, báo cáo viên cần tranh
thủ quan sát để có sự điều chỉnh kịp thời.
b) Thời gian diễn ra buổi nói chuyện
Buổi nói chuyện diễn ra vào
sáng, chiều hay tối cũng tạo nên những thuận lợi hoặc khó khăn cho việc nhận
thông tin của người nghe. Thông thường vào buổi sáng người nghe tỉnh táo, tiếp
thu thông tin tốt hơn; đầu giờ chiều người nghe thường mệt mỏi, buổi tối hay bị
phân tán... Trong mỗi hoàn cảnh đòi hỏi người tuyên truyền phải quan tâm đến
việc sắp xếp nội dung bài nói và phương pháp diễn đạt sinh động để phát huy
hoặc khắc phục trạng thái tinh thần, tâm lý trên của đối tượng.
Ngoài ra, thời gian nói
chuyện dễ bị điều chỉnh, thay đổi theo yêu cầu của người tổ chức. Ví dụ, khi
đến nói hoặc đang nói người tổ chức mới đề nghị cho nghỉ sớm, không nghỉ giải
lao, gắn thêm các công việc của cơ quan... Người báo cáo viên cũng cần nắm được
các thông tin này sớm để chủ động điều chỉnh.
2.5 Thu thập, nghiên cứu và
xử lý tài liệu
Trong điều kiện bùng nổ
thông tin toàn càn hiện nay, bất cứ một lĩnh vực nào cũng có rất nhiều tài
liệu. Vấn đề đặt ra với người tuyên truyền là thu thập, nghiên cứu, xử lý tài
liệu thế nào cho hợp lý. Yêu cầu đặt ra là: tài liệu phải phục vụ chủ đề bài
nói một cách sát hợp nhất. Quá trình nghiên cứu tài liệu là quá trình biến tri
thức trong tài liệu thành nhận thức của người tuyên truyền để truyền đạt lại
cho người nghe.
a) Chọn tài liệu
Nguồn tài liệu của báo cáo
viên, tuyên truyền viên rất phong phú. Trước hết là các sách kinh điển của Mác,
Lê-nin, Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng, Nhà nước, đoàn thể. Người làm công
tác tuyên truyền miệng phải có kiến thức, lý luận vững chắc và hệ thống về chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, để
trên cơ sở đó đáng giá, phân tích các sự kiện, hiện tượng được đề cập trong bài
nói.
- Các loại từ điển, số liệu
thống kê chính thức để tra cứu các khái niệm, khai thác số liệu cho bài nói.
- Các tạp chí nghiên cứu,
báo chí, sách chuyên khảo phù hợp với nội dung tuyên truyền là nguồn tài liệu
rất quan trọng. Qua các tài liệu này có thể thu thập khối lượng lớn kiến thức
có hệ thống cho nội dung bài nói.
- Sổ tay tuyên truyền, sổ
tay báo cáo viên là những tài liệu cung cấp nội dung và nghiệp vụ tuyên truyền
rất thiết thực, bổ ích.
- Các bản tin nội bộ, tài
liệu tham khảo (dùng cho báo cáo viên). Đặc biệt thông tin được cung cấp qua
hội nghị báo cáo viên định kỳ là nguồn thông tin chính thống quan trọng. Báo
cáo viên dựa vào đó để xây dựng bài nói.
- Ngoài ra, có thể sử dụng
các băng ghi âm, ghi hình do các cơ quan có trách nhiệm cung cấp, các thông tin
thu được nhờ nghiên cứu, tham quan thực tế các điển hình tiên tiến và các di
tích lịch sử - văn hóa.
Tóm lại, báo cáo viên có thể dùng
nhiều loại tài liệu, nhưng cần được theo các văn bản, tài liệu chính thống.
Người tuyên truyền còn phải biết khai thác một nguồn tài liệu sẵn có, đó là vốn
sống thực tế của bản thân.
Song, khi sử dụng những
nguồn tài liệu nói trên phải theo đúng quan điểm, đường lối của Đảng. Người cán
bộ tuyên truyền phải chịu trách nhiệm về việc phát ngôn của mình.
Cán bộ tuyên truyền giỏi là
người có vốn tri thức phong phú, vừa rộng, vừa sâu. Muốn vậy phải có ý thức tự
tích luỹ thường xuyên, liên tục, bằng nhiều cách khác nhau.
b) Đọc và nghiên cứu tài liệu
- Đọc tài liệu: đầu tiên đọc
lướt qua mục lục, lời chú, trên cơ sở đó hình thành nội dung, kết cấu bài nói.
Sau đó đọc kỹ, có phần tích, đánh giá, suy nghĩ. Có thể đọc cả tài liệu phản
diện để hiểu, phê phán, nâng cao tính chiến đấu cho bài nói.
- Ghi chép: ghi tóm tắt
những điều đã đọc được. Có thể ghi chú thêm lời bình luận ra lề, hoặc bổ sung
những ý kiến của mình khi ngôn ngữ của tài liệu quá cô đọng hoặc quá trừu
tượng. Khi cần giữ lại ý kiến của tác giả một cách hoàn chỉnh có thể trích
nguyên văn (ghi rõ tên tác giả, tác phẩm, nơi xuất bản, lần xuất bản, số
trang).
Đối với người báo cáo viên,
nên có cái túi hồ sơ phân loại theo vấn đề (kinh tế, chính trị, đối ngoại...)
theo dõi đối tượng nghiên cứu (như về Trung Quốc, Nga, Mỹ...). Mỗi khi có thông
tin gì về các nội dung đó, cần cắt, dán để vào trong túi, hoặc tạo mục trong
máy tính để khi có yêu cầu thì lấy ra đọc lại và xử lý.
c) Một số lưu ý khi sử dụng
tài liệu
Quá trình thu thập, nghiên
cứu, xử lý tài liệu đối với người tuyên truyền là quá trình nạp thông tin. Chọn
và sắp xếp tài liệu theo trình tự lôgic và thời gian để hình thành đề cương.
Chú ý chỉ sử dụng những tài liệu rõ ràng, chính xác.
Đọc, ghi chép và xử lý thông
tin, đa thông tin vào "bộ nhớ" trong não của người tuyên truyền là
điều hết sức quan trọng, bởi vì chỉ có liên tục tích luỹ mới có kiến thức rộng
và sâu. Còn sử dụng những thông tin, tư liệu đã có lại là tài năng và nghệ
thuật. Nghệ thuật ấy có được là nhờ vào bản lĩnh, khả năng, vào quá trình tích
lũy, rèn luyện của báo cáo viên. Nó góp phần quan trọng vào thành công của bài
nói.
2.6 Xây dựng đề cương bài
nói
Đề cương bài nói chính là
dàn bài chi tiết thể hiện mục đích, yêu cầu và những nội dung cơ bản của bài
nói, là quá trình sắp xếp trên văn bản để người báo cáo viên căn cứ vào đó
trình bày những vấn đề định nói một cách đầy đủ, theo một trình tự hợp lý, nhằm
đạt hiệu quả cao nhất đồng thời là chương trình hoạt động của bào cáo viên
trong một buổi thuyết trình.
Đề cương không được quá sơ
sài, không làm rõ những nội dung và lý lẽ cần trình bày. Nhưng cũng không
biến đề cương thành một bài viết sẵn để đọc.
Mỗi đối tượng cụ thể nên có
một đề cương bài nói phù hợp.
Cấu trúc đề cương bài nói:
Cấu trúc đề cương bài nói:
Bài nói thường có 3 phần,
mỗi phần có chức năng riêng.
a) Phần mở đầu
Yêu cầu chung của phần mở
đầu gồm 3 mục tiêu cụ thể là:
- Giới thiệu và làm quen
(nếu đến nơi mới).
- Thông báo nội dung trình
bày.
- Thông báo thời gian và
phương thức tiến hành.
Đây là phần nhập đề, là bước
tiếp xúc đầu tiên với người nghe, do đó báo cáo viên phải mở đầu sao cho hấp
dẫn, kích thích hứng thú của người nghe và làm rõ chủ đề của bài nói. Lời mở
đầu cần tự nhiên, ngắn gọn.
Để thực hiện yêu cầu trên,
có hai cách vào đề là vào đề trực tiếp và vào đề gián tiếp.
Mở đầu trực tiếp là: giới
thiệu trực tiếp chủ đề nội dung bài nói. Hình thức này thường được thực hiện
với đối tượng quen, thời gian ngắn.
Mở đầu gián tiếp là đưa ra
một luận đề nào đó (gần với chủ đề bài nói) rồi dẫn dắt người nghe đến vấn đề
báo cáo viên định nói.
Cách vào đề gián tiếp có tác
dụng kích thích và làm tăng dần sự chú ý của người nghe, nhưng khi thực hiện
cần tránh sa đà, lạc nội dung.
Trong bài chuẩn bị, sau khi
xác định rõ cách vào đề, cần chuẩn bị nội dung của cách vào đề đó, chú ý phải
ngắn, gọn.
b) Phần chính (nội dung bài
nói)
Đây là phần quan trọng nhất
của bài nói, giải quyết vấn đề mà báo cáo viên đặt ra theo một trình tự nhất
định.
Về nguyên tắc bài nói có thể
đề cập đến mọi vấn đề của đời sống xã hội. Từ những vấn đề kinh tế, chính trị,
văn hóa đến vấn đề khoa học, kỹ thuật, an ninh, quốc phòng, đối ngoại...; từ
những vấn đề lý luận, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đến
các sự kiện đã và đang diễn ra trong đời sống xã hội... Nhưng để tạo khả năng
thu hút sự chú ý của người nghe, đạt mục đích tuyên truyền đặt ra, khi lựa chọn
nội dung bài nói cần chọn những vấn đề mang các tác dụng sau:
Một là, phải cung cấp cho người
nghe những thông tin mới, như một bình thông nhau chứa tin. Mỗi nhánh của bình
chứa tin là một vai giao tiếp. Quá trình giao tiếp, trao đổi thông tin là mở
van giữa hai bình để tin từ bình nay (người nói) chảy sang bình kia (người
nghe). Nếu tin của hai bình ngang nhau tức là hết điều để nói, quá trình trao
đổi thông tin trên thực tế không diễn ra nữa. Để quá trình này diễn ra liên
tục, giữa người nói và người nghe phải có độ chênh lệch về thông tin, về sự
hiểu biết xung quan nội dung đang đề cập. Độ chênh lệch về thông tin, về sự
hiểu biết đó chính là cái mới của nội dung bài nói.
Cái mới của nội dung tạo khả
năng thu hút sự chú ý của người nghe, gây được lòng tin cho công chúng, thuyết
phục những người có quan điểm khác hoặc trái với quan điểm cần thuyết phục.
Trong tuyên truyền miệng,
cái mới không chỉ được hiểu là cái chưa hề được đối tượng biết đến mà còn là
một phương pháp tiếp cận mới, cách trình bày mới, độc đáo, một nhận định, đánh
giá mới về cái đã biết. Cái mới cũng có thể là một kinh nghiệm được tích luỹ,
một sự kiện, một hiện tượng phát sinh xung quanh những vấn đề đã được thông tin
trước đây cho người nghe.
Để tạo ra cái mới cho nội
dung bài nói, người báo cáo viên cần thường xuyên tích luỹ tư liệu, tài liệu để
làm giàu, phong phú sự hiểu biết; tìm tòi, sáng tạo cách trình bày, tiếp cận
mới đối với vấn đề; rèn luyện năng lực bình luận, đánh giá thông tin; tích cực
nghiên cứu thực tế, lăn lộn trong phong trào cách mạng của quần chúng để phát
hiện, nắm bắt cái mới; tổng kết những kinh nghiệm hay từ thực tiễn đời sống của
nhân dân.
Hai là, phải đáp ứng một cách cao
nhất yêu cầu thông tin của một loại công chúng cụ thể.
Nội dung bài nói do mục đích
của công tác giáo dục chính trị tư tưởng và nhu cầu thỏa mãn thông tin của đối
tượng quy định. Nhu cầu của thông tin xuất hiện do nhu cầu của hoạt động nhận
thức (nghe để biết hoặc nghe để biết và để làm). Hoạt động thực tiễn của công
chúng rất đa dạng, nhu cầu thông tin cũng đa dạng. Không thể chọn một nội dung
nói cho nhiều đối tượng khác nhau. Nội dung bao giờ cũng hướng tới một đối
tượng, một nhóm người nghe cụ thể.
Trong trường hợp công chúng
chưa xuất hiện nhu cầu thông tin về vấn đề quan trọng nào đó, mà vấn đề đó lại
được đặt ra do yêu cầu giáo dục chính trị tư tưởng thì cần chủ động hướng dẫn,
khơi gợi, kích thích sự quan tâm ở họ. Chỉ khi nào ở người nghe xuất hiện nhu
cầu thông tin, đòi hỏi được đáp ứng thì khi đó ở họ mới có tâm thế, thái độ sẵn
sàng tiếp nhận thông tin, có những hành động nhằm thỏa mãn nhu cầu đó (tìm tài
liệu để đọc, đến hội trường để nghe nói chuyện và chú ý lắng nghe...).
Việc phân loại đối tượng
người nghe, nắm vững nhu cầu thông tin, biết kích thích và thường xuyên đáp ứng
yêu cầu thông tin của đối tượng, vừa là yêu cầu, vừa là điều kiện đảm bảo sự
thành công của bài nói.
Ba là, bài nói phải mang tính thời
sự, tính cấp thiết, phản ánh những vấn đề nóng bỏng của cuộc sống.
Giá trị và sức lôi cuốn
người nghe, ý nghĩa chỉ đạo tư tưởng và hành động của nội dung bài nói do thời
điểm đưa tin, thời điểm tổ chức buổi nói chuyện quyết định. Nếu buổi nói chuyện
được tổ chức đúng thời điểm, thì sức thu hút người nghe càng lớn. Ngược lại nếu
triển khai chậm, thông tin thiếu tính thời sự thì sức hấp dẫn bị hạn chế, hiệu
quả công tác tuyên truyền kém tác dụng.
Để đáp ứng yêu cầu này, một
mặt người tuyên truyền phải nắm vững chương trình, kế hoạch của cơ sở Đoàn mình
hoặc của Đoàn cấp trên đề ra; mặt khác, bằng bản lĩnh chính trị, sự nhạy cảm và
tính năng động, sáng tạo, cán bộ tuyên truyền có thể chọn trong số những vấn đề
lý luận và thực tiễn cấp bách nhất, những sự kiện lớn, đang thu hút sự quan tâm
của đông đảo quần chúng, tham mưu cho cấp uỷ làm chủ đề cho các buổi nói
chuyện.
Những vấn đề và sự kiện như
vậy thường có sức mạnh thông tin, cổ vũ cao, tác động sâu sắc đến ý thức và
hành vi của con người.
Bốn là, bài nói phải đảm bảo tính
tư tưởng và tính chiến đấu.
Khác với bài diễn thuyết của
các nhà hùng biện, bài nói của báo cáo viên có mục đích tư tưởng rất rõ rệt.
Mục đích ấy do chức năng, nhiệm vụ và hoạt động đặc thù của công tác tuyên
truyền miệng quy định. Bằng lời nói, nghệ thuật sử dụng ngôn từ, nội dung tuyên
truyền miệng dù theo chủ đề nào, cũng đặt ra không chỉ mục đích thông tin mà
quan trọng hơn là mục đích tác động về mặt tư tưởng (hình thành niềm tin, cổ vũ
con người). Cho nên, nội dung bài nói không chỉ đạt yêu cầu cung cấp thông tin
đa dạng, nhiều chiều, hấp dẫn mà quan trọng hơn là đạt tới yêu cầu định hướng
thông tin, định hướng tư tưởng về các chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, về các sự kiện chính trị trọng đại trong nước và
trên thế giới, về chủ trương, chương trình công tác của đơn vị, từ đó chủ động
giải thích cho công chúng nhận thức đúng hơn, sâu hơn, thuyết phục công chúng
có niềm tin và hành động tích cực.
Tính tư tưởng, tính chiến
đấu đòi hỏi cán bộ tuyên truyền, khi thông tin về những quan điểm khác nhau
phải có định hướng, phân tích theo lập trường, quan điểm của Đảng. Sẵn sàng
dùng lập luận chặt chẽ, lý lẽ sắc bén, dẫn chứng sát thực, sinh động có tính
thuyết phục cao, để khẳng định và bảo vệ quan điểm, chủ trương và đường lối
đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta.
Khi nêu các hiện tượng tiêu
cực, lạc hậu... phải tỏ rõ thái độ phê phán kiên quyết, đúng mức, tránh gây
hoài nghi, hoang mang, làm giảm lòng tin của công chúng bởi cái gọi là
"thông tin nhiều chiều" thiếu cơ sở khoa học, có khi thông tin còn bị
bóp méo, làm sai lệch bản chất của sự việc.
Phương pháp sử dụng trong
bài nói chủ yếu dùng phương pháp "quy nạp" và "diễn dịch",
chú ý phối hợp hài hoà hai phương pháp này.
Cần phân tích bản chất sự
kiện, vấn đề, lập luận và đưa ra cách lý giải các nội dung, dẫn chứng minh hoạ
(tư liệu, tài liệu, số liệu, thực tế...) làm rõ bản chất vấn đề, quan điểm...,
qua đó để định hướng tư tưởng.
Năm là, đề cương bài nói cần bố
cục rõ ràng, kết cấu chặt chẽ, lôgíc, có trọng tâm, trọng điểm phù hợp với quá
trình nhận thức, thể hiện cả phương pháp trình bày với từng vấn đề, quan điểm
được nêu ra.
Sáu là, đề cương bài nói phải thể
hiện được cả hai yêu cầu: nêu luận điểm và các thông tin, tư liệu làm ví dụ
chứng minh luận điểm đó. Trong mỗi phần cần nêu lên các luận điểm (nhận định)
chủ yếu. Sau mỗi luận điểm, nhận định phải đưa ra được một số ví dụ, số liệu
chứng minh cho luận điểm đó. Tuỳ theo khả năng, trí nhớ của báo cáo viên, cần
thể hiện rõ từng luận điểm và các ví dụ chứng minh trong đề cương (trong đề
cương cũng cần dự kiến tình huống có các câu hỏi người nghe đặt ra. Người báo
cáo viên phải chủ động trả lời, đối thoại, tạo nên không khí dân chủ trong
tuyên truyền miệng).
c) Phần kết luận
Đây là phần tổng kết bài
nói, cũng cố nhận thức người nghe và cổ vũ hành động. Yêu cầu chung của phần
kết luận là: tóm tắt, nhấn mạnh nội dung, cổ vũ hành động, tạo mối giao lưu,
tình cảm giữa người nói và người nghe. Phần này cũng cần ngắn gọn, tránh dài dòng.
Đề cương bài nói nên viết
trên giấy một mặt. Chữ viết rõ ràng để có thể đọc những đoạn khi cần thiết.
Viết xong cần đọc, kiểm tra kỹ.
Quá trình chuẩn bị bài nói
là quá trình xác định chủ đề, mục đích, yêu cầu bài nói, thu thập, tích luỹ tài
liệu, hình thành đề cương, lựa chọn phương pháp, đồng thời là quá trình ghi nhớ
để sẵn sàng cho bước tiếp theo: trình bày bài nói. Do đó, chuẩn bị tốt là đảm
bảo 50% thành công của bài nói. Phần còn lại phụ thuộc vào phương pháp trình
bày.
3. Phương pháp và nghiệp vụ
trình bày bài tuyên truyền miệng
Phương pháp tuyên truyền
miệng là khoa học về sự giao tiếp trực tiếp giữa người nói và người nghe. Do
vậy, kỹ năng trình bày bài nói có ý nghĩa quyết định đến kết quả nội dung tuyên
truyền miệng của người báo cáo viên, người cán bộ Đoàn.
3.1 Một số cơ sở khoa học
của công tác tuyên truyền miệng
a) Cơ sở tâm lý của hoạt
động tuyên truyền miệng
- Tuyên truyền miệng là một
hình thức tuyên truyền thông qua giao tiếp trực tiếp giữa người tuyên truyền
với đối tượng tuyên truyền. Vì vậy, sự vận dụng khoa học về tâm lý đóng vai trò
hết sức quan trọng. Người báo cáo viên chẳng những phải chuẩn bị tốt tâm lý của
mình để tác động vào nhận thức, tư tưởng, tình cảm của đối tượng tuyên truyền
mà còn phải chuẩn bị tốt tâm thế cho người nghe, để họ sẵn sàng đón nhận, tiếp
thu và hành động sau khi được tuyên truyền.
Trong hoạt động tuyên
truyền, báo cáo viên là chủ thể của hoạt động tuyên truyền, người nghe là chủ
thể của hoạt động lĩnh hội thông tin. Vì vậy, xét về khía cạnh tâm lý, hoạt
động tuyên truyền là sự tác động của chủ thể tâm lý này đối với chủ thể tâm lý
khác.
- Lê-nin đòi hỏi người tuyên
truyền phải nghiên cứu đặc điểm tâm lý của các tầng lớp nhân dân trong quá
trình tuyên truyền. Người khuyên: "Cần phải thâm nhập vào quần chúng và
học hỏi ở họ một cách kiên trì, bền bỉ thì mới hiểu được các thuộc tính, đặc
trưng tâm lý đa dạng ở mỗi tầng lớp, mỗi nghề của họ" Lê-nin toàn tập, NXB
Tiến bộ Mátxcơva, tiếng Việt, tập 41, tr 192.
* Tâm lý học tuyên truyền.
Tâm lý học tuyên truyền là
một môn khoa học, nghiên cứu các hiện tượng, quy luật, các cơ chế tâm lý ảnh
hưởng đến hiệu quả tiếp nhận thông tin của đối tượng tuyên truyền.
Như vậy, khoa tâm lý học
trong hoạt động tuyên truyền đòi hỏi báo cáo viên vừa phải nắm chắc nội dung,
vừa phải có khả năng dự đoán được những phản ứng của đối tượng, với mục đích để
nội dung tuyên truyền được tiếp thu một cách nhanh nhất; thúc đẩy hành động của
đối tượng một cách nhanh nhất; thúc đẩy hành động của đối tượng một cách tích
cực nhất.
Để đạt được yêu cầu đó,
ngoài việc nắm bắt nhu cầu thông tin của đối tượng, báo cáo viên còn phải biết
tác động đến đối tượng trong không gian, thời gian thích hợp, biết phân tích sự
xuất hiện các yếu tố các quy luật tâm lý, khai thác và vận dụng để tạo sự hứng
thú và quan tâm chú ý của đối tượng tiếp cận với chủ đề tuyên truyền.
* Tâm thế và tính tích cực trong hoạt động tuyên truyền.
Tâm thế trong tuyên truyền
là một trạng thái tâm lý hoàn chỉnh. Chuẩn bị về tâm thế của báo cáo viên là sự
chuẩn bị về thế lực và trí lực để tham gia vào hoạt động tuyên truyền, đồng
thời tạo tâm thế chủ động, tích cực cho người nghe nhằm đem lại hiệu quả cao
cho hoạt động đó.
- Yếu tố đầu tiên tạo ra tâm
thế là nhu cầu thông tin của người nghe. Tuỳ từng thời điểm khác nhau, đối
tượng khác nhau mà nhu cầu thông tin có cấp độ và ý nghĩa khác nhau. Vì vậy,
báo cáo viên phải tìm hiểu, nắm bắt nhu cầu thông tin của người nghe để có
phương thức và nội dung tuyên truyền phù hợp, làm cho nhu cầu thông tin phù hợp
với định hướng thông tin của người tuyên truyền.
- Trình độ nhận thức của
người nghe, sự hiểu biết khác nhau sẽ tạo ra tâm thế khác nhau khi tiếp thu
cũng như khi thực hiện mục đích tuyên truyền.
- Môi trường khách quan (môi
trường vật lý, một trường tâm lý) cũng là một yếu tố tạo ra tâm thế của đối
tượng tuyên truyền.
- Tâm thế của người được
tuyên truyền thường có các dạng tâm thế chủ động và tâm thế bị động (muốn nghe
và phải nghe); tâm thế phủ định và tâm thế khẳng định (không nhất trí và nhất
trí). Các loại tâm thế trên ảnh hưởng lớn đến kết quả tiếp nhận nội dung tuyên
truyền. Người tuyên truyền khi nắm được các trạng thái tâm lý đó sẽ có biện
pháp để tác động có hiệu quả vào người được tuyên truyền.
* Các quá trình tâm lý ảnh hưởng đến hiệu quả tuyên truyền.
- Trong tuyên truyền miệng,
các quá trình tâm lý như: cả giác, tri giác, hình thành biểu tượng, tư duy...
có thể tác động hướng người nghe tới việc tiếp thu nội dung tuyên truyền một
cách tích cực hoặc tiêu cực (hào hứng hoặc bàng quan). Các hiện tượng của trạng
thái tinh thần, tình cảm của người nghe như: sảng khoái hay buồn rầu, hăng hái
hay thờ ơ, mệt mỏi cũng tác động đến sự tiếp thu thông tin của họ.
- Các yếu tố khác, như dư
luận xã hội, truyền thống địa phương, dân tộc... mối quan hệ vốn có giữa người
tuyên truyền và đối tượng tuyên truyền... đều ảnh hưởng đến quá trình tâm lý
của người nghe.
* Các nhiệm vụ tâm lý đặt ra đối với người tuyên truyền.
Để nội dung tuyên truyền có
tác dụng sâu sắc đến đối tượng tuyên truyền, báo cáo viên cần giải quyết tốt
những yêu cầu tâm lý sau:
- Thiết lập sự giao lưu, tạo
ra mối quan hệ đồng cảm giữa báo cáo viên với người nghe: đó là sự tin cậy lẫn
nhau, cùng quan tâm đến vấn đề sẽ đề cập.
- Tổng hợp các đặc điểm của
từng đối tượng thông qua trao đổi với cấp uỷ và đơn vị, cơ quan nơi báo cáo
viên thuyết trình để nắm bắt các mặt chủ yếu như: thành phần, trình độ học vấn,
nghề nghiệp, tuổi tác, dân tộc, tôn giáo..., từ đó nắm được những đặc điểm tâm
lý của họ.
Các Mác, Lê-nin nhắc nhở
người tuyên truyền: khi phát biểu trước công chúng, phải luôn luôn hướng tới
họ, cố gắng tìm hiểu xem họ đang lo lắng, băn khoăn điều gì?
Bác Hồ dạy: "Tuyên
truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu
không đạt được mục đích đó, là tuyên truyền thất bại". (Hồ Chí Minh về
công tác tư tưởng, NXB Sự Thật, Hà Nội 1965, tr 167).
- Xác định đúng hình thức và
phương pháp kích thích nhu cầu nhận thức của người nghe. Để làm được điều này,
báo cáo viên phải nắm được nhu cầu người nghe và đem đến cho họ những nội dung
thông tin mới, cách tiếp cận và phân tích những vấn đề mới.
- Nắm chắc nội dung, đối
tượng cùng với tình cảm, sự hưng phấn, sự nhiệt tình của báo cáo viên có ảnh
hưởng trực tiếp tới tình cảm và tư duy của đối tượng tuyên truyền. Khi thuyết
trình, cần vận dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp mang tính sáng tạo,
phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội. Báo cáo viên phải có những phẩm chất
như: tính lý luận cao, tính nguyên tắc, tính thuyết phục, có kiến thức và vốn
sống phong phú, gần gũi và tôn trọng người nghe... Khi tuyên truyền cần chủ
động vận dụng các phương pháp như: sử dụng các phương tiện trực quan, nêu câu
hỏi, dẫn các dữ liệu, mẫu chuyện sinh động, dùng những câu ngạn ngữ, thành ngữ.
Cần sử dụng ngôn ngữ trong sáng, tế nhị, đa dạng về nhịp điệu, ngữ điệu...
tránh đều đều, đơn điệu, cứng nhắc.
b) Giao tiếp và đối thoại
trong tuyên truyền miệng
Con người là tổng hoà của
các mối quan hệ xã hội. Con người không thể sống, hoạt động và thỏa mãn các nhu
cầu vật chất, tinh thần nếu không giao tiếp. Đối với tuyên truyền miệng, giao
tiếp là một thành phần cơ bản, là đòi hỏi không thể thiếu được trong thuyết
trình, đối thoại của báo cáo viên.
- Giao tiếp có ba loại: giao
tiếp thông qua hành động với tập thể, tức thông qua hoạt động có đối tượng;
giao tiếp bằng ngôn ngữ, bao gồm tiếng nói và chữ viết; giao tiếp bằng cử chỉ,
nét mặt, ánh mắt điệu bộ (phi ngôn ngữ).
- Trong hoạt động tuyên
truyền miệng, ngôn ngữ nói là công cụ chủ yếu của người tuyên truyền, được sử
dụng dưới hai hình thức: độc thoại và đối thoại.
+ Ngôn ngữ độc thoại là ngôn ngữ một người nói
cho một hoặc nhiều người khác nghe. Báo cáo viên phải có ngôn ngữ trong sáng,
chính xác, dễ hiểu và có khả năng tuyền cảm. Ngôn ngữ độc thoại được sử dụng
chủ yếu trong thuyết trình.
+ Ngôn ngữ đối thoại là ngôn ngữ dùng để trao
đổi thông tin giữa báo cáo viên với một hoặc nhiều người. Ngôn ngữ đối thoại có
tính chất tình huống, liên quan chặt chẽ đến hoàn cảnh đối thoại, thường không
chặt chẽ, câu thường rút gọn, có sự hỗ trợ của giao tiếp phi ngôn ngữ.
- Trong tuyên truyền miệng,
rèn luyện kỹ năng sử dụng từ có vai trò quan trọng. Nguyên tắc cơ bản dùng từ
đúng âm thanh, đúng ý nghĩa, nếu không sẽ làm người nghe hiểu sai nội dung. Nói
là để người khác hiểu đúng ý định của mình. Cho nên, nói vội vàng, dùng từ sai
hoặc dùng từ "có sẵn" sáo mòn... sẽ không có tác dụng, thậm chí có
thể làm cho người nghe khó chịu, hoặc không hiểu.
- Đối thoại trong tuyên
truyền miệng là quá trình trao đổi thông tin giữa báo cáo viên với người nghe,
nhằm thực hiện dân chủ trong tuyên truyền, tăng cường thông tin hai chiều, hạn
chế việc thông tin áp đặt, một chiều. Trong đối thoại, báo cáo viên vừa là
người nói, vừa là người nghe, người cung cấp thông tin. Do vậy, báo cáo viên
vừa biết nói tốt, vừa phải biết gợi mở, nêu vấn đề để người nghe nói đúng những
vấn đề quan tâm. Để đạt được yêu cầu này, quá trình đối thoại nên mang tính
chất trao đổi, tạo bầu không khí tin tưởng, gần gũi và chân thành. Trong quá
trình đối thoại cần cố gắng tìm hiểu thông tin về một số đặc điểm của người đối
thoại. Khi cần có thể tại không khí tranh luận để bổ sung, củng cố nội dung
tuyên truyền.
- Trong tuyên truyền miệng,
cần vận dụng một số phương pháp dạy học để thực hiện thuyết trình một cách có
hệ thống đảm bảo tính khoa học, tính giáo dục, tính thực tiễn của nội dung
tuyên truyền. Đó là các phương pháp nêu vấn đề, đặt câu hỏi và trả lời, giả
định, phản đề, thuận đề, sử dụng bảng biểu... Trong điều kiện thuận lợi có thể
sử dụng các giáo cụ trực quan, phim ảnh, đèn chiếu và vi tính hóa hoạt động
tuyên truyền.
3.2 Những nội dung cơ bản
của quá trình trình bày bài nói:
Sau khi chuẩn bị đề cương
bài nói bằng ngôn ngữ viết làm cơ sở cho quá trình thực hiện tuyên truyền
miệng, quá trình trình bày bài nói là quá trình thực hiện đề cương và có tính
chất quyết định đến sự thành công của toàn bộ hoạt động tuyên truyền miệng.
a) Những vấn đề cần nắm vững
khi trình bày bài tuyên truyền miệng
Ngôn ngữ, văn phong bài nói:
Ngôn ngữ, văn phong bài nói:
- Ngôn ngữ vừa là tiền đề
vừa là kết quả của quá trình phát triển xã hội. Nếu nói con người đã tạo ra
ngôn ngữ thì chính ngôn ngữ đã gián tiếp tạo ra con người. Ngôn ngữ là hình
thức thể hiện của tư duy, giữa vai trò quan trọng trong việc hình thành ý thức.
- Ngôn ngữ là phương tiện
chủ yếu của báo cáo viên, là yếu tố cực kỳ quan trọng để thực hiện và nâng cao
chất lượng bài nói. Người báo cáo viên phải có ngôn ngữ phong phú để trình bày
chính xác những khái niệm, sự vật, hiện tượng và những quan điểm, quan niệm, sự
kiện...
Trong tuyên truyền miệng,
tiêu chuẩn cơ bản của lời nói tốt bao gồm: tính chính xác, tính đúng đắn và
tính thẩm mỹ.
+ Tính chính xác: đó là sự
thống nhất giữa nội dung thông tin, những tư liệu, sự kiện đã được khẳng định
và sự diễn đạt bằng những phương tiện ngôn ngữ những nội dung đó.
Tính chính xác đòi hỏi báo
cáo viên phải có từ ngữ chính xác về mức độ, khách quan nội dung của vấn đề, sự
vật, hiện tượng, diễn ra trung thành, làm nổi bật vấn đề mà báo cáo viên trình
bày.
+ Tính đúng đắn: ngôn ngữ
của báo cáo viên sử dụng phải được mọi người thừa nhận và được coi là mẫu mực
bởi phù hợp với chuẩn mực ngôn ngữ.
+ Tính thẩm mỹ: đó là vẻ đẹp
và sự hấp dẫn của lời nói, làm tăng sự thích thú của người nghe trên cơ sở
những ngôn từ có chọn lọc được sử dụng chính xác, đúng đắn, phù hợp, văn
hóa..., mà không hoa mỹ một cách cầu kỳ, quá mức cần thiết, không phù hợp với
đối tượng.
Có được tiêu chuẩn của lời
nói đẹp, báo cáo viên mới diễn tả ý tưởng của mình một cách chân thành, sáng
sủa, chính xác và có sức thuyết phục người nghe.
* Sử dụng tư liệu thực tế
Sử dụng tư liệu thực tế
trong bài nói thể hiện tính thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, làm tăng tính
cụ thể trong nội dung tuyên truyền, làm cho bài nói thêm sinh động, hấp dẫn và
thuyết phục người nghe. Tư liệu thực tế được dùng để chứng minh, làm rõ một
luận điểm đó trong bài nói.
- Tư liệu thực tế phải đảm
bảo tính chính xác, chân thực khách quan, phù hợp với đề tài, đặc điểm, trình
độ người nghe và đặc biệt báo cáo viên phải sử dụng một cách nhuần nhuyễn, đúng
lúc, đúng chỗ.
- Tài liệu thực tế chỉ có
sức thuyết phục khi nó gần gũi, dễ hiểu, chính xác, rõ ràng, đã được kiểm
nghiệm hoặc thực hiện trong thực tế cuộc sống, phù hợp với nhận thức, những
chuẩn mực và thang bậc giá trị chung của toàn xã hội.
- Khi sử dụng tư liệu, dẫn
chứng thực tế để minh họa trong bài nói, báo cáo viên cần bám sát đề cương,
đồng thời linh hoạt, tránh vận dụng cứng nhắc, gượng ép. Điều cần chú ý là
không sử dụng tư liệu lặp đi, lặp lại trong một bài nói, hoặc ở những đơn vị,
đối tượng mà mình thường báo cáo.
* Sử dụng kênh phi ngôn ngữ
- Ưu thế đặc trưng của tuyên
truyền miện là người tuyên truyền có thể sử dụng kênh phi ngôn ngữ trong hoạt
động tuyên truyền. Nếu biết sử dụng tốt, kênh phi ngôn ngữ không chỉ là sự bổ
sung mà còn làm nhân lên hiệu quả của sự tuyên truyền.
- Kênh phi ngôn ngữ là các
hoạt động không dùng ngôn ngữ lời nói của người tuyên truyền trong buổi tuyên
truyền. Đó là tư thế, cử chỉ, ánh mắt, nụ cười, thái độ, hành vi khi tiến hành
tuyên truyền.
- Yêu cầu của kênh phi ngôn
ngữ là phải tự nhiên, hợp lý, gắn với nội dung và hợp lý với từng loại đối
tượng, bối cảnh tuyên truyền. Báo cáo viên cần tránh "biểu diễn",
"diễn kịch" khi tuyên truyền, làm cho tác dụng tuyên truyền hạn chế,
thậm chí phản cảm. Việc kể chuyện vui gây hưng phấn, làm cho buổi nói chuyện đỡ
căng thẳng là cần thiết, nhưng tránh "cù" một cách gượng gạo, tếu
táo, thô thiển...
b) Những bước đi cụ thể của
quá trình trình bày tuyên truyền miệng
* Trước khi nói:
Báo cáo viên cần chuẩn bị
thêm các nội dung sau:
- Xác định lại một lần nữa
về nội dung. Cần hình dung lại toàn bộ cấu trúc bài nói, suy nghĩ về cách trình
bày, có thể nói thầm, nói nhỏ những vấn đề quan trọng. Đây là việc cần thiết,
nhất là với đối tượng mới hoặc thực tiễn của buổi nói chuyện khác với những gì
người báo cáo viên đã chuẩn bị hoặc theo giới thiệu của người mời.
- Chuẩn bị kỹ về cá nhân như
trang phục, đầu tóc... Điều này thể hiện sự tôn trọng, gần gũi đối tượng; phù
hợp với bối cảnh buổi nói, hòa đồng với người nghe.
- Chủ động sắp xếp thời
gian, nắm vững địa điểm diễn ra buổi nói chuyện, đến sớm 5 - 10 phút để tiếp
xúc với cấp uỷ, lãnh đạo đơn vị hoặc người nghe và tiếp cận với hội trường. Có
thể nêu ý kiến đề nghị điều chỉnh ánh sáng, âm thanh, nơi đặt micrô, loa, lọ
hoa, bục... phù hợp với không gia của hội trường, tạo thuận lợi cho báo cáo
viên khi thuyết trình.
* Bắt đầu nói:
- Bắt đầu buổi nói chuyện có
tác dụng quan trọng trong gây sự chú ý và thiện cảm. Thông thường báo cáo viên
không nên vội vàng bắt đầu nói ngay mà cần tạo sự chú ý ban đầu. Khi bước lên
bục, cần làm nhiệm vụ "tổ chức người nghe", dùng ánh mắt, tư thế để
tập trung sự chú ý của họ.
- Trong giai đoạn bắt đầu
nói thường xảy ra tình huống:
+ Người nói bị hồi hộp:
Hồi hộp là một trạng thái
tâm lý xúc cảm tiêu cực, dẫn đến hành động lúng túng, bị động, không tự chủ của
báo cáo viên. Nguyên nhân của hồi hộp có nhiều, cả chủ quan và khách quan và
bất kỳ báo cáo viên nào cũng có thể bị rơi vào trường hợp này. Để khắc phục hồi
hộp có thể thực hiện theo 4 cách sau:
Một là, hít thật sâu và thở
ra từ từ vài lần.
Hai là, thay đổi trạng thái
bằng cách bình tĩnh thay đổi lọ hoa, sửa micrô, chai nước, giáo án, lau kính...
Ba là, nhìn xuống khán giả,
tìm ánh mặt đồng cảm, những người có tâm thế chủ động và tâm thế khẳng định để
tìm sự thông cảm.
Bốn là, nói thẳng với khán
giả là tôi hồi hộp quá để tìm sự ủng hộ.
+ Người nghe ồn ào, không
tập trung. Trường hợp này dễ xảy ra trong các buổi nói chuyện. Báo cáo viên cần
bình tĩnh, tạo ra sự ổn định và sự tập trung chú ý bằng cách nói to, nói chậm,
từng từ và rõ ràng, có thể nhắc lại một vài lần một câu nói.
+ Người nghe ồn ào, tỏ thái
độ phản ứng không đồng tình với người nói. Trong trường hợp này cần bình tĩnh,
tỏ thái độ nhân nhượng bước đầu, tìm sự thiện cảm của người nghe rồi tìm cách
làm chủ diễn đàn, thể hiện nội dung bài nói. Tuyệt đối không tranh luận với số
đông khi mới bắt đầu.
Để việc xử lý các tình huống trên tốt nhất, báo cáo viên phải chuẩn bị thật tốt bài nói, nắm chắc nội dung, có kiến thức sâu rộng, phong phú về lý luận và thực tiễn, có bản lĩnh chính trị vững vàng, chủ động và ứng xử linh hoạt.
Để việc xử lý các tình huống trên tốt nhất, báo cáo viên phải chuẩn bị thật tốt bài nói, nắm chắc nội dung, có kiến thức sâu rộng, phong phú về lý luận và thực tiễn, có bản lĩnh chính trị vững vàng, chủ động và ứng xử linh hoạt.
- Khi bắt đầu, khẩu ngữ
"kính thưa, hoặc thưa..." rất quan trọng, thể hiện thái độ trân trọng
với người nghe. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở người tuyên truyền phải lễ độ,
thái độ này phải thể hiện ở ngay câu nói đầu tiên.
- Giới thiệu tóm tắt đề
cương cơ bản của bài nói để người nghe chủ động theo dõi. Phần giới thiệu ngắn
gọn, cần nói rõ bài nói có mấy phần, thời gian bao lâu, có nghỉ giải lao không,
có đối thoại không.
* Trong khi nói:
- Báo cáo viên thực hiện bài
nói qua hai kênh: ngôn ngữ và phi ngôn ngữ.
Kênh ngôn ngữ thể hiện bằng
các yếu tố ngữ âm, ngữ điệu, nhịp độ và ngừng giọng.
Ngữ âm là cường độ của âm
thanh, nói to, nói nhỏ phù hợp với hội trường. Không nói to quá hoặc nhỏ quá.
Ngữ điệu thể hiện sự lên giọng
cần thiết cho một câu. Cần tránh hiện tượng nói nhanh quá nuốt âm hoặc
"nuốt âm cuối" khi xuống giọng ở cuối câu.
Nhịp độ thể hiện nói nhanh
hay chậm. Nói chung không nên nói nhanh quá dẫn đến nuốt từ, người nghe không
kịp nhận biết nội dung của câu nói.
Ngừng giọng hoặc lặp lại
những cụm từ chủ yếu để tạo ấn tượng, tập trung sự chú ý.
Kênh phi ngôn ngữ thể hiện
chủ yếu bằng những hành vi như tư thế, cử động, cử chỉ, ánh mắt, nụ cười...
Những hoạt động này cần hết sức linh hoạt, được diễn tả phù hợp và ăn khớp với
nội dung (tránh những cử chỉ động tác thừa, cứng nhắc gây phản cảm với người
nghe). Có thể sử dụng các thủ thuật như đứng tại bục, đi lại (khi có micrô cầm
tay) và tiếp cận với người nghe. Trong khi nói có thể sử dụng điệu bộ bằng
tay,... để mô tả lời nói, nhưng không nên vung tay quá mức. Sự hài hước gây
cười một cách tế nhị, tạo không khí biểu lộ tình cảm, thái độ là cần thiết,
nhưng không được thái quá.
- Khi nói báo cáo viên có
thể giải thích và chứng minh, tức diễn dịch và quy nạp hoặc kết hợp cả hai
phương pháp này.
+ Phương pháp diễn dịch xuất
phát từ một luận điểm, báo cáo viên dùng tài liệu, tư liệu thực tế để làm sáng
tỏ từng phần của luận điểm đó. Đây là phương pháp diễn giải, dễ thực hiện, có
thể áp dụng phổ biến đối với mọi đối tượng người nghe, nhưng cuối cùng cần chốt
lại luận điểm chung.
+ Phương pháp quy nạp là từ
nhiều hiện tượng, sự kiện có tính riêng lẻ sau khi đã phân tích dưới nhiều khía
cạnh, góc độ khác nhau để nêu lên luận điểm, luận đề, nhận định có tính tổng
hợp, khái quát cao. Phương pháp này đòi hỏi báo cáo viên phải biết lựa chọn sự
kiện, tài liệu thật sinh động để dẫn dắt, thuyết phục người nghe thống nhất
quan điểm với mình. Phương pháp này phù hợp với đối tượng là tri thức, những
người có khả năng tổng hợp, khái quát cao.
+ Trong cùng một bài nói có
thể vận dụng từng phương pháp để diễn đạt ở các phần khác nhau. Đó là sự kết
hợp cả hai phương pháp giải thích và chứng minh, diễn dịch và quy nạp trong
cùng một bài nói.
- Khi trình bày bài nói, báo
cáo viên phải chú ý đến bố cục của bài nói cho cân xứng, tránh sa đà vào một
nội dung để "đầu voi, đuôi chuột", cháy giáo án. Khi phân tích, chẻ
nhỏ vấn đề cần chú ý đến "sự quay về" điểm xuất phát, tránh
"quên đường về", không biết mình đang trình bày phần nào của bài.
Tuy nhiên, dù vận dụng
phương pháp nào cũng cần ghi nhớ lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Nói
phải gọn gàng, có đầu, có đuôi, có nội dung... Nói ít, nhưng nói cho thấm thía,
nói cho chắc chắn, thì quần chúng thích hơn. Muốn nói gì phải chuẩn bị trước"
(Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng, NXB Sự Thật, Hà Nội 1965, tr. 167).
- Khi trình bày bài nói, báo
cáo viên phải tường xuyên bao quát hội trường, quản lý buổi nói chuyện, theo
dõi người nghe đang tiếp thu bài nói của mình như thế nào để chủ động điều chỉnh
nội dung và phương pháp trình bày, phải duy trì trật tự trong hội trường vì lợi
ích của số đông. Việc quản lý sự chú ý của người nghe là trách nhiệm của báo
cáo viên trong suốt quá trình trình bày bài nói của mình, do vậy báo cáo viên
phải luôn luôn làm chủ mọi tình huống để đảm bảo buổi nói chuyện có kết quả.
- Trong quá trình nghe báo
cáo, người nghe có thể mệt mỏi do tác động khách quan (thời tiết, tiếng ồn...)
báo cáo viên phải sử dụng một số thủ thuật để thay đổi không khí trong hội
trường, tạo sự chú ý của người nghe như: dùng âm điệu, ngôn ngữ biểu cảm,
phương tiện trực quan (nếu có), các thủ pháp gây cười, tạo không khí sôi nổi,
thậm chí có thể cho nghỉ giải lao đột xuất nếu có sự cố nào đó.
- Nếu có một bộ phận người
nghe thiếu tập trung, báo cáo viên cần nhanh chóng xác định nguyên nhân. Nếu do
phương pháp trình bày, báo cáo viên phải kịp thời điều chỉnh cách nói. Nếu
người nghe có biểu hiện không đồng tình, phản ứng với điều vừa nói, báo cáo
viên cần tìm cách "hòa hoãn", cố gắng xác định nhanh nguyên nhân, để
lái vấn đề, cùng người nghe đối thoại, tạo sự đồng thuận.
- Trong quá trình nói, báo
cáo viên có thể thực hiện đối thoại với người nghe, khi đối thoại cần chú ý:
+ Cần khêu gợi và hướng
người nghe nêu câu hỏi, tập trung vào nội dung và chủ đề tuyên truyền.
+ Luôn có thái độ cầu thị,
tôn trọng, chú ý lắng nghe câu hỏi của người nghe để trả lời rõ ràng, đúng và
trúng yêu cầu của câu hỏi. Những vấn đề chưa rõ hoặc chưa thể trả lời thì khéo
léo đề nghị để trả lời riêng hoặc xin hẹn vào dịp khác. Không trả lời những vấn
đề chưa nắm vững. Nếu có nhiều người nghe nêu câu hỏi, báo cáo viên có thể trả
lời từng câu hỏi hoặc có thể để người nghe nêu nhiều câu hỏi, rồi lần lượt trả
lời từng vấn đề hoặc theo cụm vấn đề.
Trong tập thể đông, có câu
hỏi không đại diện cho số đông, nên đề nghị được trả lời riêng.
Trả lời câu hỏi trong thực
hiện đối thoại là một vấn đề khó, báo cáo viên phải bình tĩnh ứng xử nhanh. Do
vậy để đối thoại tốt, báo cáo viên phải tích luỹ kinh nghiệm, rèn luyện kỹ
năng, có sự hiểu biết rộng và sâu, cả về thực tiễn và sự đa dạng của kiến thức
trên các lĩnh vực.
* Kết thúc bài nói.
Đây là phần tổng kết bài nói
chuyện. Yêu cầu phải để lại "dư âm", "ấn tượng" của bài nói
theo hướng thúc đẩy quan hệ và tạo thiện cảm, tránh nặng nề.
Báo cáo viên có thể kết thúc
bài nói bằng nhiều cách: hệ thống toàn bộ bài nói một cách ngắn gọn; khái quát
hoặc chốt lại những vấn đề cơ bản nhất của nội dung tuyên truyền..., trên cơ sở
đó rút ra kết luận định hướng tư tưởng, kêu gọi hành động của mọi người.
Thời điểm này có thể người
nghe đặt thêm câu hỏi, báo cáo viên căn cứ vào nội dung và thời gian để trả lời
chung hoặc xin trả lời riêng.
Cân kết thúc bài nói chuyện sớm hơn thời gian ấn định khoảng 5 - 7 phút, tuyệt đối không nên kéo dài quá giờ, dù chỉ là 1 - 2 phút, gây ức chế về tâm lý người nghe.
Cân kết thúc bài nói chuyện sớm hơn thời gian ấn định khoảng 5 - 7 phút, tuyệt đối không nên kéo dài quá giờ, dù chỉ là 1 - 2 phút, gây ức chế về tâm lý người nghe.
Trước khi rời diễn đàn, báo
cáo viên cần cảm ơn người nghe đã theo dõi, cổ vũ, xin lỗi những sơ suất (nếu
có), chúc sức khỏe, tạm biệt và hẹn gặp lại người nghe trong các nội dung tuyên
truyền mới. %